Tải bản đầy đủ (.pdf) (10 trang)

Hiệu quả giảm đau ngoài màng cứng liên tục bằng marcaine+fentanyl trong và sau gây mê phẫu thuật đại phẫu ở bụng tại Bệnh viện Nguyễn Tri Phương

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (469.52 KB, 10 trang )

Nghiên cứu Y học 

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014

 

HIỆU QUẢ GIẢM ĐAU NGOÀI MÀNG CỨNG LIÊN TỤC  
BẰNG MARCAINE+FENTANYL TRONG VÀ SAU GÂY MÊ PHẪU THUẬT 
ĐẠI PHẪU Ở BỤNG TẠI BỆNH VIỆN NGUYỄN TRI PHƯƠNG 
Nguyễn Thu Chung*, Nguyễn Văn Chinh*,Võ Duy Khoa*, Huỳnh Thanh Long*, Trương Hữu Trí*,  
Nguyễn Thị Mỹ Xuyên*, Ngô Đông Tuấn*, Trương Huệ Phương*, Lâm Thụy Thu Phương*, Ngô Thị Kim Loan* 

TÓM TẮT 
Mục tiêu: Đánh giá hiệu quả giảm đau ngoài màng cứng liên tục trong và sau mổ bằng Marcaine+Fentanyl 
liều thấp khi gây mê phẫu thuật đại phẫu ở bụng. 
Phương pháp: Tiền cứu, mô tả cắt ngang, thực hiện lâm sàng. 
Đối tượng nghiên cứu: 31 bệnh nhân có ASA I –II. Thực hiện vô cảm gây mê nội khí quản kết hợp giảm 
đau ngoài màng cứng liên tục 3 ngày cho các bệnh nhân có chỉ định phẫu thuật vùng bụng trên và dưới.Thời 
gian thực hiện từ tháng 10/2013 đến tháng 10/2014 tại Bệnh viện Nguyễn Tri Phương. 
Kết  quả: Tuổi trung bình 59,13 ± 12,32 tuổi (30‐90).Vị trí gây tê ngoài màng cứng đường giữa tại vùng 
L1‐2 hoặc L2‐3, luồn catheter sâu 5cm từ mặt da. Độ sâu trong khoang ngoài màng cứng trung bình 5,3 cm. 
Thời gian thực hiện kỹ thuật 5,34 ± 2,1 phút. Thời gian lưu catheter 69,71 ± 3,37 giờ. Thời gian phẫu thuật 
149,03 ± 60,88 phút. Chiều dài vết mổ 14,77 ± 4,31 cm. Thời gian rút ống nội khí quản 32.,45 ± 8,32 phút. Thời 
gian nằm lại hồi sức 490,65 ± 23,3 phút. Thời gian trung tiện 22,67 ± 6,90 giờ. Duy trì thuốc mê hơi Sevoran 
nồng độ từ 2‐3%. Duy trì bơm tiêm điện giảm đau ngoài màng cứng giảm dần 6 ‐ 5 ‐ 4ml/giờ/3 ngày (Marcaine 
0,1% 5mg/giờ + Fentanyl 10μg/giờ), trong mổ không cho thêm bất kỳ giảm đau nào khác. Giờ đầu sau mổ có 9 
bệnh nhân (29,03%) có VAS>3 điểm, cần cho liều bolus thuốc tê 6ml. Mức tê T6 bao phủ được vùng mổ. Kết quả 
giảm đau trong và sau mổ đáp ứng tốt.Phẫu thuật viên và người bệnh hài lòng cao > 95%. 
Hô hấp: SpO2, EtCO2, ECG trong và sau mổ ổn định (p >0,05).  
Tuần hoàn: Mạch chậm <50 lần/phút 2 BN (6,45%); Hạ huyết áp <90mmHg 5 BN (16,12%) sau khởi mê; 
(p< 0,05), không liên quan đến tai biến‐biến chứng gây tê ngoài màng cứng. Ngoài ra, chưa gặp tai biến quan 


trọng khác. 
Kết  luận:  Gây  mê  nội  khí  quản  duy  trì  Sevoran  kết  hợp  giảm  đau  ngoài  màng  cứng  liên  tục  với 
Marcaine+Fentanyl liều thấp cho kết quả giảm đau ổn định, đáp ứng tốt trong các phẫu thuật bụng trên và bụng 
dưới. An toàn. Ít tai biến‐biến chứng. Chi phí thấp. 
Từ khóa: Gây tê ngoài màng cứng liên tục, phẫu thuật bụng trên và dưới. 

SUMMARY 
EFFECTS OF CONTINUOUS EPIDURAL PAIN RELIEF WITH MARCAINE+FENTANYL DURING 
AND AFTER ANESTHESIA IN MAJOR ABDOMINAL SURGERY AT NGUYỄN TRI PHƯƠNG 
HOSPITAL  
Nguyen Thu Chung, Nguyen Van Chinh,Vo Duy Khoa, Huynh Thanh Long, Truong Huu Tri, 
Nguyen Thi My Xuyen, Ngo Dong Tuan, Truong Hue Phuong, Lam Thuy Thu Phuong, Ngo Thi Kim Loan  
 * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 18 ‐ Supplement of No 6‐ 2014: 68 – 77 

* BV Nguyễn Tri Phương 
Tác giả liên hệ: BS CKII Nguyễn Thu Chung, 

68

ĐT: 0908138846, 

Email:   

Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Nguyễn Tri Phương 2014 


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014 

Nghiên cứu Y học


 
Aim: To evaluate the effects of continuous epidural pain relief with a low dose of Marcaine and Fentanyl in 
major abdominal surgery. 
Method: Prospective study, transective description based on clinical aspects. 
Objects: 31 patients, ASA I‐II. Applying methods of combined tracheal intubation and continuous epidural 
painrelief  during  3  days  on  selected  patients  with  abdominal  surgery  from  October  2013  to  October  2014  at 
Nguyễn Tri Phương Hospital. 
Results: Average ages 59.13 ± 12.32 years (30‐90). Anesthetic site was the midline L1‐2 or L2‐3, catheter 
was inserted 5cm deep from the skin surface. Epidural average depth about 5,3cm and held in this position about 
69.71 ± 3.37 hours. The anesthetic time is 5.34 ± 2.1 min.. The average duration for operation is 149.03 ± 60.88 
min..The incision is 14.77 ± 4.31 cm (6‐20 cm). Endotracheal withdrawing is 32.45 ± 8.32 min..Time for post‐
operation is 490.65 ± 23.3 min..Time for intestinal gas is 22.69 ± 6,9 hours. Epidural pain relief is maintained 
through  injection  by  electric  syringe  6‐5‐4ml/hour/3  days  with  Marcaine  0,1%  5mg/hour  and  Fentanyl 
10μg/hour. Any analgesic is not used during operation. One hour after operation VAS > 3 points in 9 patients 
with bolus 6ml, with good. Blockage extent at T6. There are no changes in respiration, Sp02, EtCO2, ECG during 
and  after  operation  (p>0.05).  Frequency  of  complication:  slow  pulse  50  beats/min  in  2  patients  (6.45%); 
Hypotension  <  90mmHg  in  5  patients  (16.12%)  after  induction  (p<0.05).  Nausea  and  vomiting  when 
consciousness  3  patients  (9.67%).  In  addition,  no  change  in  important  complications  involved  in  epidural 
anesthesia is noticed. 
Conclusion: This technique is effective in pain relief and safe for upper and lower abdominal surgery. No 
complication occurs. Cost is markedy low. 
Keyword: Continous epidural anesthesia; upper and lower abdominal surgery. 

