Tải bản đầy đủ (.pdf) (10 trang)

Ứng dụng duoderm điều trị bỏng nông và các tổn thương giống bỏng nông tại Bệnh viện Cấp cứu Trưng vương

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (448.81 KB, 10 trang )

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 4 * 2013 

Nghiên cứu Y học

ỨNG DỤNG DUODERM ĐIỀU TRỊ BỎNG NÔNG  
VÀ CÁC TỔN THƯƠNG GIỐNG BỎNG NÔNG  
TẠI BỆNH VIỆN CẤP CỨU TRƯNG VƯƠNG 
Phạm Trịnh Quốc Khanh*, Đặng Xuân Quang*, Trần Lê Hồng Ngọc*, Nguyễn Thị Phương Trang* 

TÓM TẮT 
Đặt vấn đề: Bỏng là một bệnh lý thường gặp, trong đó 80% bệnh nhân bị bỏng nông. Bên cạnh đó, các tổn 
thương giống bỏng nông trong Tạo Hình Thẩm Mỹ ngày càng nhiều do cà da, laser điều trị các bệnh lý da cũng 
như tái tạo da ngày càng được ứng dụng rộng rãi. Hiện nay băng dán Duoderm thể hiện nhiều ưu điểm trong 
quá trình điều trị tổn thương bỏng nông và tổn thương giống bỏng nông đã được sử dụng nhiều trên thế giới; 
tuy nhiên hiện tại ở Việt Nam, Duoderm chưa được ứng dụng rộng rãi. 
Mục tiêu: Nhận xét tác dụng của Duoderm trên quá trình lành thương trong tổn thương bỏng nông và các 
tổn thương giống bỏng nông. Nhận xét kết quả sau 3 tháng điều trị bằng Duoderm trên tổn thương bỏng nông 
và các tổn thương giống bỏng nông. 
Phương pháp: Nghiên cứu tiến cứu mô tả hàng loạt ca. 
Kết quả: Qua khảo sát 40 bệnh nhân (30 bệnh nhân bỏng, 10 bệnh nhân có tổn thương giống bỏng) với 48 
tổn thương, kết quả cho thấy băng dán Duoderm giúp rút ngắn thời gian lành thương trung bình còn 8,2 ngày, 
không thấy tình trạng nhiễm trùng bỏng xuất hiện, băng dán Duoderm không gây kích ứng vùng da lành xung 
quanh, số lần thay băng trung bình chỉ 3 lần cho quá trình lành thương; bệnh nhân cảm thấy dễ chịu, ít đau khi 
thay băng. Sau ba tháng theo dõi cho thấy, phần lớn tổn thương có da đều màu với vùng da xung quanh, bề mặt 
bằng phẳng. Không ghi nhân trường hợp nào giảm sắc tố da, ít trường hợp tăng sắc tố, bệnh nhân cảm thấy hài 
lòng về mặt thẩm mỹ với băng dán Duoderm. 
Kết luận: Duoderm là một loại băng dán có tác dụng tốt đối với quá trình lành thương và hiệu quả thẩm 
mỹ cao trong điều trị các tổn thương bỏng và giống bỏng. 
Từ khóa: Duoderm, bỏng nông, tổn thương giống bỏng. 

ABSTRACT 


PRACTISING DUODERM FOR TREATMENT OF SUPERFICIAL BURNS  
AND SIMILAR SUPERFICIAL BURN INJURIES AT TRUNG VUONG EMERGENCY HOSPITAL 
Pham Trinh Quoc Khanh, Dang Xuan Quang, Tran Le Hong Ngoc, Nguyen Thi Phuong Trang 
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 17 ‐ Supplement of No 4 ‐ 2013: 81 ‐ 90 
Background: Burns are a common disease, in which 80% of patients have superficial burns. In addition, the 
similar superficial burn injuries which are created by dermabration, laser therapy are more frequently in aesthetic 
field. Duoderm shows several advantages in the treatment of superficial burn injuries and similar burn injuries, 
It were used widely in the world, but now in Vietnam, Duoderm still be applied limited.  
Objectives: Reviews the effects of Duoderm on the healing wound process of superficial burns and similar 
superficial burn injuries. Reviews the results after 3 months of treatment with Duoderm on superficial burns and 
similar superficial burn injuries. 
Method: Prospective study, describing case series. 
*

 Bệnh viện Cấp cứu Trưng Vương 
Tác giả liên lạc: Ts.Bs. Phạm Trịnh Quốc Khanh 

ĐT: 0918394362 

Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Cấp Cứu Trưng Vương 2013 

Email:  

81


Nghiên cứu Y học 

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 4 * 2013


Resultants: Survey on 40 patients (30 superficial burn patients, 10 similar superficial burn injuries) with 
48 lesions, the results showed that Duoderm bandages shorten healing wound time, it was 8.2 days on average, 
no recorded infections, they didn’t irritate normal skin around the lesions, average of dressing changes is just 3 
times for the healing wound process. Patients feel comfortable, less painful with dressing changes. After a three‐
month follow‐up, the majority of skin lesions had the same color with surrounding skin and flat surface. There 
isn’t any hypopigmentation, few cases have light hyperpigmentation, and patients feel aesthetically satisfied with 
Duoderm. 
Conclusion: Duoderm has good effects for the healing wound process and aesthetic effects in the treatment 
of superficial burns and similar superficial burn injuries. 
Keywords: Duoderm, superficial burn, similar superficial burn injuries 

ĐẶT VẤN ĐỀ 
Bỏng là một bệnh lý thường gặp trong cuộc 
sống  và  ở  mọi  lứa  tuổi  do  nhiều  nguyên  nhân 
khác nhau gây ra. Hằng năm tại Hoa Kỳ có trên 
2  triệu  người  bị  bỏng  và  khoảng  100,000  người 
phải nhập viện điều trị. Ở Châu Âu có khoảng 1 
triệu người bị bỏng hằng năm và số người phải 
nhập viện điều trị là 40,000 – 50,000 người(17). Ở 
Việt Nam số bệnh nhân bỏng hằng năm hiện tại 
chưa có số liệu thống kê chính xác nhưng được 
ước  tính  lên  đến  hằng  trăm  ngàn  người,  trong 
đó  80%  bệnh  nhân  bị  bỏng  thường  là  bỏng 
nông(17). Bên cạnh đó các tổn thương giống bỏng 
nông  trong  chuyên  ngành  Tạo  Hình  Thẩm  Mỹ 
ngày càng nhiều do những phương pháp như cà 
da, laser điều trị các bệnh lý da cũng như tái tạo 
da ngày càng được ứng dụng rộng rãi.  
Hiện nay băng dán hydrocolloid (mà nổi bật 
là Duoderm) chứa đựng nhiều yếu tố giúp thúc 

