Tải bản đầy đủ (.pdf) (7 trang)

Đánh giá kết quả xạ phẫu điều trị đau dây V nguyên phát bằng dao gamma quay tại Trung tâm Y học Hạt nhân và ung bướu Bệnh viện Bạch Mai

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (422.29 KB, 7 trang )

Nghiên cứu Y học 

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014

 

ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ XẠ PHẪU ĐIỀU TRỊ ĐAU DÂY V  
NGUYÊN PHÁT BẰNG DAO GAMMA QUAY TẠI TRUNG TÂM Y HỌC  
HẠT NHÂN VÀ UNG BƯỚU BỆNH VIỆN BẠCH MAI 
Đoàn Xuân Trường, Mai Trọng Khoa 

TÓM TẮT 
Đau dây V nguyên phátlà một trong những nguyên nhân đau nửa mặt phổ biến nhất ở lứa tuổi trung niên, 
cơn đau rất khó chịu ảnh hưởng ngiêm trọng tới chất lượng cuộc sống của bệnh nhân.Bệnh thường kháng điều 
trị nội khoa. 
Mục tiêu: Bước đầu đánh giá kết quả xạ phẫu điều trị đau dây V nguyên phát bằng dao gamma quay.  
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Đối tượng nghiên cứu: 23 bệnh nhân chẩn đoán xác định là đau 
dây V nguyên phát. Tất cả đã điều trị nội khoa và không hết đau khi ngừng thuốc. Năm bệnh nhân có bất thường 
xung đột thần kinh mạch máu, hai trong số năm bệnh nhân này đã trải qua phẫu thuật giải chèn ép mạch máu 
nhưng tái phát và tăng cường độ và số cơn đau sau phẫu thuật một năm.  
Phương pháp nghiên cứu: Mô tả cắt ngang và theo dõi dọc.  
Kết quả nghiên cứu 1.Tuổi và giới của bệnh nhân nghiên cứu: 14/23 bệnh nhân là nữ giới, tuổi thấp nhất 
là 27, cao nhất là 82, tuổi trung bình của nhóm bệnh nhân là 72,2.  2. Triệu chứng lâm sàng trước điều trị: tất cả 
bệnh nhân đều đau ở mức độ BNI‐IV (đau nhiều không đáp ứng hoàn toàn với thuốc nhóm carbamazepin). Hầu 
hết đau nhánh V3. 3. Liều và cách thức xạ phẫu: thấp nhất là 60 Gy, cao nhất là 80 Gy, trung bình: 72,2 Gy. Xạ 
phẫu bằng duy nhất một shot 4mm vào gốc dây V cùng bên đau, vị trí thoát ra khỏi cầu não. 4. Kết quả điều trị: 
Sau điều trị 2 tháng đến 56 tháng (trung bình là 14,2 tháng), tất cả các bệnh nhân đều giảm đau: 10 bệnh nhân 
BNI‐I (hết đau hoàn toàn, không dung thuốc), 7 bệnh nhân BNI‐II (thỉnh thoảng đau, không dung thuốc) và 6 
bệnh nhân BNI‐IIIa ( thỉnh thoảng đau, đáp ứng với thuốc). 4.Tác dụng không mong muốn: 2 bệnh nhân có biểu 
hiện tê bì nửa mặt và yếu cơ nhai cùng bên.  
Kết luận: Xạ phẫu điều trị đau dây V nguyên phát bằng dao gamma quay là môt phương pháp không xâm 


lấn, an toàn, kiểm soát được cơn đau, tái phát thấp, ít tác dụng phụ. 
Từ khóa: Xạ phẫu, dây V, dao gamma  

ABSTRACT 
CLINICAL OUTCOMES OF ROTATING GAMMA KNIFE RADIOSURGERY IN THE TREATMENT OF 
PATIENTS WITH IDIOPATHIC TRIGEMINAL NEURALGIA IN THE CENTRE NUCLEAR MEDICINE 
AND ONCOLOGY, BACH MAI HOSPITAL 
Doan Xuan Truong, Mai Trong Khoa 
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 18 ‐ Supplement of No 6‐ 2014: 466 –472
Background: The idiopathic trigeminal neuralgia ( ITN) is one ofthe most common causeto the facial pain in 
the  middle  age,  very  uncomfortable  pain,  significant  impact  on  the  life  of  patients.  Patients  often  resistant  to 
medical therapy. 
Objective: to evaluate of the treatment outcomes in ITN patients treated by rotating gamma knife surgery 
(GKRS).  
* Bệnh viện Bạch Mai 
Tác giả liên lạc: ThS. Đoàn Xuân Trường; ĐT: 0915649222; Email: 