ĐẶT VẤN ĐỀ 
Con người có sức khỏe là nhân tố hàng đầu, 
là động lực phát triển xã hội trong mọi thời đại. 
Sức khỏe là vốn quý của con người, là một trong 
những điều kiện cơ bản để con người sống hạnh 
phúc, là mục tiêu và cũng là nhân tố quan trọng 
của  con  người  trong  việc  góp  phần  phát  triển 

kinh  tế,  văn  hóa  xã  hội  và  bảo  vệ  Tổ  Quốc.  Vì 
thế, “Nhiệm vụ của người Thầy Thuốc là chăm 
sóc sức khỏe cho con người với sứ mệnh cao cả, 
hiểu biết và ý thức đầy đủ, đồng thời phải xem 
sức khỏe của bệnh nhân như là mối lo lắng đầu 
tiên của mình” (Tuyên bố Helsinxki, 1864). 
Tiếp  thu  nền  y  học  hiện  đại,  ứng  dụng 
những thành tựu khoa học kỹ thuật thế giới và 
cải  tiến  không  ngừng  là  những  bước  đột  phá 
quan  trọng  trong  các  lĩnh  vực  chuyên  ngành  y 
về lâm sàng trong đó có gây mê hồi sức. Các kỹ 
thuật  thực  hành  trong  gây  mê  hồi  sức  cũng  có 
nhiều  bước  tiến  bộ  đáng  kể  đặc  biệt  trong  lĩnh 
vực gây tê vùng riêng lẻ hoặc phối hợp. Gây tê 

ngoài  màng  cứng  phối  hợp  gây  mê  toàn  thể 
trong những phẫu thuật lớn như ở bụng, ngực… 
đem lại hiệu quả giảm đau liên tục, bền vững và 
giảm  việc  dùng  thuốc  phối  hợp  trong  gây  mê, 
giảm  tỉ  lệ  tai  biến  do  thuốc,  giảm  tai  biến‐biến 
chứng trong giai đoạn chu phẫu một cách đáng 
kể(5),  ưu  điểm  vượt  trội  hơn  so  với  chỉ  gây  mê 
toàn  thể  và  phối  hợp  giảm  đau  thông  thường 
khác  được  ví  “giảm  đau  như  đi  tàu  lượn  cao 
tốc”! Gỉảm đau là một nhu cầu chính đáng, cần 
thiết của mọi bệnh nhân trong mọi cuộc gây mê 
phẫu thuật. 
Kỹ thuật gây tê ngoài màng cứng phát triển 
từ năm 1949 (Cubelo, Cuba) và lan rộng từ năm 
1990  đến  nay.  Dùng  kim  Tuohy  18  gây  tê  vào 

vùng  khe  giữa  hai  đốt  sống  lưng,  khi  xác  định 
vào khoang ngoài màng cứng thì tiến hành luồn 
một catheter vào khoảng 5cm rồi lưu lại, cố định 
vị trí, sau đó cho hỗn hợp thuốc tê kết hợp liều 
nhỏ  Morphinic  hay  Narcotic  cho  qua  một  bơm 
tiêm  điện  liên  tục  để  thuốc  ngấm  vào  tổ  chức 

Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Nguyễn Tri Phương 2014 

69


Nghiên cứu Y học 

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014

 
chứa  các  rễ  thần  kinh  chạy  từ  tủy  sống  ra  chi 
phối  cảm  giác  vận  động  từ  ngực  xuống  nên  có 
tác  dụng  giảm  đau.  Kỹ  thuật  này  đã  được  áp 
dụng  trong  các  phẫu  thuật  từ  ngực  xuống  chi 
dưới  đã  được  thế  giới  và  Việt  Nam  thực  hiện 
khá rộng rãi từ năm 1990 đến nay(2,3). 
Thực  tiễn,  qua  một  số  nghiên  cứu  nước 
ngoài  cho  thấy  giảm  đau  ngoài  màng  cứng  với 
nồng  độ  thuốc  tê  Bupivacaine  từ  0,25%;  0,1% 
liều  4‐6ml/giờ  +  Morphine  0,2mg/giờ  hoặc 
Fentanyl  4μg/ml  x  4‐6ml/giờ  trong  các  phẫu 
thuật bụng ngực, chi dưới đều cho kết quả giảm 
đau  tốt;  sau  mổ  kết  hợp  với  kháng  viêm  non‐

steroides  hay  Acetaminophene  nhưng  có  nhiều 
tác  dụng  phụ  cần  quan  tâm  như  hạ  huyết  áp 
16%,  buồn  nôn‐ói  mửa  10‐20%,  ngầy  ngật‐ngủ 
gà 10‐20%, thay đổi tim mạch khác 15%, rút ống 
nội khí quản sau 30‐60 phút…mặc dù không liệt 
vận  động  và  trụy  tim  mạch  như  gây  tê  tủy 
sống(1,4,5,9,11). Khi kết hợp gây mê nội khí quản và 
gây tê ngoài màng cứng giảm đau liên tục trong và 
sau  mổ  góp  phần  giảm  đáng  kể  biến  chứng  hậu 
phẫu nhất là biến chứng tim mạch chu phẫu 30%, 
giảm nhiễm trùng viêm phổi 40%, tắc mạch phổi 
50%, suy thận cấp 30% so với chỉ gây mê toàn thân 
và thuốc giảm đau thông thường khác(8). 
Tại  Việt  Nam,  một  số  nghiên  cứu  cho  thấy 
dùng  Bupivacaine  0,1%  +  Fentanyl  4μg/ml  x  4‐
8ml/giờ  cho  kết  quả  giảm  đau  tốt  nhưng  tổng 
liều  Fentanyl  lại  quá  cao  (384‐768μg/24giờ)  có 
thể  bất  lợi  ở  bệnh  nhân  già,  suy  kiệt  mặc  dù 
trong mổ có giảm mất máu 28,5% và chưa thấy 
gia  tăng  nguy  cơ  nặng  thêm  do  các  bệnh  sẵn 
có(10). Trong phẫu thuật thay khớp chi dưới nồng 
độ  Marcaine  0,125%  +  Fentanyl  1,25μg/ml  x  3 
ngày,  liều  giảm  dần  6‐5‐4ml/giờ  cho  kết  quả 
giảm đau tốt, an toàn và chưa thấy tác dụng phụ 
nào.  Người  bệnh  vận  động  được  sớm,  hạn  chế 
các biến chứng trên đường hô hấp, đường niệu, 
cải thiện sức khỏe nhanh(7). 
Từ cơ sở nghiên cứu các tài liệu hiện có, xuất 
phát  từ  tình  hình  thực  tế  bệnh  mổ  hàng  ngày, 
thời gian qua chúng tôi vận dụng nghiên cứu vô 