đẩy  nhanh  quá  trình  lành  thương,  thể  hiện 
nhiều  ưu  điểm  trong  quá  trình  điều  trị  tổn 
thương  bỏng  nông  và  tổn  thương  giống  bỏng 
nông.  Băng  dán  hydrocolloid  đã  được  sử  dụng 
nhiều  trên  thế  giới,  với  nhiều  nghiên  cứu  đã 
được  thực  hiện  của  Patricia  M.  Mertz  (1985)(14), 
Perrot  J.,  H.  Carsin,  J.  Gilbaud  (1986)(15).  Tuy 
nhiên hiện tại ở Việt Nam, chưa có nghiên cứu 
nào  được  tiến  hành  cũng  như  chưa  được  ứng 
dụng  rộng  rãi  băng  dán  hydrocolliod.  Do  vậy, 
chúng  tôi  tiến  hành  nghiên  cứu:  “Ứng  dụng 
Duoderm  điều  trị  tổn  thương  bỏng  nông  và  các 
tổn  thương  giống  bỏng  nông  tại  bệnh  viện  cấp 
cứu Trưng Vương”. Với các mục tiêu sau: 

82

 Nhận  xét  tác  dụng  của  Duoderm  trên  quá 
trình lành thương trong tổn thương bỏng  nông 
và các tổn thương giống bỏng nông. 
Nhận xét kết  quả  sau  3  tháng  điều  trị  bằng 
Duoderm trên tổn thương bỏng nông và các tổn 
thương giống bỏng nông. 

TỔNG QUAN TÀI LIỆU 
Giải phẫu & sinh lý da bình thường 
Sơ lược cấu trúc giải phẫu của da(5,9,17). 

Cấu trúc mô học 
Da  chiếm  khoảng  16%  trọng  lượng  cơ  thể, 

bao bọc toàn bộ diện tích cơ thể, gồm có 3 tầng: 
biểu  bì,  trung  bì  và  hạ  bì.  Ngoài  ra  còn  có  các 
thành  phần  phụ  thuộc  da  như:  lông,  tuyến  bã, 
tuyến mồ hôi, móng.  
Phân  bố  thần  kinh:  có  hai  mạng  lưới  thần 
kinh, lớp nông: tận cùng thần kinh trần đến tiếp 
xúc  với  các  tế  bào  biểu  mô  và  các  tuyến  phụ 
thuộc da. Mạng lưới sâu gồm các thụ giác quan 
tập trung ở trung bì và hạ bì. Các thụ cảm này 
gồm xúc giác, thống giác, nhiệt độ, ngứa và kích 
thích cơ học.  

Vi cấu trúc 
Sợi  tạo  keo  (STK)  chiếm  75%  trọng  lượng 
trung bì, có 15 loại STK được ở người, trong đó 
có 7 loại tập trung chủ yếu ở da (loại I, III, IV, 
V,  VI,  VII,  VIII),  liên  quan  chặt  chẽ  với  khả 
năng chun giãn của da. Sợi chun (elastine‐SC) là 
proteine dạng sợi, nhiều thứ hai ở mô liên kết, 
chứa 80% acid amin ái nước, các SC quấn xung 
quanh STK để tạo thành hệ thống sợi thứ hai; 
khi da bị tổn thương, SC bị mất đi và được tái 

Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Cấp Cứu Trưng Vương 2013  


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 4 * 2013 
tạo  với  số  lượng  ít.  Sợi  lưới  (recticuline)  tập 
trung ít trong da, gần giống với STK. Chất nền 
(ground substance) là dung dịch rất quánh, chứa 

các  thành  phần  cấu  trúc  của  tổ  chức  liên  kết; 
gồm 
mucopolysaccharide, 
proteine, 
glycoproteine  và  muối  khoáng,  đóng  vai  trò 
quan  trọng  trong  việc  trao  đổi  các  phân  tử 
bằng hiện tượng khuếch tán. 

Quá trình lành vết thương(5,9,17) 
Giai đoạn xung huyết và viêm 
Giai đoạn viêm gồm đáp ứng mạch máu và 
đáp ứng tế bào, đặc trưng bỏi sự đông cầm máu 
và đáp ứng tế bào với tẩm nhuận bạch cầu. Đáp 
ứng viêm cấp thường trong vòng 24 đến 48 giờ 
khi bạch cầu đa nhân di chuyển vào vết thương 
và “dọn dẹp” các mảnh vụn, vật lạ cũng như vi 
khuẩn nhờ hiện tượng thực bào. Đại thực bào sẽ 
tiếp tục công việc trên đồng thời tiết ra các yếu 
tố  tăng  trưởng  có  vai  trò  quan  trọng  trong  sự 
liền vết thương. 
Giai đoạn biểu mô hoá 
Hình  thành  biểu  mô  phủ  lên  bề  mặt  vết 
thương,  bảo  vệ  vết  thương  chống  lại  sự  xâm 
nhập của vi trùng.  
Giai đoạn tăng sinh 
Bao gồm giai đoạn tạo collagen và phát triển 
mô  hạt.  Nguyên  bào  sợi  bám  vào  sợi  Fibrin  và 
bắt  đầu  tăng  sinh  trong  vòng  3–4  ngày  sau  khi 
có  vết  thương,  chúng  sản  xuất  Glycoprotein  và 
Mucopolysaccharide  là  các  chất  nền  tạo  tiền  đề 

cho  quá  trình  sản  xuất  Collagen.  Quá  trình  tạo 
mô hạt bao gồm sự lắng đọng Collagen và phát 
triển các mạch máu mới. 
Giai đoạn tái tạo 
Bắt  đầu  ngay  khi  hình  thành  mô  mới  bên 
trong  vết  thương,  khôi  phục  lại  chức  năng  và 
tính toàn vẹn của mô. Quá trình tái cấu trúc của 
mô thông qua sự cân đối giữa thoái hoá và sản 
sinh collagen. Nếu sự sản sinh vượt trội hơn sự 
thoái  hoá  sẽ  hình  thành  mô  sẹo  quá  phát  (hay 
sẹo phì đại, sẹo lồi). Đây là giai đoạn cuối cùng 
để vết thương lành hoàn toàn. 