466

Chuyên Đề Phẫu Thuật Thần Kinh  


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014 

Nghiên cứu Y học

 
Subjects: 23 ITN patients. All of patients had medical treatment, 5 in 23 cases are caused by a blood vessel 
pressing  on  the  root  of  the  nerve,  where  the  nerve  comes  out  from  the  brain  through  the  skull,  2patients  had 
undergone surgery.  

Methods: Cross‐sectional descriptive and longitudinal follow up study.  
Theresults1.Age and sex of patients: 14/23 patients were female, the minimum ageis 27, maximum is 82, 
median age is 72,2 year. 2. Clinical symptomsbeforetreatment: all patients had asevere pain at the BNI‐IV (not 
adequately controlled with medication andno pain relief). Almost of patients (20/23) with arm pain V3 branch. 3. 
Radiationsurgery  by  a  single,  4mm  shot  to  the  root  of  the  nerve,  where  the  nerve  comes  out  from  the  pon 
brainstem. The average radiation dose was 72,2 Gy (100% isodose curve), range: 60‐ 80 Gy. 4. Efficiency: The 
median  followup  time  was  14,2  months  (range:  2‐  56  months).  All  patients  had  pain  relief:  10  BNI‐I  patients 
(complete response: no pain, no medication), 7 patients with BNI‐II (Occasional pain, not requiring medication), 
6 BNI‐IIIa patients (Some pain, adequately controlled with medication). There are two cases of numbness facial, 
decreased corneal sensation, weak of ipsilateral chewing muscle.  
Conclusion:  Rotating  gamma  knife  radiosurgery  is  a  minimally  invasive  technique  to  treat  idiopathic 
trigeminal neuralgia, initially showed good results. 
Keywords: Gamma knife, radiosurgery, trigeminal neuralgia 

ĐẶT VẤN ĐỀ
Dây  thần  kinh  số  năm  (còn  gọi  làdây  thần 
kinh  sinh  ba  hay  dây  thần  kinh  tam  thoa‐ 
Trigeminal nerve) là một dây thần kinh lớn nhất 
trong số các dây thần kinh sọ não, có chức năng 
cảm giác trong khuôn mặt và một số chức năng 
vận động cơ cắn và nhai. Mỗi dây thần kinh số 
năm xuất phát từ mỗi bên của cầu não. Nó có ba 
nhánh  chính:  dây  thần  kinh  mắt  (V1),  các  dây 
thần  kinh  hàm  trên  (V2),  và  các  dây  thần  kinh 
hàm  dưới  (V3).  Các  dây  thần  kinh  mắt  và  hàm 
trên  là  hoàn  toàn  cảm  giác.Các  dây  thần  kinh 
hàm  dưới  có  chức  năng  hỗn  hợp  vận  động  và 
cảm giác.Nguồn gốc nhân vận động từ cầu não, 
trong  khi  bộ  phận  cảm  giác  có  nguồn  gốc  từ 
đỉnh thần kinh sọ. 

Đau  dây  thần  kinh  sốV  nguyên 
phát(Trigeminal  Neuralria:  TN)  là  một  trong 
những nguyên nhân gây đau vùng mặt hay gặp 
nhất.  Theo  định  nghĩa  của  hiệp  hội  đau  đầu 
quốc  tếnăm 2003,  đau dây  V  là những  cơn  đau 
xảy  ra  ở  khu  vực  chi  phối  của  một  hoặc  nhiều 
nhánh của dây thần kinh số V. Cơn đau thường 
xẩy  ra  một  bên,  có  tính  chất  đột  ngột,  đau  dữ 
dội, đau nhói, như dao đâm, như điện giật, cơn 
ngắn dưới hai phút, hay tái phát. Bệnh gây ảnh 
hưởngnghiêm  trọng  đến  chất  lượng  cuộc  sống 