70

cảm giảm đau ngoài màng cứng liên tục kết hợp 
gây  mê  toàn  thể,  chỉ  duy  trì  một  thuốc  mê  hơi 
Sevoran, giãn cơ liều thấp. Nồng độ Bupivacaine 
0,1%  +  Fentanyl  1,65μg/ml,  tốc  độ  giảm  dần. 
Ngày  1:  6ml/giờ;  Ngày  2:  5ml/giờ;  Ngày  3: 
4ml/giờ.  Sau  mổ  kết  hợp  một  thuốc  giảm  đau 
Perfalgan 1g hay Mobic 15mg mỗi 12 giờ. Bước 
đầu đánh giá sơ bộ kết quả giảm đau khả quan, 
chưa thấy tai biến gì, bệnh nhân thoải mái và ổn 
định  sức  khỏe  khá  nhanh,  phẫu  thuật  viên  hài 
lòng.  Đây  là  liều  thấp  mà  chưa  có  tác  giả  nào 
công bố. Chính vì lý do này mà chúng tôi thực 
hiện đề tài nghiên cứu nhằm các mục tiêu sau: 
1/ Đánh giá hiệu quả giảm đau trong và sau 
mổ của vô cảm gây tê ngoài màng cứng liên tục 
phối hợp gây mê toàn thể trong phẫu thuật đại 
phẫu ở bụng. 
2/ Các thay đổi trên hô hấp, tuần hoàn và các 
phiền  nạn  trong  và  sau  mổ  để  có  kế  hoạch  đề 
phòng, xử lý tình huống. 
3/  Xác  định  tỉ  lệ  tai  biến‐biến  chứng  của  kỹ 
thuật này. 

ĐỐI TƯỢNG‐PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
Thiết kế nghiên cứu 
Tiền cứu, mô tả cắt ngang, thực hiện lâm sàng. 


Đối tượng nghiên cứu 
Bệnh  nhân  có  chỉ  định  phẫu  thuật  là  K  đại 
tràng, Loét hay K dạ dày, U tụy, K buồng trứng, 
U xơ tử cung tại Bệnh viện Nguyễn Tri Phương 
từ tháng 10/2013 đến tháng 10/2014. 

Kỹ thuật chọn mẫu 
Tiêu chuẩn chọn bệnh 

Không  có  chống  chỉ  định  với  gây  tê  ngoài 
màng cứng. 
Có  chỉ  định  phẫu  thuật  cắt  các  u  bướu  ở 
bụng như trên. 
Bệnh nhân có nhu cầu giảm đau ngoài màng 
cứng liên tục 3 ngày. 
Tiêu chuẩn loại trừ 

Bệnh  nhân  đang  nhiễm  trùng  toàn  thân, 
đang sốc hay giảm khối lượng tuần hoàn. 

Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Nguyễn Tri Phương 2014 


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014 

Nghiên cứu Y học

 
Dị dạng cột sống, gù vẹo, viêm nhiễm lở loét 
vùng cột sống lưng, có bệnh lý thần kinh trung 

ương, tăng áp lực nội sọ, dị ứng thuốc tê hay các 
thuốc họ Morphine, rối loạn đông máu. 
Bệnh nhân kiên quyết từ chối. 
Thu thập thiếu số liệu. 

Phương tiện và trang thiết bị 
Tại  phòng  mỗ:  Máy  gây  mê,  nguồn  dưỡng 
khí, Monitoring theo dõi mạch, huyết áp, SpO2, 
ECG, mâm tê vô trùng, bộ dụng cụ gây tê ngoài 
màng cứng Perifix của hãng B/Braun, dung dịch 
sát  trùng  da,  găng  tay  vô  khuẩn,  miếng  dán 
Askinase,  máy  bơm  tiêm  điện,  dây  nối,  bơm 
tiêm 60ml. 
Thuốc  gây  mê  và  hồi  sức:  Dịch  truyền,  dây 
truyền dịch, dây ba chạc, kim luồn 18G, thuốc tê 
Marcaine  0,5%  lọ  20ml,  Midazolam,  Fentanyl, 
Propofol,  Esmeron,  Sevoran,  Atropine  Sulfat, 
Ephedrine, Adrenaline, hộp thuốc chống sốc và 
một số thuốc khác. 

da vùng định gây tê với gạc thấm cồn. Trải săng 
lỗ, xác định vị trí gây tê tại vùng lưng L1‐L2 hoặc 
L2‐L3. Tê da tại đường giữa, kim Tuohy 18 chọc 
vào vuông góc mặt da ở điểm giữa hai khe đốt 
sống,  khi  mũi  kim  vào  4cm  thì  rút  thông  nồng 
kim  ra,  dùng  kỹ  thuật  xác  định  “mất  sức  cản” 
với NaCl 9‰, vừa đưa kim vào vừa thử áp lực 
đến khi qua dây chằng vàng cảm giác “sựt” rồi 
bơm  nước  vào  cảm  giác  nhẹ  tay  hơn,  lúc  này 
mũi kim đang ở trong khoang ngoài màng cứng, 

xoay  mặt  vát  kim  về  phía  đầu  bệnh  nhân,  nhẹ 
nhàng luồn catheter vào cho đều tay với độ sâu 
khoảng  5cm,  sau  đó  kết  hợp  vừa  lui  kim  vừa 
luồn dây cho đến khi kim rời khỏi mặt da, ngang 
mức  dấu  ba  chấm  trên  dây.  Cố  định  vị  trí  dây 
luồn bằng miếng dán trong Askinase, cho người 
bệnh  nằm  ngữa  lại  như  cũ,  bơm  liều  test 
Marcaine 0,5% 10mg/2ml, kiểm tra sinh hiệu ổn, 
bắt đầu gây mê. 

Cách thức tiến hành 
Sau khi có chỉ định phẫu thuật: 
Tiếp cận bệnh nhân: Khám tiền mê trước mổ 
nhằm  đánh  giá  tình  trạng  sức  khỏe  bệnh  nhân, 
các bệnh kèm theo cần điều trị ổn định, các xét 
nghiệm  tiền  phẫu  cho  phép  mổ  được.  Xếp  loại 
ASA,  Malampati.Giaỉ  thích  cách  thức  tiến  hành 
gây  tê,  gây  mê  để  cho  người  bệnh  biết  mà  yên 
tâm tin tưởng và hợp tác tốt.Ký tên đồng ý gây 
mê để mổ và giảm đau ngoài màng cứng. 
Tại  phòng  mổ:  Tiếp  đón  ân  cần,  trấn  an 
người  bệnh  và  yêu  cầu  họ  hợp  tác  khi  lấy  ven 
truyền dịch với Lactate Ringer’s hay NaCl 9‰, cố 
định  kim  luồn  chắc  chắn.  gắn  monitoring  kiểm 
tra  hô  hấp,  mạch,  huyết  áp,  SpO2,  ECG/  5  phút. 
Bệnh nhân tự hít thở với oxy 5lít/phút qua mask. 
Tiến hành gây tê ngoài màng cứng trước, gây mê 
nội khí quản sau 

+  Kỹ  thuật  gây  tê  ngoài  màng  cứng:  Bệnh 

nhân nằm nghiêng sang bên, tư thế “cong lưng 
tôm”.  Người  làm  kỹ  thuật  rửa  tay,  mang  găng, 
sát trùng da với cồn sau đó Bétadine rồi làm sạch 

Hình 1,2: Minh họa hình ảnh gây tê ngoài màng 
cứng có luồn catheter 
+ Kỹ thuật gây mê nội khí quản:  
Tiền mê: Midazolam 2,5mg + Fentanyl 100μg 
pha thành 10ml, IV. 
Khởi  mê:  Propofol  1%  100‐150mg;  Esmeron 
25mg; IV; bóp bóng giúp thở 2‐3 phút tiến hành 
đặt ống nội khí quản, bơm ballon, kiểm tra phổi 
thông  khí  đều  hai  phế  trường,  cố  định  ống  nội 
khí quản. thở máy gây mê, lên thuốc mê từ từ để 
duy trì mê. 

Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Nguyễn Tri Phương 2014 

71


Nghiên cứu Y học 

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014

 
Duy trì trong mổ: Thuốc mê hơi Sevoran 2‐
3% + tê ngoài màng cứng liên tục. 
+ Sau khởi mê: sinh hiệu ổn định, bolus qua 
catheter  ngoài  màng  cứng  với  Marcaine  0,125% 

10mg  +  Fentanyl  50μg/9ml;  sau  đó  bơm  tiêm 
điện  duy  trì  với  Marcaine  0,1%  0,85mg/ml+ 
Fentanyl  1,65  μg/ml  tốc  độ  6ml/giờ  (Cách  pha 
Marcaine  0,5%  10ml;  Fentanyl  100  μg/2ml;  cho 
thêm NaCl 9‰ đủ 60ml).  
Sau mổ: duy trì giảm đau ngoài màng cứng 3 
ngày liên tục: Ngày 1: 6ml/giờ; Ngày 2: 5ml/giờ; 
Ngày  3:  4ml/giờ.  Kết  hợp  Perfalgan  1g  hoặc 
Mobic 15mg mỗi 12 giờ/lần. Rút catheter khi hết 
lọ  thuốc  tê  sau  cùng  (thông  thường  3  lọ 
Marcaine và 6 ống Fentanyl). 
Ghi nhận các chỉ số theo dõi: Mạch, huyết áp, 
SpO2,  ECG,  EtCO2  mỗi  5phút/lần,  hô  hấp  trước 
và  sau  mê.  Mức  độ  liệt  vận  động  sau  mổ  theo 
thang điểm Bromage. Thang điểm đau VAS. 
Thang  điểm  Bromage  đánh  giá  phong  bế 
vận động có 4 độ: 
Độ  0:  Không  phong  bế  vận  động,  cử  động 
được hoàn toàn gối và chân 

Qui  ước:  Nhận  bệnh:  T1;  Gây  tê  NMC:  T2; 
Gây mê: T3; Rạch da: T4; Thám sát bụng: T5; Cắt 
u  bướu:  T6;  Nối  mặt  cắt:  T7;  Đóng  bụng:  T8; 
Khâu da: T9; Hồi sức: T10. 
Tham  khảo  Phẫu  thuật  viên  và  người  bệnh 
nhận xét vô cảm, đánh giá chất lượng tốt, trung 
bình hay kém, mức độ hài lòng. 

Thu thập và xử lý số liệu 
Nam, nữ, tuổi đời, chiều cao, cân nặng, bệnh 

kèm,  sinh  hiệu  trong  và  sau  mổ,  đánh  giá  liệt 
vận  động,  mức  độ  giảm  đau  của  liều  thuốc, 
thuốc  bổ  sung;  tác  dụng  phụ  không  mong 
muốn; các bất thường có thể gặp…nhập số liệu 
trên  phần  mềm  SPSS  16.0  for  Windows,  xử  lý 
theo phương pháp toán thống kê. Có ý nghĩa khi 
p < 0,05. 

KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU 
Từ  tháng  10/2013  đến  tháng  10/2014,  chúng 
tôi  đã  tiến  hành  vô  cảm  này  cho  31  bệnh  nhân 
phẫu thuật đại phẫu ở bụng, thực hiện tại khoa 
Phẫu thuật Gây mê‐Hồi sức Bệnh viện Nguyễn 
Tri Phương 
Phân tích kết quả như sau: 

Độ  1:  Phong  bế  một  phần.  Một  ít  cử  động 
gối, không nâng cả chân lên được. 

Đặc điểm chung 

Độ  2:  Phong  bế  hầu  như  hoàn  toàn.  Chỉ  có 
cử động được bàn chân. 

Tổng  số  31  BN:  Nam  11  (35,48%);  Nữ  20 
(64,52%); ASA I: 11 BN (35,48%); ASA II: 20 BN 
(64,52%) 

Độ  3:  Phong  bế  hoàn  toàn.  Không  cử  động 
được bàn chân hoặc gối. 

Thước  đo  điểm  đau  VAS  (Visual  Analog 
Score): 10 điểm 
0‐1: Không đau 
2‐3: Đau nhẹ 

Tuổi đời (năm)
Chiều cao (cm)
Cân nặng (kg)

Thấp nhất
30
145
31

Cao nhất
90
175
85

TB ± SD
59,13 ± 14,40
158,39 ± 7,89
53,26 ± 12,32

>3‐5: Đau vừa 

Đa  số  tập  trung  ở  độ  tuổi  45‐75  có  24  BN 
(77,41%). 

>5‐8: Đau rất nhiều 


Bệnh mổ và bệnh nội khoa kèm theo 

>8‐10: Đau dữ dội 

Bảng 2: Bệnh mổ 

Đánh giá mức tê theo mốc phân bố cảm giác: 
T6: Vùng hõm ức 
T8: Ngang hai hạ sườn 
T10: Ngang rốn 
T12: Ngang nếp bẹn 

72

Bảng 1: Tuổi đời, chiều cao, cân nặng 

STT
Chẩn đoán
1
K đại tràng
2
K đại tràng sigma
3
K trực tràng
4
Tắc mật do u đầu tụy
5
Loét hay K dạ dày
6

U xơ tử cung

Số BN
9
3
6
2
7
4

Tỉ lệ %
29,03
9,68
19,36
6,45
22,58
12,90

Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Nguyễn Tri Phương 2014 


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014 

Nghiên cứu Y học

 
STT
5
6


Có 5 ca kết hợp nội soi tỉ lệ 16,12% 
Bảng 3: Bệnh nội khoa kèm theo 
STT
1
2
3
4

Bệnh kèm
Số BN Tỉ lệ %
Tăng huyết áp
11
35,48
4
12,90
Bệnh tim thiếu máu cục bộ, bệnh
van tim
Bệnh hô hấp mạn, lao phổi cũ
4
12,90
Bệnh lý dạ dày
8
25,80

7

Bệnh kèm
Số BN Tỉ lệ %
Tiểu đường…
3

9,67
9
29,03
Suy thận mạn, suy dinh dưỡng,
thiếu máu mạn
Đã từng phẫu thuật ở bụng 1-3 lần
3
9,67

Có 5 BN được bù máu trước mổ 2‐4 đơn vị 
(16,12%) 

Đặc điểm cuộc mổ qua theo dõi bệnh nhân 
Bảng 4: Kết quả thu thập được 
STT
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11

Kết quả
Số ngày điều trị chờ mổ
Thời gian làm kỹ thuật (phút)

Độ sâu khoang NMC (cm)
Mổ được sau gây mê (phút)
Thời gian phẫu thuật (phút)
Chiều dài vết mổ (cm)
Thời gian rút ống NKQ (phút)
Dịch truyền trong mổ (ml)
Thời gian nằm hồi sức (phút)
Thời gian trung tiện (giờ)
Thời gian lưu catheter (giờ)

Thấp nhất
1
5
4,6
10
65
6
10
1.200
230
15
56

Cao nhất
20
10
8
20
270
20

740
2.000
3.000
50
76

TB ± SD
6,45 ± 4,53
7,5
5,31
13,65 ± 2,15
149,03 ± 60,88
14,77 ± 4,31
32,45 ± 8,32
1.516 ± 157,79
490,65 ± 51,30
22,67 ± 6,90
69,71 ± 3,70

Chỉ số huyết áp thay đổi từ T3‐T7 giảm 10,2 
– 7,31%, p = 0,039 

Có 2 BN lớn tuổi để lại hồi sức theo dõi, rút 
ống nội khí quản ngày thứ 2 sau mổ (50 giờ) và 
ngày thứ 3 chuyển trại 

Đánh giá hiệu quả vô cảm 

Thay đổi sinh hiệu trong và sau mổ 


Bảng 5: Mức tê: thử cảm giác trên da 
Mức tê
Số BN
Tỉ lệ %

100
80
Mạch

60

0
T2

T3

T4

T5

T6

T7

T8

T9 T10

 
Hình 3: Thay đổi hô hấp, SpO2, EtCO2. 