Nghiên cứu Y học

Phân loại độ sâu bỏng 
Lê  Thế  Trung  phân  chia  thành  5  độ.  Trong 
đó,  bỏng  nông  bao  gồm  bỏng  độ  I,  II,  IIIn  và 
bỏng sâu bao gồm độ IIIs, VI, V(9,17). 
Bỏng độ I: viêm da cấp sau bỏng, biểu hiện 
ban  đỏ,  nề,  đau  rát,  sau  2  –  3  ngày  tổn  thương 
khỏi, không để lại rối loạn về màu sắc. 
Bỏng  độ  II:  bỏng  biểu  bì,  đặc  trưng  là  nốt 
phổng  vòm  mỏng,  chứa  dịch  trong  hoặc  vàng 
nhạt, đáy màu hồng ướt, chứa dịch xuất tiết, đau 
nhiều. tổn thương tự lành sau 8 ‐13 ngày, không 
để lại sẹo. 
Bỏng độ III: bỏng trung bì, được chia làm hai 
nhóm: 
Bỏng trung bì nông (IIIn):  lớp  biểu  bì  bị  hoại 

tử toàn bộ, lớp nhú trung bì bị tổn thương, vẫn 
còn nguyên các phần phụ của da. 
Bỏng trung bì sâu (IIIs): tổn thương phần lớn 
trung  bì,  chỉ  còn  một  phần  sâu  của  tuyến  mồ 
hôi. 
Bỏng  sâu  độ  IV:  bỏng  toàn  bộ  lớp  da  hoặc 
bỏng sâu tới các tổ chức dưới da.  
Bỏng độ V: tổn thương dến lớp cân, gân, cơ, 
xương,  khớp,  thần  kinh,  mạch  máu,  hoặc  các 
tạng. Bỏng độ V hay gặp trong bỏng điện, bỏng 
do kim loại nóng, bỏng lửa, người mất tri giác bị 
bỏng. 

Cách tính diện tích bỏng 
Phương pháp Blokhin 
Phương  pháp  ướm  do  bằng  bàn  tay  bệnh 
nhân. Một gan tay hoặc một mu tay bệnh nhân 
tương  ứng  với  diện  tích  1%  ‐  1,25%.  Phương 
pháp  này  hay  dùng  khi  bỏng  rải  rác,  nhỏ. 
Phương  pháp  con  số  9  của  Pulasky  E.  J., 
Tennison C. W. (1949) và Wallace A. (1951): đầu 
mặt  cổ  9%;  1  chi  trên  9%;  thân  trước  (ngực  và 
bụng)  9x2=18%;  thân  sau  (lưng  và  mông) 
9x2=18%; 1 chi dưới 9x2=18%; bộ phận sinh dục 
và tầng sinh môn 1%. 
Phương pháp con số 1‐3‐6‐9 của Lê Thế Trung 
Diện tích 1%:   Cổ  ‐  Gáy  ‐  Một  gang  tay  ‐ 
Một mu tay ‐ Tầng sinh môn. 

Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Cấp Cứu Trưng Vương 2013 


83


Nghiên cứu Y học 

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 4 * 2013

Diện tích 3%:   Da  đầu  có  tóc  ‐  Mặt  ‐  Một 
cánh tay ‐ Một cẳng tay ‐ Một bàn chân. 
Diện tích 6%:   Hai mông ‐ Một cẳng chân. 
Diện tích 9%:   Đầu  mặt  cổ  ‐  Một  chi  trên  ‐ 
Một đùi. 
Diện tích 18%:   Thân trước ‐ Thân sau ‐ Một 
chi dưới. 
Sơ  lược  về  cà  da  (dermabrasion)  và  laser 

CO2 
Cà  da:  được  người  Ai  Cập  thực  hiện  1,500 
năm  trước  công  nguyên;  nhưng  cà  da  hiện  đại 
chỉ  mới  được  thực  hiện  từ  năm  1905  do 
Kromeyer  thực  hiện,  nhằm  giải  quyết  các  sẹo 
mụn.  Từ  thập  niên  1950,  kỹ  thuật  cà  da  phát 
triển  và  được  ứng  dụng  rộng  rãi  trong  thẩm 
mỹ(16).  Các  chỉ  định  cà  da  mặt  gồm  có:  ‐  Mụn 
đang  tiến  triển  ‐  Sẹo  do  mụn  ‐  Sẹo  do  chấn 
thương  ‐  Sẹo  do  phẫu  thuật  ‐  Da  bị  lão  hóa  do 
ánh nắng mặt trời ‐ Điều trị các nếp nhăn ở mặt ‐ 
Rối loạn sắc tố ‐ Bệnh mũi bị biến dạng, sần sùi 
giống mũi lân (Rhinophyma). 

Laser  CO2:  bước  sóng  10600nm.  Sóng  laser 
CO2  được  hấp  thu  bởi  nước  trong  mô  mềm(11). 
Laser  CO2  có  chỉ  định  giống  như  phương  pháp 
cà  da(16).  Độ  sâu  tổn  thương  tùy  thuộc  vào  loại 
xung, tần số, năng lượng xung. Có tác dụng cầm 
máu, điều chỉnh chính xác độ sâu tổn thương da 
hơn so với cà da. 

Duoderm CGF 
Duoderm CGF là một loại băng dán kín hơi 
được  cấu  tạo  nên  bởi  3  loại  hydrocolloid  và 
polyisobutylene  ở  lớp  bên  trong  và  lớp  xốp 
polyurethane ở lớp ngoài. 
Lớp trong: với 3 loại hydrocolloid, Duoderm 
CGF tạo một môi trường lý tưởng cho quá trình 
lành  thương(12).  Những  loại  gel  hỗ  trợ  lành 
thương: 3 loại hydrocolloid hấp thu dịch tiết sẽ 
sinh ra 3 loại gel hỗ trợ lành thương khác nhau. 
(1)  gelatin  (2)  pectin  (3)  Sodium 
Carbonxymethylcellulose  (CMC).  Những  loại 
gel  này  giúp  hấp  thu  dịch  tiết,  tạo  môi  trường 
ẩm cũng như giúp cố định những cấu trúc thành 
phần  của  hydrocolloid  với  nhau,  không  dễ  bị 