Mạch Máu Não và Xạ Phẫu 

của  bệnh  nhân.  Ở  Mỹ,  ước  tính  có  khoảng  1,7 
triệu người mắc, với tỷ lệ 4‐5/100.000 người dân. 
Độ  tuổi  thường  mắc  từ  50  đến  70  tuổi,gặp  ít  ở 
những người trẻ. Tỷ lệ đau dây V tăng dần theo 
độ tuổi, tỷ lệ mắc ở nam/nữ là 2/1. 
Chẩn đoán đau dây V chủ yếu dựa vào hỏi 
bệnh  và  khám  lâm  sàng.  Điều  trị  đau  dây  V 
nguyên phát có nhiều phương pháp: bằng thuốc, 
phẫu  thuật,  phong  bế  thần  kinh.  Điều  trị  bằng 
nhiệt đau dây V vô căn là một chứng bệnh đáp 
ứng  ban  đầu  với  các  thuốc  kháng  động  kinh 
nhóm  carbamazepine  khá  tốt,  tuy  nhiên  theo 
thời  gian  bệnh  nhân  có  xu  hướng  kháng  thuốc 
đơn trị và sau đó kháng đa trị liệu. Các phương 
pháp can thiệp phá huỷ dây V qua da và phẫu 
thuật giải chèn ép mạch máu đã được áp dụng 

từ  lâu  trên  thế  giới  và  Việt  Nam.  Các  phương 
pháp  can  thiệp  xâm  lấn  cho  kết  quả  kiểm  soát 
cơn đau khá tốt, tuy nhiên những phương pháp 
này  có  thể  gây  ra  một  số  biến  chứng  nhiễm 
trùng, gây mê, dò dịch não tuỷ… 
Xạ phẫu (Radiosurgery) là sử dụng chùm tia 
bức  xạ  tập  trung  chiếu  vào  gốc  (rễ)  dây  thần 
kinh sinh ba trong hố sau thoát ra từ cầu não mà 
không  làm  tổn  hại  các  mô  xung  quanh  hoặc 
mạch máu. Tác dụng của tia làm gián đoạn các 

467


Nghiên cứu Y học 

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014

 
tín hiệu đau lên não nhằm mục đích. Mục đích là 
cắt cơn đau. Xạ phẫu định vị điều trị đau dây V 
nguyên  phát  có  thể  được  thực  hiện  bằng  công 
nghệ  xạ  phẫu  Gamma  Knife  (Gamma  Knife 
RadioSurgery: GKRS),CyberKnife và máy gia tốc 
tuyến tính (Linac).  
Ở Việt Nam, đã có một số công trình nghiên 
cứu đánh giá hiệu quả điều trị đau dây V vô căn 
bằngcác  phương  pháp  như  nhiệt  đông  lạnh, 
phẫu  thuật  giải  chèn  ép  mạch  máu,  triệt  hạch 
qua  da  của  các  tác  giả  Đồng  Văn  Hệ,  Vũ  Văn 

Nho, Bùi Văn Giang. 
Trung tâm Y học hạt nhân và Ung bướubệnh 
viện  Bạch  Mai  là  cơ  sở  đầu  tiên  ứng  dụng  hệ 
thống dao Gamma quay của Hoa Kỳ để điều trị 
một số bệnh lý sọ não trong đó có đau dây V vô 
căn. Mục tiêunghiên cứu của chúng tôi là: Bước 
đầu đánh giá kết quả điều trị một số trường hợp đau 
dây V vô căn kháng thuốc bằng xạ phẫu dao gamma 
quay. 

ĐỐI TƯỢNG ‐ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
Đối tượng nghiên cứu 
Gồm 23 bệnh nhân được chẩn đoán xác định 
đau  dây  V  nguyên  phát,  điều  trị  bằng  phương 
pháp xạ phẫu dao gamma quay tại Trung tâm Y 
học hạt nhân và Ung bướu Bệnh viện Bạch Mai. 
Các  bệnh  nhân  đã  được  điều  trị  nội  khoa  bằng 
thuốc  kháng  động  kinh  nhóm  Cacbarmazepine 
và  phối  hợp  các  thuốc  khác  nhưng  không  cắt 
được cơn đau hoàn toàn. Đã có 3 bệnh nhân trải 
qua phẫu thuật giải chèn ép mạch máu. 