Chỉ số mạch thay đổi từ T3‐T8 giảm 8,91 lần 
(9,7%), p = 0,03 
140
120
100
80
60
40
20
0

HATD
HATT
HATB

Cho điểm
Ngày 1
Ngày 2
Ngày 3

Hình 4: Thay đổi huyết áp 

T12
31
100

0-1
22 BN
31
31


>1-3
22 BN
31
31

>3-5
9 BN
0
0

>5-8
0 BN
0
0

>8-10
0 BN
0
0

Có 9 BN mổ Cắt ¾ dạ dày và u tụy đau vừa 
vết mổ tại vùng hõm ức (29,03%)  

Tai biến‐biến chứng trong mổ: 
Bảng 7: Trong mổ và sau mổ 
STT

T1 T2 T3 T4 T5 T6 T7 T8 T9 T10


T10
31
100

Bảng 6: Thước đo điểm đau sau mổ VAS (Visual 
Analog Score) 10 điểm 

20
T1

T8
31
100

Độ liệt vận động: độ 0 ở mọi thời điểm 

SpO2

40

T6
26
83,87

1
2

Loại tai Số Tỉ lệ
Xuất hiện
biến

BN %
Mạch <50 2 6,45 Sau khởi
lần/phút

5 16,12 Sau khởi
HA <
90mmHg


Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Nguyễn Tri Phương 2014 

Xử trí
Atropine Sulfate
1mg
Ephedrine 10mg

73


Nghiên cứu Y học 

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014

 
STT
3

Loại tai Số Tỉ lệ
Xuất hiện
Xử trí

biến
BN %
Buồn nôn 3 9,67 Tại hồi
Hút dịch dạ dày.
và nôn
sức <3giờ Primperan 10mg IV

Sau mổ 3 ngày chưa gặp phiền nạn nào liên 
quan đến việc đặt catheter ngoài màng cứng. 

NHẬN XÉT‐BÀN LUẬN 
Đặc điểm chung (Bảng 1) 
31  BN  trong  nhóm  nghiên  cứu  có  11  nam 
(35,48%) và 20 nữ (64,52%). Tỉ lệ nữ cao hơn nam 
gấp  2,8  lần.  Tình  trạng  sức  khỏe  ASA  I  là  11 
(35,48%) và ASA II là 20 (64,52%). Tuổi đời trung 
bình  59,13  ±  14,40;  tuổi  thấp  nhất  30  và  tuổi  cao 
nhất là 90. Tập trung nhiều bệnh nhất lứa tuổi 45‐
75  có  24  BN  (77,41%),  tương  tự  các  nghiên  cứu 
khác(4,5,7,10).  Có  2  BN  cao  niên  nhất  là  88  và  90. 
Cân  nặng  trung  bình  53,26  ±  12,32  kg  (31‐85); 
Chiều  cao  trung  bình  158,39  ±  7,89  cm  (145‐175), 
không  khác  biệt  nhiều  so  các  nghiên  cứu  trong 
nước. 

Bệnh mổ và bệnh kèm (Bảng 2,3,4) 
Bệnh  mổ:  trên  đường  ruột  đa  số  là  K  đại 
tràng  (phải,  trái,  ngang)  9  BN  (29,03%),  K  trực 
tràng  6  BN  (19,36%),  K  đại  tràng  sigma  3  BN 
(9,68%).  Trên  dạ  dày  có  viêm  loét  xuất  huyết  ít 

hơn K dạ dày có 7 BN (22,58%); 2 cas U đầu tụy 
chèn  ép  gây  tắc  mật  (6,45%)  và  4  cas  u  xơ  tử 
cung to (12,90%).  
Bệnh nội khoa kèm theo: nhiều nhất là tăng 
huyết  áp  11  BN  (35,48%),  Bệnh  tim  mạch  khác 
như  thiếu  máu  cơ  tim  cục  bộ,  hở  2  lá,  rối  loạn 
nhịp tim 4BN (12,90%). Bệnh lý dạ dày với tiền 
căn  viêm  hay  loét  8  BN  (25,80%).  Bệnh  hô  hấp 
mạn,  lao  phổi  cũ  có  4  BN  (12,90%).  Bệnh  tiểu 
đường  3BN  (9,67%).  Ngoài  ra  tình  trạng  suy 
thận mạn, thiếu máu mạn, suy dinh dưỡng gặp 
9 BN (29,03%). Đã có tiền căn phẫu thuật ở bụng 
1‐3  lần  3  BN  (9,67%).  Có  20  BN  kèm  theo  hơn 
một bệnh (64,51%) và 8 BN kèm theo hơn 2 bệnh 
(25,80%). Tất cả những bệnh kèm theo được phối 
hợp  các  chuyên  khoa  điều  trị  ổn  định  về  lâm 
sàng  và  xét  nghiêm  mới  mổ.  Thời  gian  điều  trị 

74

trung  bình  6,45  ±  4,53  ngày  (1‐20  ngày).  5  BN 
được bù máu, cân bằng dinh dưỡng trước mổ. 
Tuổi cao là một trong những yếu tố làm tăng 
nguy cơ bệnh tật. Tuổi cao không làm tăng đáng 
kể  nguy  cơ  phẫu  thuật  nhưng  những  biến  đổi 
sinh lý bệnh trong quá trình tích tuổi và các bệnh 
lý  kèm  theo  thường  làm  cho  nguy  cơ  gây  mê 
phẫu thuật gia tăng đáng kể. Hơn nữa, tuổi càng 
cao  thì  việc  chuyển  hóa  và  đào  thải  thuốc  ít 
nhiều đều bị ảnh hưởng, nguy cơ tích lũy thuốc 

dẫn đến ngộ độc thuốc có thể xãy ra. Một số BN 
có  khó  khăn  khi  thực  hiện  gây  tê  ngoài  màng 
cứng  do  sự  thoái  hóa  cột  sống  lưng,  trượt  đốt 
sống,  các  dây  chằng  xơ  hóa,  viêm  dính…ảnh 
hưởng  đến  thao  tác  và  sự  lan  truyền  của  thuốc 
khi sử dụng. Gây tê ngoài màng cứng ít nhiều có 
nguy  cơ  hạ  huyết  áp,  chậm  nhịp  tim  sau  tê  do 
khả  năng  vận  mạch  bị  giảm  sút.  Tuy  nhiên,  kỹ 
thuật này đã đem lại hiệu quả giảm đau tối ưu, 
giảm  tối  thiểu  sự  mất  cân  bằng  về  huyết  động 
học, giảm tỉ lệ tai biến‐biến chứng chu phẫu một 
cách có ý nghĩa liên quan đến tắc mạch đặc biệt 
là  tắc  mạch  phổi,  nhồi  máu  cơ  tim…ở  những 
bệnh  nhân  phẫu  thuật  có  nguy  cơ  cao,  giảm 
nguy cơ tử vong đến 30% nhất là các phẫu thuật 
chuyên khoa chấn thương chỉnh hình(1,8). Vì thế, 
kỹ thuật gây tê vùng ngày nay thường được ưu 
tiên chọn lựa. 