84

phá vỡ ‐  Thúc đẩy phân huỷ fibrin  và  mô  hoại 
tử:  duoderm  tạo  điều  kiện  để  tăng  hoạt  động 
của  bạch  cầu  đa  nhân  trung  tính  và  đại  thực. 
Tính chất này của Duoderm không có ở những 

loại băng hydrocolloid khác hiện nay ‐ Cung cấp 
môi trường ẩm có tính acid: giúp nguyên bào sợi 
tổng hợp collagen và tế bào nội mô hình thành 
mạch máu.  
Lớp ngoài polyurethane tạo một môi trường 
kín giúp hạn chế thoát hơi ẩm, giúp đại thực bào 
hoạt  động,  từ  đó  tăng  nhanh  quá  trình  hình 
thành  mạch  và  tổng  hợp  collagen(3,12,4)  ‐ 
Duoderm qua nhiều nghiên cứu đã chứng minh 
được khả năng giúp lành thương nhanh hơn so 
với  gạc  thông  thường(7)  ‐  Duoderm  giúp  bệnh 
nhân  cảm  giác  thoải  mái  hơn  cũng  như  giúp 
giảm  thời  gian  thay  băng  vết  thương  do 
Duoderm  có  thể  kéo  dài  tối  đa  trong  vòng  7 
ngày cho một lần thay băng. 
Chỉ định: Loét tĩnh mạch, loét tì đè, vùng lấy 
da ghép, bỏng nông và những tổn thương nhỏ. 
Chống  chỉ  định:  Không sử dụng ở vùng lộ 
cơ,  gân  hay  xương;  Không  sử  dụng  với  bệnh 
nhân có biết dị ứng với bất kỳ thành phần nào 
của duoderm; Không sử dụng trong tổn thương 
bỏng sâu. 
Một  số  chú  ý  khi  sử  dụng  Duoderm:  luôn 
phải  chăm  sóc  bệnh  nhân  toàn  diện.  Dịch  vết 
thương khi được giữ trong thời gian dài, có thể 
gây  kích  ứng,  đỏ  da  lành  xung  quanh  vết 
thương. Đôi khi có mùi hôi khó chịu, mùi này sẽ 
mất  khi  làm  sạch  vết  thương.  Khi  dịch  tiết  vết 
thương  tràn  ra  rìa  mép  băng  dán,  phải  thay 
ngay để đảm bảo khả năng ngăn vi khuẩn. Tháo 

Duoderm trước khi bệnh nhân có điều trị tia bức 
xạ kéo dài (tia x, siêu âm, nhiệt hay vi sóng). 

ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP 
Đối tượng nghiên cứu 
40 bệnh nhân có tổn thương bỏng nông độ 2, 
độ 3a và các tổn thương giống bỏng nông độ 2, 
độ  3a  điều  trị  tại  khoa  Bỏng‐THTM  từ  01‐12‐
2012 đến 30‐09‐2012. 

Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Cấp Cứu Trưng Vương 2013  


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 4 * 2013 
Thiết kế nghiên cứu 
Nghiên cứu tiến cứu mô tả hàng loạt ca 

Tiến hành nghiên cứu 
Bệnh  nhân  được  tiến  hành  thay  băng  lần 
đầu  và  các  lần  tiếp  theo  bằng  Duoderm.  Việc 
thay băng được phụ trách bởi điều dưỡng.  
Đánh  giá  quá  trình  lành  thương,  hình  thái 
tổn  thương  bởi  bác  sĩ  trong  nhóm  nghiên  cứu 
dựa theo bảng thu thập số liệu. 
Đánh  giá  về  mức  độ  thoải  mái,  tính  thẩm 
mỹ, mức độ  đau  do  bệnh  nhân  đánh  giá.  Theo 
mức độ từ 1 đến 5.  
Khám  cảm  giác  đau  vùng  tổn  thương  khi 
thay băng, cảm giác đau được đánh giá qua cảm 
giác chủ quan của người bệnh, theo thang điểm 

5 bậc của Frank A.J.M. và CS (1982)(6) kết hợp với 
phương pháp quan sát nét mặt người bệnh của 
Lê Thế Trung (1995): 
Không  đau:  không  kêu  đau  +  nét  mặt  bình 
thường. 
Đau nhe: kêu đau ít + nhăn mặt. 
Đau vừa: kêu đau vừa + nhăn mặt + rên khẽ. 
Đau  nhiều:  kêu  đau  nhiều  +  nhăm  mặt  + 
khóc.  

Nghiên cứu Y học

Thu  thập  dữ  liệu  ‐  xử  lý  và  phân  tích  số 
liệu 
Chụp hình, đánh giá tiến triển lành của tổn 
thương bỏng và tổn thương giống bỏng trước –
trong ‐  sau  khi  điều  trị  được  3  tháng,  ghi  nhận 
các  đánh  giá  của  bệnh  nhân  dựa  vào  bảng  thu 
thập số liệu.  
Xử lý số liệu theo phương pháp thống kê y 
học với phần mềm SPSS 15.0  

KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU 
Đặc điểm chung mẫu nghiên cứu:  
Tuổi 
Trung bình:  

39,08 ± 12,32 tuổi 

Nhỏ nhất: 


16 

Lớn nhất: 

77 

Giới 
Trong lô nghiên cứu tỉ lệ nữ : nam = 17 : 8 = 
2,125: 1. Như vậy, nữ gấp đôi nam. 

Đặc điểm tổn thương 
Dạng tổn thương 
Trong 40 bệnh nhân, có 30 bệnh nhân bỏng 
và 10 bệnh nhân tổn thương giống bỏng. 

Đau rất nhiều: la hét + nhăn mặt + giãy giụa. 

Quy trình thay băng 
Vùng tổn thương được làm sạch bằng nước 
muối sinh lý NaCl 0,9%. 
Vùng da lành xung quanh tổn thương được 
làm sạch rộng cách rìa tổn thương ít nhất # 3cm 
bằng betadine, sau đó lau sạch bằng nước muối 
sinh lý NaCl 0,9%. Lau khô. 
Băng  Duoderm  CGF  che  phủ  tổn  thương, 
bảo đảm che phủ kín tổn thương. 
Băng  Duoderm  được  thay  khi  tổn  thương 
tiết  dịch  nhiều  làm  bong  băng  dán,  hoặc  khi 
băng dán không còn độ bám dính tốt. 

Thời  gian  sử  dụng  tối  da  của  băng  dán 
Duoderm là 7 ngày cho mỗi lần thay băng. 

 
Hình 1: BN Lê thị Anh Đ., 25t, bỏng acid, SHS: 
32185/2012, BVCC Trưng Vương 

Diện tích tổn thương 
Trung bình: 
3 ± 1,35 % 
Ít nhất:   

0,25 % 

Nhiều nhất:  

10 % 

Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Cấp Cứu Trưng Vương 2013 

85


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 4 * 2013

Nghiên cứu Y học 

Trong  lô  nghiên  cứu,  diện  tích  tổn  thương 
bỏng trên một bệnh nhân nhỏ nhất là 0,25 %, lớn 
nhất là 10%.  