Phương pháp nghiên cứu 
Nghiên cứu mô tả cắt ngang và theo dõi dọc. 

Các bước tiến hành 
‐ Tất cả các bệnh nhân được khám lâm sàng 
thần kinh, chụp cộng hưởng từ não, ghi điện não 
đồ,  xét  nghiệm  hoá  sinh  máu,  khám  chuyên 
khoa răng hàm mặt, tai mũi họng. 

‐ Qui trình xạ phẫu: 

+  Cố  định  đầu  bằng  khung  cố  định 
chuyên biệt. 

468

+  Chụp  mô  phỏng  bằng  máy  cộng  hưởng 
từ 1,5 Tesla. 
+  Lập  kế  hoạch  xạ  phẫu:  nhóm  lập  kế 
hoạch xạ phẫu gồm có bác sỹ chuyên khoa xạ 
trị,thần kinh, kỹ sư xạ trị và vật lý y học. 
‐Theo dõi sau điều trị: Đánh giá triệu chứng cơ 
năng và thực thể hàng tháng trong 3 tháng đầu, 
3 tháng một lần thời gian tiếp theo,chụp MRI sọ 
não 6 tháng 1 lần trong năm đầu, tiếp theo 1 năm 
1 lần. 
Sử dụng thang điểm đánh giá đau của Viện 
thần  kinh  Barrow  (BNI‐  BARROWNEURO 
INSTITUE): 
‐ BNII:Không đau, không cần thuốc. 
‐ BNIII:Hiếm khi đau, không cần thuốc. 
‐ BNI III:Thỉnh thoảng có cơn đau, kiểm soát 
với thuốc. 
‐  BNI  IV:  Thỉnh  thoảng  có  cơn  đau,  không 
được kiểm soát bằng thuốc. 
‐  BNIV:Đau  đớn,  không  thuyên  giảm  với 
thuốc. 

Thời gian nghiên cứu 

Từ tháng 1/ 2010 đến tháng 8/ 2014 

Thiết bị xạ phẫu 
Hệ  thống  dao  gamma  quay  (  Rotating 
gamma knife: RGK) do Mỹ sản xuất năm 2007. 

KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU 
Tuổi và giới của bệnh nhân 
23 bệnh nhân trong nghiên cứu, gồm 9 nam 
và 14 nữ, tuổi trung bình là 65, cao tuổi nhất là 
82, tuổi thấp nhất là 27. 

Đặc điểm lâm sàng  
Bảng 1.Các nhánh đau của dây V   
Nhánh đau
V2
V3
V2,V3
V1, V2
V1, V2, V3

Trường hợp
0
20
1
1
1

Chuyên Đề Phẫu Thuật Thần Kinh  



Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014 

Nghiên cứu Y học

 
Nhận xét: Hầu hết (20 bênh nhân) bệnh nhân 
đau  nhánh  V3,  có  một  trường  hợp  đau  cả  3 
nhánh, không có trường hợp nào đau nhánh V2 
đơn thuần. 
Bảng 2. Mức độ đau của bệnh nhân theo phân độ 
BNI 

Bảng 6.Tác dụng không mong muốn sau xạ phẫu 
Biến chứng
Giảm phản xạ giác mạc
Giảm vận động cơ nhai
Tê nửa mặt

Nhận xét:2/ 23 bệnh nhân có biểu hiện: tê bì 
nửa mặt, yếu cơ nhai cùng bên. 

Mức độ đau

Số bệnh nhân

BNI- I

0


BÀN LUẬN 

BNI- II

0

BNI- III

0

Tuổi và giới của bệnh nhân 

BNI- IV
BNI- V

5
18

Tổng

23

Nhận  xét:  Trước  khi  xạ  phẫu,  tất  cả  bệnh 
nhân  đều  biểu  hiện  đau  rất  nghiêm  trọng  với 
mức độ BNI‐ IV và BNI‐ V ( Đau không thể kiểm 
soát bằng thuốc). 
Bảng 3. Tiền sử phẫu thuật 
Tiền sử phẫu thuật