Đặc điểm về kỹ thuật và thuốc phối hợp, kết 
quả qua theo dõi bệnh nhân 
Đặc điểm về kỹ thuật và thuốc sử dụng 
John  Howard  Corning  (1885)  thử  tiêm 
Cocaine vào tủy sống của chó phát hiện chó bị 
mất  cảm  giác  và  liệt  vận  động  2  chi  dưới,  J. 
Leongard  Coming  lần  đầu  tiên  thử  gây  tê 
ngoài  màng  cứng  đến  năm  1898  August  Bier 
(Đức)  mô  tả  và  cho  biết  kết  quả  giảm  đau  tốt 
bằng  cocaine  trong  mổ  vùng  chi  dưới.  1949, 
Cubelo  (Cuba)  thực  hiện  kỹ  thuật  CSE  nhằm 

mục đích kéo dài giảm đau sau mổ đến 72 giờ. 
1979,  Curelaru  I  thử  luồn  catheter  qua  kim 
Tuohy  đặt  lại  trong  khoang  ngoài  màng  cứng 
để cho thuốc tê Bupivacaine vào làm giảm đau 

Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Nguyễn Tri Phương 2014 


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014 

Nghiên cứu Y học

 
thành công. Từ đó dấy lên phong trào nghiên 
cứu,  cải  tiến  kỹ  thuật  cùng  với  sự  ra  đời  của 
nhiều  loại  thuốc  tê  mới  ít  tác  dụng  phụ  hơn 
được  áp  dụng  trong  các  chuyên  khoa  ngoại, 
sản,  niệu,  chỉnh  hình.Việt  Nam  áp  dụng  từ 
những năm 1990 và thực hiện ngày càng rộng 
rãi ở các cơ sở có điều kiện về nhân sự và cung 
cấp dụng cụ thuốc men đầy đủ(3). 
Bupivacaine  (Marcaine)  là  thuốc  tê  nhóm 
Amino  Amides  được  Ekstam  tổng  hợp  1957  và 
Widman sử dụng 1963. Thuốc dễ tan trong mỡ, 
ngấm dễ dàng qua màng tế bào thần kinh. Hệ số 
hòa  tan  28  gấp  10  lần  Lidocaine.  Gắn  proteine 
95%‐5%  ở  thể  tự  do  gây  độc  tính,  83%  phân  tử 
dạng  ion  hóa  nên  thời  gian  tiềm  phục  chậm 
nhưng thời gian tác dụng gây tê kéo dài, mạnh 
hơn Lidocaine gấp 4 lần. Biến dưỡng ở gan, đào 

thải qua thận dưới dạng sản phẩm chuyển hóa. 
Thuốc gây độc cho tim và hệ thần kinh khi nồng 
độ  huyết  tương  >1,6μg/ml‐4μg/ml.  Liều  tối  đa 
trong  tê  ngoài  màng  cứng  cho  phép 
400mg/24giờ;  liều  2‐2,5mg/kg  thường  được  áp 
dụng trong gây tê vùng phối hợp với Morphine, 
opides  hay  Narcotic,  Clonidine  …liều  thấp 
nhằm  tăng  hiệu  quả  và  thời  gian  giảm  đau  và 
giảm liều mỗi loại mà ít thấy tai biến‐biến chứng 
nghiêm trọng xảy ra cho người bệnh nhất là trên 
tim mạch(2). Fentanyl là narcotic không nhiều tác 
dụng phụ trên hô hấp, ngủ gà, ngứa, buồn nôn 
ói  mửa  như  Morphine  nên  thường  được  chọn 
lựa  hơn.  Fentanyl  có  đặc  tính  tan  trong  nước, 
phân tán nhanh vào hệ thần kinh, hấp thu nhanh 
vào máu nhưng khuếch tán chậm trong dịch não 
tủy; chuyển hóa ở gan, thời gian bán thải 3‐7 giờ. 
Khi phối hợp chúng với nhau trong gây tê ngoài 
màng cứng có tác dụng giảm đau thông qua cơ 
chế  ức  chế  các  dây  thần  kinh  giao  cảm  từ  tủy 
sống  chui  ra,  ức  chế  kênh  Na+,  K+,  Ca++,  nên 
chú ý ion đồ bệnh nhân phải ổn định. 
Nghiên  cứu  nước  ngoài:  Khi  gây  tê  ngoài 
màng  cứng  người  ta  thường  dùng  Marcaine 
0,125%  trong  phẫu  thuật  ngực,  trong  phẫu 
thuật  bụng  thường  chọn  0,25%  4‐6ml/giờ  kết 
hợp với Morphine 0,2mg/giờ hoặc Fentanyl 2‐

4μg/ml/5 ngày, nhóm dùng Morphine gây ngủ 
gà,  nôn  ói  nhiều  hơn  10‐20%;  cả  hai  thay  đổi 

huyết  động  15‐16%,  sau  mổ  kết  hợp 
Paracetamol  4g/24  giờ  cho  kết  quả  giảm  đau 
tốt, cải thiện lưu thông ruột và vận động được 
sớm, ra viện 10,5 ngày so với gây mê và giảm 
đau thông thường 11,5 ngày(4,5,9). 
Nghiên  cứu  trong  nước:  Phẫu  thuật  bụng 
dưới  với  Marcaine  0,1%+Fentanyl  4μg/ml  x  4‐
8ml/giờ/3ngày,  sau  mổ  Paracetamol  3g/24  giờ, 
kết quả giảm đau tốt nhưng có liệt vận động và 
tụt  huyết  áp  sau  mổ  1ca/37  ca(10);  trong  phẫu 
thuật  thay  khớp  chi  dưới  với  Marcaine 
0,125%+Fentanyl  1,25μg/ml  x  6‐5‐4ml/giờ  giảm 
dần trong 3 ngày kết hợp kháng viêm loại Mobic 
hay Felden mỗi 12 giờ cho kết quả giảm đau mỹ 
mãn, sinh hiệu ổn định, không liệt vận động và 
bí  tiểu,  an  toàn  cao.  Phẫu  thuật  viên  và  người 
bệnh hài lòng hoàn toàn(7). 
Kết quả theo dõi (Bảng 4): Trong nghiên cứu 
này, độ sâu khoang ngoài màng cứng trung bình 
5,31  cm.  Thời  gian  làm  kỹ  thuật  trung  bình  7,5 
phút (5‐10 phút), thao tác thành thạo không mất 
nhiều  thời gian. Phẫu thuật sau  gây mê 13,65 ± 
2,15  phút.  Thời  gian  phẫu  thuật  trung  bình 
149,03 ± 60,88 phút (65‐270 phút) lâu nhất trong 
phẫu  thuật  Mile,  Whippe.  Chiều  dài  vết  mổ 
trung bình 14,77 ± 4,31 cm (6‐20 cm), khá dài và 
mức  đau  hẳn  là  không  nhỏ  nhất  là  phẫu  thuật 
cắt  ¾  dạ  dày‐nối  vị  tràng.  Các  bệnh  nhân  này 
ngay sau khi về hồi sức chúng tôi cho thêm liều 
bolus thuốc tê qua catheter ngoài màng cứng khi 