Da xung quanh tổn thương
N = 48

Kích ứng Bình thường
0
48

Da xung quanh tổn thương không dấu hiệu 
viêm, kích ứng hay dị ứng. 

Số lượng Duoderm sử dụng 
Trung bình: 
 
4,4 miếng 

 
Hình 2: BN Nguyễn Đoàn Phương T., 28t, Cà da 
mặt, SHS: 21186/2012, BVCC Trưng Vương 

Vi trí tổn thương 
Trong lô nghiên cứu, 40 bệnh nhân với 48 vị 
trí  bỏng  được  điều  trị,  trong  đó  bỏng  tứ  chi 
chiếm  tỉ  lệ  cao  nhất  58,3%,  bỏng  mặt  chiếm 
33,3%, bỏng thân mình chiếm 8,4%. 

 

3 ngày 


Dài nhất:  

 

7 ngày 

8,2 ± 1,6 ngày 

Ngắn nhất: 

 

6 ngày 

Dài nhất:  

 

13 ngày 

Tình trạng nhiễm trùng 
Bảng 1: ghi nhận tình trạng nhiễm trùng vết thương 

0

không
48

Trong 48 vị trí tổn thương, không ghi nhận 
có vị trí nào có tình trạng nhiễm trùng như viêm 

tấy, tiết dịch đục hôi,.. 

Tình trạng da xung quanh tổn thương 
Bảng 2: ghi nhận tình trạng da xung quanh tổn 
thương  

86

Dài nhất:  

 

12 miếng 

Số  lượng  băng  dán  Duoderm  trung  bình  là 
4,4 miếng S 20x20cm. Số lượng này thay đổi tùy 
thuộc vào diện tích bỏng của bệnh nhân. 

Số lần thay băng 
Số  trường  hợp  thay  băng  3  lần  trong  quá 
trình điều trị chiếm tỉ lệ cao nhất 65% (26 trường 
hợp). Số trường hợp thay băng 2 lần chiếm 20% 
(8  trường  hợp).  Số  trường  hợp  thay  băng  4  lần 
chiếm 15% (6 trường hợp).  

2
7

3
3


4
2

5
0

Được phân chia theo thang điểm từ 1‐5 cho 
mức  độ  đau  từ  ít  nhất  (mức  độ  1)  đến  nhiều 
nhất (mức độ 5). Số liệu cho thấy, phần lớn bệnh 
nhân cảm thấy mức độ đau ít. 

Mùi khó chịu 
Bảng 4: ghi nhận mùi khó chịu của bệnh nhân 

Thời  gian  lành  thương  trung  bình  là  8,2 
ngày. Trường hợp ngắn nhất là 6 ngày. Trường 
hợp lành thương lâu nhất là 13 ngày. 

Tình trạng nhiễm trùng
N = 48

1 miếng 

Mức độ đau khi thay băng 1
N = 40
28

Thời gian tổn thương tiết dịch trung bình là 
5,1 ngày. 


Thời gian lành thương 
Trung bình: 
 

 

Mức độ đau trong quá trình thay băng 
Bảng 3: ghi nhận mức độ đau trong quá trình thay 
băng 

Thời gian tiết dịch tổn thương 
Trung bình: 
 
5,1 ± 1,1 ngày 
Ngắn nhất: 

Ngắn nhất: 

Mùi khó chịu Không có mùi khó chịu Có mùi khó chịu
N = 40
12
28

Mùi  khó  chịu  được  ghi  nhận  ở  phần  lớn 
bệnh nhân. Đặc biệt là trong những trường hợp 
bệnh  nhân  bỏng  vùng  mặt  hoặc  có  diện  tích 
bỏng rộng. 

Hài lòng về thẩm mỹ và thoải mái trong sinh 

hoạt 
Bảng 5: ghi nhận mức độ hài lòng của bệnh nhân 
Thẩm mỹ và sự thoải mái
N = 40

1
1

2
4

3
11

4
24

5
0

Đánh  giá  về  mức  độ  thoải  mái  trong  sinh 
hoạt, cũng như về tính thẩm mỹ, phần lớn bệnh 

Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Cấp Cứu Trưng Vương 2013  


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 4 * 2013 
nhân cảm thấy mức độ thẩm mỹ và thoải mái từ 
trung bình đến khá. 
Đánh giá tổn thương sau 3 tháng 

Bảng 6: ghi nhận thay đổi màu sắc tại vị trí tổn 
thương sau 3 tháng 
Tổn thương sau 3
tháng
N = 48

Tăng sắc Giảm sắc
tố
tố
8
0

Da đều
màu
40

Sau 3 tháng, bươc đầu đánh giá tổn thương 
cho thấy có 8 vùng tổn thương trong tổng số 48 
vùng  tổn  thương  (của  40  bệnh  nhân)  có  tình 
trạng  tăng  sắc  tố.  Không  ghi  nhận  trường  hợp 
giảm  sắc  tố  nào.  Phần  lớn  vùng  tổn  thương  da 
tương  đối  đều  màu  với  da  xung  quanh.  Các 
trường hợp tăng sắc tố chủ yếu là nam giới với 
tổn thương bỏng ở vùng mặt và tay. 

BÀN LUẬN 
Đặc điểm chung mẫu nghiên cứu 
40  bệnh  nhân  với  48  vị  trí  tổn  thương  thỏa 
tiêu chí chọn mẫu. 


Độ tuổi 
Trong nghiên cứu của chúng tôi, tuổi trung 
bình bệnh nhân 39,08, nhỏ nhất là 16, lớn nhất là 
77  tuổi.  Do  trong  thiết  kế  nghiên  cứu,  chỉ  chọn 
lựa bênh nhân từ 16 tuổi trở lên. Tuổi trung bình 
là 39,08, với độ lệch chuẩn 12,32 cho thấy bệnh 
nhân  tổn  thương  bỏng  chủ  yếu  là  bệnh  nhân 
trong độ tuổi lao động. 
Giới tính 
Trong nghiên cứu của chúng tôi, nữ: nam = 
2,125:  1.  Như  vậy  trong  nghiên  cứu  của  chúng 
tôi, nữ giới chiếm tỉ lệ cao hơn. Điều này có thể 
do nữ giới chiếm tỉ lệ cao trong các trường hợp 
bỏng  nông,  đặc  biệt  là  bỏng  nhiệt  do  đặc  điểm 
thường  tiếp  xúc  các  nguồn  nhiệt  như  nước  sôi, 
lửa,.. Và nữ giới cũng là đối tượng hay gặp trong 
các  trường  hợp  cà  da,  laser  điều  trị  các  tổn 
thương da. 