Không

Tổng

Số bệnh nhân
2
21
23

Bảng 4.Liều xạ phẫu 
Liều xạ phẫu (100%)
Trường hợp
60 Gy
5
64 Gy
2
66 Gy
1
70 Gy
9
72 Gy
2
76 Gy
2
80 Gy
2
Liều trung bình: 72,7Gy

Nhận xét: Liều xạ phẫutrung bình là 72,2 Gy, 
liều cao nhất là 80 Gy, thấp nhất là 60 Gy. 
Bảng 5. Mức độ giảm đau sau trung bình5 tháng 
theo thang điểm BNI 

Thang điểm
BNI- I
BNI- II
BNI- III
BNI- IV
BNI- V

Trước điều trị
0
0
0
5
18

Sau điều trị
10
7
6
0
0

Nhận  xét:  Hầu  hết  bệnh  nhân  hết  đau  và 
giảm đau không cần dung thuốc.  

Mạch Máu Não và Xạ Phẫu 

Số bệnh nhân
2/ 23
2/ 23
2/ 23


23  bệnh  nhân  trong  nghiên  cứu  của  chúng 
tôi đều là người trưởng thành, tuổi thấp nhất là 
27, cao nhất là 82 trong đó 9 bệnh nhân là nam, 
14 bệnh nhân nữ.  
Theo  thống  kê  của  nhiều  nghiên  cứu  trong 
và  ngoài nước  đau  dây V  thường  xảy  ra  ở  tuổi 
trung  niên  và  người  già,  ở  lứa  tuổi  40‐  80  tuổi. 
Hiếm  gặp  ở  người  trẻ  và  nữ  giới  gặp  phổ  biến 
hơn nam giới. Jason Shehan nghiên cứu trên 136 
bệnh nhân đau dây V thấy có 60 bệnh nhân nam, 
76 bệnh nhân nữ, tuổi trung bình là 68(13). 
Ở  Việt  Nam,  tác  giả  Đồng  Văn  Hệ  nghiên 
cứu trên 89 bệnh nhân, tuổi thấp nhất là 35, cao 
nhất  là  82,  tuổi  trung  bình  là  52,  trong  đó  54 
bệnh  nhân  là  nữ(2).  Theo  tác  giả  Vũ  Văn  Nho 
nghiên  cứu  410  bệnh  nhân  thấy  nữ  gặp  nhiều 
hơn nam, tuổi thấp nhất là 20, cao nhất là 75, chủ 
yếu gặp ở tuổi từ 50‐ 60(14). 

Triệu chứng lâm sàng 
Trong nghiên cứu của chúng tôi triệu chứng 
lâm sàng được bệnh nhân mô tả là cảm giác đau 
dữ  dội  từng  cơn  ở  một  nửa  mặt  theo  chi  phối 
của  khu  vực  dây  thần  kinh  số  V.  Tất  cả  bệnh 
nhân đều có triệu chứng lâm sàng rất điển hình 
trong đó có một bệnh nhân có biểu hiện đau dây 
V hai bên. Về nhánh tổn thương của dây V, tất cả 
các bệnh nhân đều có biểu hiện đau nhánh V3. 
Kết  quả  nghiên  cứu  của  chúng  tôi  cũng  tương 

tựnhưcác  nghiên  cứu  của  các  tác  giả  trong  và 
ngoài nước trên một số lượng lớn bệnh nhân . 
Theo tác giả Đồng Văn Hệ, đau dây V phải 
gặp 55,4%, 3 bệnh nhân đau cả hai bên, tỷ lệ đau 
ở các nhánh V3, V2 tương ứng là 48,2%, 42,1%và 

469


Nghiên cứu Y học 

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014

 
ở  dây  V1  gặp  11/  89  bệnh  nhân(2).  Tác  giả  Vũ 
Văn  Nho  nghiên  cứu  trên  410  bệnh  nhân  thấy 
291 bệnh nhân đau bên phải, tỷ lệ đau nhánh V3 
là  30,7%(14).Sheehan  nghiên  cứu  trên  136  bệnh 
nhân  thấy  tỷ  lệđau  dây  V  theo  khu  vực  nhánh 
V1, V2, V3 tương ứng là 6,9%, 28,4% và 23,3%(13). 
Các  nghiên  cứu  khác  cũng  chỉ  ra  rằng  tổn 
thương nhánh V1 đơn thuần rất ít gặp, chủ yếu 
là tổn thương nhánh V3 và phối hợp V2 và V3. 