có VAS > 3 điểm (9 BN). Thời gian tỉnh mê để rút 
được  ống  nội  khí  quản  trung  bình  32,45  ±  8,32 
phút; có 2 bệnh nhân 88 và 90 tuổi chúng tôi lưu 
lại ống nội khí quản đến ngày thứ 2 hô hấp tuần 
hoàn thật sự ổn định mới rút ống. Thời gian lưu 
bệnh tại hồi sức trung bình 490,65 ± 51,30 phút. 
Thời gian trung tiện trung bình 22,67 ± 6,90 giờ 
(15‐50  giờ)  chứng  tỏ  lưu  thông  ruột  hồi  phục 
sớm. Rút catheter ngoài màng cứng sau 69,71 ± 
3,70  giờ,  trong  giới  hạn  cho  phép,  vùng  đặt 
catheter khô sạch, khi rút thuận lợi mặc dù y văn 

Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Nguyễn Tri Phương 2014 

75


Nghiên cứu Y học 

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014

 
có  nêu  tai  nạn  có  thể  gặp  là  gập  tắc  hay  đứt 
catheter, nhiễm trùng… 

Thay đổi sinh hiệu trong và sau mổ 
Ảnh hưởng trên hô hấp: (Hình 3) Tần số hô 
hấp trước gây tê trung bình 18,42 ± 1,5 lần/phút. 
Sau  khi  thoát  mê  là  19,13  ±  2,09  lần/phút  (p 
>0,05).  Fentanyl  là  dẫn  chất  của  opioid  nên  khi 

tiêm vào tủy sống hay ngoài màng cứng có thể 
gây  ức  chế  trung  tâm  hành  tủy  làm  mất  nhạy 
cảm  của  trung  tâm  này  với  sự  tăng  CO2  có  thể 
suy  giảm  hô  hấp  và  suy  hô  hấp  là  biến  chứng 
nghiêm trọng mà tác giả Công Quyết Thắng ghi 
nhận  0,33‐5,5%(3)  và  Robert  J  (2003)  0,1‐0,9%(8). 
Trong nghiên cứu này chúng tôi theo dõi qua 3 
ngày chưa phát hiện cas nào suy giảm hô hấp, có 
lẻ liều Fentanyl chúng tôi sử dụng khá thấp 10‐8‐
6μg/giờ so với nhiều tác giả khác nên khoảng an 
toàn rộng hơn(4,5,9,10,a). Sp02, EtCO2, ECG trong và 
sau  mổ  ổn  định  mặc  dù  trong  nghiên  cứu  có  4 
BN bệnh phổi mạn tính và 4 BN kèm bệnh tim 
mạch, van tim, 11 BN bệnh tăng huyết áp. 
Ảnh hưởng trên huyết động (Hình 3,4) Thay 
đổi mạch và huyết áp chủ yếu sau khởi mê đặt 
nội khí quản (p <0,05) từ T3‐T7. Mạch giảm sau 
mê từ 9,7‐8,91%, có 2 cas (6,45%) mạch chậm <50 
lần/phút  xử  trí  Atropine  Sulfat  0,5mg  cải  thiện. 
Huyết  áp  giảm  10,2‐7,31%,  gỉảm  <90mmHg  có 
5cas  (16,12%)  xử  trí  Ephedrine  10mg,  bù  dịch 
truyền. Thể tích dịch truyền điện giải trong mổ 
trung bình 1,516 ± 157,79 ml (1200‐2000ml). Thay 
đổi mạch, huyết áp khi khởi mê do tác dụng của 
các  dược  chất  tiền  mê,  thuốc  ngủ,  giãn  cơ  mà 
không liên quan trực tiếp đến việc gây tê ngoài 
màng  cứng  vì  thuốc  được  duy  trì  sau  đó.  Các 
nghiên cứu khác giảm huyết áp 16% khi duy trì 
giảm đau ngoài màng cứng 


Hiệu quả giảm đau (Bảng 5, 6) 
Trong  mổ:  Lấy  mốc  sinh  hiệu  trước  gây  tê 
làm  mức  cơ  bản.  Sau  gây  tê  ngoài  màng  cứng 
không  thay  đổi.  Mạch,  huyết  áp  thấp  tại  thời 
điểm  gây  mê  đặt  nội  khí  quản  kéo  dài  đến  khi 
vào  bụng.Tuy  cả  hai  có  p  <0,05,  thay  đổi  có  ý 
nghĩa  về  mặc  thống  kê  nhưng  về  phương  diện 

76

lâm sàng thì tất cả các bệnh nhân đều chấp nhận 
được  mức  thay  đổi  huyết  động  học  này  liên 
quan trực tiếp đến việc dùng thuốc gây mê, giãn 
cơ mà không có mối liên quan đến kỹ thuật và 
thuốc  gây  tê  ngoài  màng  cứng.  Chúng  tôi  cho 
liều bolus và duy trì giảm đau ngoài màng cứng 
qua bơm tiêm điện sau khi khởi mê và ổn định 
huyết  động  học  với  liều  6ml/giờ  suốt  cuộc  mổ, 
Sevoran  2‐3%,  Esmeron  10mg  duy  trì  mềm  cơ, 
đáp  ứng  được  các  thao  tác  ngoại  khoa,  không 
cho thêm bất kỳ thuốc giảm đau nào.  
Sau mổ đến ngày thứ ba các bệnh nhân diễn 
biến thuận lợi về hô hấp, mạch và huyết áp, đặc 
biệt trong nhóm có 11 BN có kèm theo bệnh tăng 
huyết  áp  cũng  đều  ổn  định  ở  mức  <140/90 
mmHg. Mức phong bế cảm giác đến T6 83,87% 
và  T8  100%,  bao  phủ  được  vùng  mổ.  VAS  giờ 
đầu  sau  mổ  >3  điểm  có  9  BN  mổ  cắt  ¾  dạ  dày 
nối vị tràng và u tụy kêu đau vùng mũi ức khi 
cử  động,  xử  trí  bolus  6ml  thuốc  tê  sau  10  phút 

cải thiện mức độ đau tốt. 100% bệnh nhân không 
liệt  vận  động  (độ  0)  trong  mọi  thời  điểm.  Việc 
theo dõi và chăm sóc sau mổ của điều dưỡng đối 
với người bệnh cũng nhẹ nhàng hơn so với các 
bệnh  nhân  chỉ  gây  mê  toàn  thể  và  giảm  đau 
thông  thường  khác.  Như  vậy  vị  trí  đặt  catheter 
ngoài màng cứng tại L1‐2 hoặc L2‐3 luồn 5cm là 
thích hợp cho loại phẫu thuật này. Lượng thuốc 
sử dụng trong 3 ngày thấp hơn các nghiên cứu 
khác  >50%(4,6,9,10,11).  Marcaine  0,5%  20ml  3lọ; 
Fentanyl 100μg/2ml 6 ống và Perfalgan 1g 2 chai 
hoặc  Fendel  20mg  2  ống.  Tổng  chi  phí  khoảng 
450.000  đồng  so  với  giảm  đau  thông  thường 
khoảng 650.000 đồng/ 3 ngày. 