Đặc điểm tổn thương 
Trong 40 bệnh nhân, tổn thương bỏng là 30 
trường hợp, tổn thương giống bỏng là 10 trường 
hợp. Diện tích tổn thương trung bình là 3% diện 

Nghiên cứu Y học

tích  cơ  thể.  Vùng  bỏng  tập  trung  nhiều  là  tay 
chân và mặt, những vùng ảnh hưởng nhiều đến 
vấn đề sinh hoạt, thẩm mỹ của bệnh nhân. 
Thời gian tiết dịch tổn thương trung bình 5,1 

ngày,  thời  gian  lành  thương  trung  bình  là  8,2 
ngày.  So  với  thời  gian  lành  thương  của  tổn 
thương  bỏng  nông  trung  bình  từ  10‐14  ngày, 
bước  đầu  cho  thấy  băng  dán  Duoderm  có  thời 
gian  lành  thương  nhanh  hơn.  Thời  gian  lành 
thương  trong  nghiên  cứu  của  chúng  tôi  ngắn 
hơn  so  với  nghiên  cứu  của  Christi  Cassidy 
(2005), thời gian liền thương trên bệnh nhi bỏng 
nông được điều trị bằng Duoderm và Biobrane 
lần lượt là 11,21 ± 6,5 ngày và 12,24 ± 5,1 ngày(3); 
thời  gian  lành  thương  trong  nghiên  cứu  của 
chúng  tôi  ngắn  hơn  so  với  nghiên  cứu  của 
Solanki  N.S.(2012)(19),  thời  gian  liền  thương  trên 
bệnh  nhân  bỏng  nông  được  điều  trị  bằng 
Duoderm và Awbat‐D lần lượt là 11 ngày và 17 
ngày.  Kết  quả  nghiên  cứu  của  chúng  tôi  cũng 
tương  tự  kết  quả  của  Perrot  J.,  Carsin  H., 
Gilbaud J. sử dụng Duoderm che phủ vùng lấy 
da  bào(15);  và  cũng  phù  hợp  với  nhận  định  của 
Wood F., Martin L., D. Lewis, J. Rawlins, T. Mc 
Williams,  S.  Burrows,  S.  Rea  (2011)  khi  nghiên 
cứu sử dụng Duoderm giúp làm giảm thời gian 
lành vết thương bỏng(21). 
Chúng  tôi  không  ghi  nhận  trường  hợp  nào 
trong  số  48  thương  tổn/40  bệnh  nhân  chuyển 
sang  tổn  thương  có  độ  sâu  sâu  hơn  theo  phân 
loại  Lê  Thế  Trung,  tất  cả  các  tổn  thương  đều 
biểu  mô  hóa  sau  8,2  ±  1,6  ngày,  không  trường 
hợp nào cần ghép da bổ sung. Thời gian lành vết 
thương khi điều trị với Hydrocolloid (sản phẩm 

giống Duoderm) tương đương với việc sử dụng 
trung  bì  da  lợn  theo  nghiên  cứu  của  Robert 
Zajicek,  Eva  Matouskova,  Ludomir  Broz, 
Richard  Kubok,  Petr  Waldauf,  Radana 
Ko¨nigova  (2011)(22).  Trong  khi  đó,  theo  nghiên 
cứu  của  Fiachra  T.  Martin,  John  B.  O’Sullivan, 
Padraic, việc sử dụng Duoderm để che phủ tổn 
thương bỏng trên trẻ em cũng làm giảm tỉ lệ cần 
ghép da (9%) so với việc dùng chất liệu khác để 
che  phủ  vết  thương  bỏng  nông  (43%)(13).  Tuy 

Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Cấp Cứu Trưng Vương 2013 

87


Nghiên cứu Y học 

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 4 * 2013

nhiên,  theo  nghiên  cứu  của  Jin‐Ah  Lee,  Ha  Jin 
Jeong,  Hi‐Joon  Park,  Songhee  Jeon,  Seung‐Ug 
Hong  (2011),  việc  ứng  dụng  thuật  châm  cứu 
trong  điều  trị  bỏng  trên  chuột  sẽ  làm  tăng  khả 
năng lành thương so với việc sử dụng Duoderm, 
nhưng  việc  ứng  dụng  kỹ  thuật  này  trên  lâm 
sàng  gặp  nhiều  khó  khăn  và  không  thuận  lợi 
cho bệnh nhân(10). Hiệu quả băng kín vết thương 
của Duoderm giúp bảo tồn được các yếu tố tăng 
trưởng, các men giúp cho quá trình biểu mô hóa 

tiến  triển  thuận  lợi,  giúp  nhanh  lành  vết 
thương(1)  được  chứng  minh  qua  nhiều  nghiên 
cứu,  cụ  thể  như  nghiên  cứu  của  Michael  J. 
Lydon  et  al(12)  hoặc  của  Robert  H.  Caulfield, 
Michael  P.H.  Tyler,  Jon  M.  Austyn,  Peter 
Dziewulski, Duncan A. McGrouther (2008)(4).  
Tình trạng nhiễm trùng không xảy ra ở tất cả 
48 vị trí tổn thương được khảo sát. Điều này có 
thể do tác dụng chống nhiễm khuẩn, khử khuẩn 
của  Duoderm  hoặc  do  Duoderm  có  tác  dụng 
băng kín vết thương làm hạn chế sự xâm nhập 
của vi khuẩn. Kết quả này cũng tương tự nghiên 

cứu của Solanki N.S. (2012)(19). Trong khi đó theo 
nghiên  cứu  của  Hutchinson  J.  Jerry  (1994),  số 
lượng vi khuẩn phát hiện ở vị trí thương tổn vào 
khoảng  2,7  vi  khuẩn/vết  thương(8).  Kết  quả 
nghiên cứu của chúng tôi cũng thấp hơn nghiên 
cứu  của  Vloemans  A.F.P.M.,  A.M.  Soesman, 
R.W.  Kreis,  E.  Middelkoop  (2001)  tỉ  lệ  nhiễm 
trùng là 2/76 bệnh nhân khi sử dụng Aquacel để 
thay băng vết thương(20). Vấn đề hạn chế nhiễm 
trùng  bằng  biện  pháp  băng  kín  vết  thương  đã 
được  nhiều  tác  giả  nghiên  cứu,  cụ  thể  như 
nghiên  cứu  của  Patricia  M.  Mertz  et  al(2,14)  và 
cũng đã được đưa vào sách giáo khoa(1).  
Vùng  da  xung  quanh  tổn  thương  không  có 
trường hợp nào bị kích ứng, dị ứng. Đây là một 
đặc điểm đáng ghi nhận vì những loại băng dán 
khác  thường  gây  phản  ứng  dị  ứng,  kích  ứng 

vùng  da  lành  xung  quanh  tổn  thương  đặc  biệt 
khi sử dụng dài ngày. kết quả này cũng phù hợp 
với nghiên cứu của các tác giả khác(3,12,Error! Reference 
source not found.). 

 
Hình 3: Hình bệnh nhân bỏng vùng mặt do nước sôi sau 8 ngày sử dụng DuoDERM. BN Trần Ngọc T., 35t, 
SHS: 21225/2012, BVCC Trưng Vương. 
đổi tùy theo diện tích bỏng của bệnh nhân. Theo 
Với  một  tổn  thương  bỏng,  trung  bình  chỉ 
đánh  giá  của  bệnh  nhân,  có  thể  thấy  quá  trình 
khoảng  3  lần  thay  băng  cho  quá  trình  lành 
thay băng tương đối dễ chịu, ít gây đau đớn, chỉ 
thương kéo dài khoảng 10 ngày. Đây là một ưu 
12/40  bệnh  nhân  có  cảm  giác  đau  nhẹ.  Kết  quả 
điểm  vượt  trội  so  với  những  hình  thức  thay 
của  chúng  tôi  cũng  tương  tự  như  nghiên  cứu 
băng  bỏng  trước  đây  khi  bệnh  nhân  phải  thay 
của  các  tác  giả  Christi  Cassidy  (2005)(3)  và 
băng  hàng  ngày;  kết  quả  này  cũng  tương  tự 
Solanki  N.S.  (2012)(19).  Phần  lớn  bệnh  nhân  hài 
nghiên  cứu  của  Susie  Seaman  et  al  (2000),  số 
lòng  về  tính  thẩm  mỹ  cũng  như  cảm  thấy  dễ 
ngày  thay  băng  trung  bình  là  2.7  ngày  khi  sử 
chịu trong sinh hoạt hàng ngày. Đặc biệt với khả 
dụng  Hydrocolloid  (sản  phẩm  giống 
(18)
năng  không  thấm  nước,  Duoderm  giúp  bệnh 
Duoderm) .  Số  lượng  Duoderm  sử  dụng  thay 


88

Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Cấp Cứu Trưng Vương 2013  


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 4 * 2013 
nhân dễ dàng  vệ  sinh  sạch  sẽ  vùng  da  gần  tổn 
thương.  Mặc  dù  chúng  tôi  không  khảo  sát  chi 
phí cho quá trình điều trị; nhưng việc giảm thiểu 
số lần thay băng có ý nghĩa đặc biệt đối với bệnh 
nhân, giúp bệnh nhân thuận tiện trong sinh hoạt 
và  giảm  thiểu  đau  đớn  trong  quá  trình  thay 
băng.  Và  theo  một  nghiên  cứu  của  Keith 
Harding  et  al.(2000),  việc  ứng  dụng  Duoderm 
trong điều trị tổn thương lóet mạn tính giúp tiết 
kiệm  đến  5  lần  so  với  việc  thay  băng  bằng  gạc 
nước  muối  sinh  lý(7).  Kết  quả  nghiên  cứu  của 
chúng  tôi  cũng  phù  hợp  với  nhận  định  của 
Wood F., Martin L., D. Lewis, J. Rawlins, T. Mc 
Williams,  S.  Burrows,  S.  Rea  (2011)  khi  nghiên 
cứu  sử  dụng  Duoderm  giúp  làm  giảm  số  lần 
thay  băng  và  ít  gây  đau  đớn  cho  bệnh  nhân 
trong quá trình thay băng(21). 
Tuy nhiên, Duoderm có gây mùi khó chịu ở 
nhiều bệnh nhân (28/40). Đặc biệt là những bệnh 
nhân có tổn thương bỏng vùng mặt, hay có diện 
tích bỏng rộng. Vấn đề này cũng được ghi nhận 
trong nghiên cứu của Solanki N.S.(2012)(19). 
Đánh  giá  tổn  thương  sau  3  tháng,  bước  đầu 
cho  thấy  tổn  thương  phần  lớn  có  da  đều  màu 

với da xung quanh. (40/48 vị trí tổn thương). Các 
trường  hợp  còn  lại  có  tổn  thương  tăng  sắc  tố. 
Không trường hợp nào có tổn thương giảm sắc 
tố. Đa phần trường hợp tăng sắc tố gặp ở bệnh 
nhân nam, vùng bỏng là vùng tiếp xúc ánh sáng 
nhiều.  Có  thể  vì  bệnh  nhân  nam  ít  chú  ý  tránh 
nắng hay dùng sản phẩm chống tia cực tím sau 
bỏng, cũng có thể do đặc điểm nghề nghiệp tiếp 
xúc ánh nắng nhiều hơn nữ giới. Về kết quả lâu 
dài  đối  với  một  vết  thương  tối  thiểu  phải  6 
tháng; tuy nhiên qua kết quả nghiên cứu, chúng 
tôi  có  thể  nhận  định  bước  đầu  việc  sử  dụng 
Duoderm  cho  phép  cải  thiện  màu  sắc  da  sau 
lành  thương.  Kết  quả  này  cũng  phù  hợp  với 
nhận  định  của  Wood  F.,  Martin  L.,  D.  Lewis,  J. 
Rawlins,  T.  Mc  Williams,  S.  Burrows,  S.  Rea 
(2011)  việc  sử  dụng  Duoderm  giúp  chất  lượng 
sẹo tốt hơn(21). 

KẾT LUẬN 
Qua kết quả nghiên cứu cho thấy:  

Nghiên cứu Y học

Băng dán Duoderm giúp rút ngắn thời gian 
lành  thương  trung  bình  còn  8,2  ngày,  không 
thấy tình trạng nhiễm trùng bỏng xuất hiện. Đặc 
biệt  băng  dán  Duoderm  không  gây  kích  ứng 
vùng  da  lành  xung  quanh,  số  lần  thay  băng 
trung  bình  chỉ  3  lần  cho  quá  trình  lành  thương 

10 ngày; đây là ưu điểm nổi trội so với các loại 
băng gạc khác được sử dụng tại Bệnh viện Cấp 
cứu Trưng Vương từ trước đến nay. 
Sau ba tháng theo dõi cho thấy, phần lớn tổn 
thương có da đều màu với vùng da xung quanh, 
bề mặt bằng phẳng. Không ghi nhân trường hợp 
nào giảm sắc tố da, ít trường hợp tăng sắc tố. 
Một điểm đáng chú ý nữa là bệnh nhân cảm 
thấy  dễ  chịu,  ít  đau  khi  thay  băng,  hài  lòng  về 
mặt thẩm mỹ với băng dán Duoderm. 
Từ  kết  quả  nghiên  cứu  trên,  nhóm  nghiên 
cứu  xin  được  đề  xuất  sử  dụng  băng  dán 
Duoderm  rộng  rãi  hơn  trên  những  bệnh  nhân 
bỏng nông và tổn thương giống bỏng nông. 

TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1.

2.
3.

4.

5.

6.

7.

8.


9.
10.

Baranoski  S,  Ayello  EA,  McIntosh  A,  Montoya  L, 
Scarborough  P  (2012),  Wound  Treatment  Options,  Wound 
Care  Essentials,  Lippincott  Williams  &  Wilkins.  Six  Edition, 
181‐240. 
Bessey PQ (2007), Wound Care, Total Burn Care, 129‐135. 
Cassidy  C ,  Sshawn  DSP, Lacey  S, Beery  M, Ward‐Smith 
P, Sharp  RJ, Ostlie  DJ  (2011),  Biobrane  versus Duoderm for 
the  treatment  of  intermediate  thickness  burns  in  children:  A 
prospective, randomized trial, Burns, V. 31, Issue 7: 890‐893. 
Caulfield  RH,  Tyler  MPH,  Austyn  JM,  Dziewulski  P, 
McGrouther  DA  (2008),  The  relationship  between 
protease/anti‐protease  profile,  angiogenesis  and  re‐
epithelialisation in acute burn wounds, Burns, V. 34, 474‐486. 
Đặng Xuân Quang (2009). Nghiên cứu một số đặc điểm dịch 
tễ và lâm sàng Bỏng đầu mặt cổ ở trẻ em – Luận văn Thạc sĩ Y 
học. 
Frank AJM., Moll JMH (1982), A Comparison of three ways of 
measuring pain, Journal of Rheumatology,  V.  21,  No4,  pp.  211‐
217. 
Harding  K  et  al.  (2000),  The  cost‐  effectiveness  of  wound 
management protocol of care. Br J Nurs., 9(19  Suppl):  S6,  S8, 
S10 passim. 
Hutchinson  JJ  (1994),  A  prospective  clinical  trial  of  wound 
dressings to investigate the rate of infection under occlusion, 
Proceedings,  EWMA.  Advances  in  Wound  Management, 
Harrogate, UK, London, Macmillan, 93‐96. 

Lê Thế Trung (2003), Đại cương bỏng, Bỏng‐Những kiến thức 
chuyên ngành, Nhà Xuất Bản Y Học. Hà Nội, 17‐195. 
Lee  JA,  Jeong  HJ,  Park  HJ,  Jeon  S,  Hong  SU  (2011), 
Acupuncture  accelerates  wound  healing  in  burn‐injured 
mice, Burns, V. 37, 117‐125. 

Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Cấp Cứu Trưng Vương 2013 

89


Nghiên cứu Y học 
11.

12.

13.

14.

15.

16.

17.

18.

90


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 4 * 2013

Low  DW  (2007),  Laser  in  Plastic  Surgey,  Grabb  and  Smith’s 
Plastic  Surgery,  Lippincott  Williams  &  Wilkins.  Six  Edition, 
169‐179. 
Lydon MJ et al. (1992), Dissolution of Wound Coagulum and 
Promotion of Granulation Tissue under DuoDerm, Wounds: A 
Compendium  of  Clinical  Research  and  Practice,  V.1,  N0.:  1288‐
1290. 
Martin FT, O’Sullivan JB, et al (2010), Hydrocolloid dressing 
in pediatric burns may decrease operative intervention rates, 
Burns, V. 45, 600‐605.  
Mertz PM et al (1985), Occlusive wound dressing to prevent 
bacterial invasion and wound infection, Journal of the American 
Academy of Dermatology, V.12, N0.4: 662‐668.  
Perrot J, Carsin H, Gilbaud J (1986), Utilisation du pansement 
DuoDERM dans la cicatrisation des prises de greffes chez le 
brule ‐ A propos de vingt observations, Ann Chir Plast Esthét, 
31, N0.3: 279‐282. 
Perrotti JA (2007), Cutaneous Resurfacing: Chemical Peeling, 
Dermabrasion,  and  Laser  Resurfacing,  Grabb  and  Smith’s 
Plastic  Surgery,  Lippincott  Williams  &  Wilkins.  Six  Edition, 
459‐468. 
Phạm  Trịnh  Quốc  Khanh  (2009).  Nghiên  cứu  đặc  điểm  lâm 
sàng, chẩn đoán huỳnh quang bằng dung dịch Fluoresceine 
10% và điều trị bằng kem Berberin 0,1% trong bỏng bàn tay. 
Luận văn Tiến sĩ Y học. 
Seaman  S  et  al  (2000),  Simplifying  Modern  Wound 
management  for  Nonprofessional  Caregivers,  Ostomy  / 
Wound Management; 46(8):18‐27.  

 

19.

Solanki NS, Mackie IP, Greenwood JE (2012), A randomised 
prospective  study  of  split  skin  graft  donor  site 
dressings: AWBAT‐D™ vs. Duoderm®, Burns, V. 38, Issue 6: 
889‐898. 
Vloemans  AFPM,  Soesman  AM,  Kreis  RW,  Middelkoop  E 
(2001),  A  newly  developed  hydrofibre  dressing,  in  the 
treatment of partial‐thickness burns, Burns, V. 27, 167‐173. 
Wood  F,  Martin  L,  Lewis  D,  Rawlins  J,  Mc  Williams  T, 
Burrows  S,  Rea  S  (2011),  A  prospective  randomised  clinical 
pilot  study  to  compare  the  effectiveness  of  BiobraneW 
synthetic  wound  dressing,  with  or  without  autologous  cell 
suspension,  to  the  local  standard  treatment  regimen  in 
paediatric scald injuries, Burns, V. 38, 830‐839. 
Zajicek R, Matouskova E, Broz L, Kubok R, Waldauf P, et al 
(2011), New biological temporary skin cover Xe‐DermaW  in 
the treatment of superficial scald burns in children, Burns, V. 
37, 333‐337. 

20.

21.

22.

 
Ngày nhận bài   


 

 20/08/2013. 

Ngày phản biện nhận xét bài báo 29/08/2013. 
Ngày bài báo được đăng:  

10/10/2013 

 

Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Cấp Cứu Trưng Vương 2013  



×