Tại biến‐biến chứng (Bảng 7) 
Trong  mổ:  sau  khởi  mê  có  2  BN  (6,45%) 
mạch  chậm  <50  lần/phút;  5  BN  (16,12%)  hạ 
huyết  áp  <90mmHg,  không  liên  quan  đến  kỹ 
thuật và thuốc điều trị giảm đau. Sau mổ đến 
ngày thứ 3 không thay đổi huyết động so với 
ban đầu (p >0,05).  
Sau  mổ:  Buồn  nôn  và  nôn  xuất  hiện  giai 
đoạn  tỉnh  mê,  đây  là  vấn  đề  thường  thấy  sau 

Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Nguyễn Tri Phương 2014 


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014 


Nghiên cứu Y học

 
mọi cuộc gây mê phẫu thuật do tác dụng phụ 
của  dược  chất  thuốc  mê  đã  dùng  nhất  là  các 
opioides  vì  chúng  ưa  mỡ  hơn  ưa  nước  hay 
xuất hiện muộn sau 12 giờ sử dụng(2,3). Nghiên 
cứu này gặp 3 cas (9,67%), xử trí hút sạch dịch 
dạ  dày  và  chống  nôn  bằng  Primperan  10mg 
IV. Các nghiên cứu khác tỉ lệ nôn và buồn nôn 
cao  từ  10‐20‐50%  nhất  là  giảm  đau  sau  mổ 
PCA Morphine, ngoài ra gây ngủ gà, chậm rút 
ống nội khí quản(8,11). 
Bí  tiểu:  tất  cả  bệnh  nhân  đều  được  thông 
tiểu lưu 2‐3 ngày. Những cas đã rút sond tiểu và 
còn catheter ngoài màng cứng nhưng chưa thấy 
bí  tiểu  cas  nào;  các  nghiên  cứu  khác  cỏ  tỉ  lệ  bí 
tiểu 4,42%(7), 10‐30%(8) do thuốc tê ức chế phản 
xạ thần kinh giao cảm 
Đau  đầu: do thoát dịch não tủy qua lỗ rách 
màng nhện tủy khoảng 1%, xử trí chích máu vào 
khoang ngoài màng cứng làm bít lổ rách(8) trong 
nghiên cứu này chưa thấy. 
Suy hô hấp: mặc dù y văn có nêu tai biến suy 
hô hấp từ 0,1‐0,9%(8) hay các tai biến do bản thân 
gây tê ngoài màng cứng gây ra như đau đầu, đau 
lưng, gâp tắc catheter, tụ máu ngoài màng cứng, 
tổn  thương  thần  kinh  liệt  vận  động,  trụy  tim 
mạch  do  catheter  di  chuyển  vào  tủy  sống  …(3) 
trong nghiên cứu chưa gặp tai biến này. 


Nhận  xét  của  phẫu  thuật  viên  và  của  bệnh 
nhân 
Phẫu  thuật  viên:  không  phàn  nàn  về  mềm 
cơ  và  bệnh  nhân  thức  tỉnh  trong  mổ.  Vai  trò 
giảm  đau  ngoài  màng  cứng  phát  huy  hiệu  quả 
tốt, an toàn. Hài lòng cao. 
Bệnh nhân: được giảm đau tốt nên ngủ nghĩ 
vận  động  thoải  mái,  giúp  họ  sớm  ổn  định  tinh 
thần và cải thiện sức khỏe nhanh. Rất hài lòng. 

KẾT LUẬN 
Gây  tê  ngoài  màng  cứng  liên  tục  cho  hiệu 
quả  giảm  đau  vượt  trội  hơn  các  phương  pháp 

khác.  Gỉam  sử  dụng  thuốc  mê  hơi,  giảm  đau, 
giãn cơ trong mổ. Đáp ứng tốt nhu cầu giảm đau 
sau  mổ  cho  mọi  bệnh  nhân  phẫu  thuật  vùng 
bụng  trên  và  dưới.  An  toàn.  Ít  tai  biến‐biến 
chứng. Chi phí thấp đáng kể. 

TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1.

Auroy  Y,  Benhamou  D,  Bargues  L  (2002),  Major 
complications  of  regional  anesthesia  in  France. 
Anesthesiology, 97:1274‐80. 

2.


Công  Quyết  Thắng  (2002),  Các  thuốc  tê,  Bài  giãng  Gây  mê 
Hồi sức, tập 1, Nxb Y học, tr.531‐549. 

3.

Công  Quyết  Thắng  (2002),  Gây  tê  tủy  sống‐tê  ngoài  màng 
cứng, Bài giãng Gây mê Hồi sức, tập 2, Nxb Y học, tr.44‐83. 

4.

Mann  C;  Pouzeratt,  Y;  Boccara  G;  Peccoux  C,  Vergne,  C, 
Brunat  G,  Domergue  Jacques  M.D.  (2000),  Comparison  of 
intravenous  or  Epidural  Patient‐controlled  Analgesia  in  the 
Elderly  after  Major  abdominal  surgery,  Anesthesiology: 
volum 92(2), pp.433 

5.

Merts  PM  et  al  (2003),  Choc  anaphylactique.  Conférences 
d’actualisation,  Congrès  national  d’anesthe’sie  et  de 
re’animation; 45e, pp.308‐323 

6.

Moiniche  S,  Bulow  s,  Hesselfeldt  P,  Hestbaerk  A,  Kehlet  H 
(1995), Convalescence and hospital stay after colonic surgery 
with  balanced  analgesia,  early  oral  feeding,  and  enforced 
mobilisation, Eur J Surg. 161 (4):283‐8. 

7.


Nguyễn  Thu  Chung  (2013),  Hiệu  quả  vô  cảm  CSE  bằng 
Marcaine+Fentanyl  trong  và  sau  mổ  thay  khớp  chi  dưới  tại 
Bệnh viện Nguyễn Tri Phương, Y học TP. Hồ Chí Minh, Hội 
nghị khoa học kỹ thuật Bệnh viện Nguyễn Tri Phương 2013, 
phụ bản của tập 17* số 2* 2013, tr.11‐21. 

8.

Robert  J  et  al  (2003),  “The  role  of  epidural  anesthesia  and 
analgesia in surgical practic”, Annals surgery, 238 (5): pp.663‐
672. 

9.

Thore’n T, Sundberg A, Wattwil M, Garvill JE, Jurgensen U,. 
(1989), Acta Anaesthesiol Scand, 3392), pp.181‐5. 

10.

Trần  Thị  Ngọc  Phượng,  Huỳnh  Thị  Thỉ,  Trần  Đỗ  Anh  Vũ, 
Nguyễn Phúc Cẩm Hoàng (2013), Gây mê Hồi sức cho phẫu 
thuật cắt bàng quang tận gốc kèm tạo hình bàng quang bằng 
ruột, Y học TP. Hồ Chí Minh8 tập 18* số 1* 2014, tr.312‐317. 

11.

Zugel  N,  Bruer  C,  Breitschaft  K,  Angster  R,  (2002),  Effect  of 
thoracic  epidural  analgesia  on  the  early  postoperative  phase 
after  interventions  on  the  gastrointestinal  tract,  Chirurg,  73 

(3):262‐8. 

Ngày nhận bài báo:    

 

20/10/2014 

Ngày phản biện nhận xét bài báo: 

15/11/2014 

Ngày bài báo được đăng:  

5/12/2014 

 

 

 

 

Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Nguyễn Tri Phương 2014 

77




×