với  liều  85  Gy  đáp  ứng  giảm  đau  sớm  hơn 
nhóm  điều  trị  liều  80  Gy.  Massager  và  Cs(9) 
chia 358 bệnh nhân đau dây V thành hai nhóm 
điều  trị,  nhóm  một  được  điều  trị  liều<90  Gy, 
nhóm hai được điều trị với một liều 90 Gy. Kết 
quả cho thấy, bệnh nhân trong nhóm hai giảm 

đau  nhanh  hơn  nhóm  một.Nhóm  bệnh  nhân 
chúng  tôi  nghiên  cứu  điều  được  xạ  phẫu  với 
liều trung bình 64,7Gy (100%). 

Tất cả các bệnh nhân chúng tôi điều trị đều 
đã điều trị nội khoa ít nhất 3 tháng và phối hợp 
ít  nhất  hai  thuốc  trong  đó  một  thuốc  là  kháng 
động kinh Tegretol, thuốc thứ 2 là Gabapentine 
hoặc thuốc nhóm khác. 

Hiệu quả điều trị 

Kỹ thuật xạ phẫu 
Đích điều trị của xạ phẫu dây V 
Hiệu  quả  điều  trị  cũng  phụ  thuộc  vào  đích 
xạ  trị.  Matsuda  và  cs(10)  so  sánh59  bệnh  nhân 
được điều trị bằng phương pháp GKRS vào gốc 
thần kinh số V với nhóm 41 bệnh nhân điều trị 
nhắm  vào  hạch  gasseria  của  dây  V.Nghiên  cứu 
cho thấy tác dụng giảm đau cao hơn, biến chứng 
ít hơn ở nhóm điều trị nhắm đích vào rễ của dây 
thần kinh số V. Chen và cs(5) cũng báo cáo những 
kết  quả  tích  cực  trên  nhóm  bệnh  nhân  điều  trị 
đích vào dễ dây V với tỷ lệ thành công 82,8% và 
tỷ lệ biến chứng là 15%.  
Tất cả bệnh nhân của chúng tôi đều được xạ 
phẫu vào gốc dây V cùng bên đau, vị trí thoát ra 
khỏi cầu não. 

Liều xạ phẫu 

Liều  xạ  phẫu  trong  nhóm  bệnh  nhân  của 
chúng tôi từ 60‐ 80 Gy, liều trung bình là 72,2 Gy 
(đường  đồng  liều  100%),  hầu  hết  bệnh  nhân 
(15/23) được xạ phẫu với từ 70 Gy đến 80 Gy. 
Liều  xạ  phẫu  trong  điều  trị  đau  dây  V 
nguyên  phát  còn  nhiều  tranh  luận.  Theo 
Longhi M và cộng sự, liều an toàn nhất và hiệu 
quả nhất là 80‐ 90 Gy(7). Kim và cộng sự(3)điều 
trị cho 66 bệnh nhân chia làm 2 nhóm: 1 nhóm 
xạ trị liều 80 Gy (100%)và 1 nhóm xạ trị liều 85 
Gy. Kết quả cho thấy nhóm bệnh nhân điều trị 

470

Mục  đích  của  xạ  phẫu  là  cắt  đường  dẫn 
truyền cảm giác đau từ vùng mặt lên cầu não và 
tới trung tâm cảm giác trên đồi thị, vỏ não nhằm 
cắt hoặc hạn chế cường độ, tần số cơn đau. Thời 
gian theo dõi sau GKRS trên 23 bệnh nhân trong 
nghiên  cứu  của  chúng  tôiít  nhất  là  2  tháng,  lâu 
nhất  là  64  tháng,  trung  bình  là  15  tháng.  Trên 
nhóm  bệnh  nhân  nghiên  cứu,  triệu  chứng  đau 
giảm  rõ  rệt  sau  xạ  phẫu  4‐  6  tuần.  Bệnh  nhân 
giảm  hẳn  cường  độ  đau  từ  mức  độ  nghiêm 
trọng  không  đáp  ứng  với  thuốc  đến  mức  độ 
không dung thuốc và tần số cơn đau thưa (BNI‐ 
I, BNI‐ II). 17/ 23 bệnh nhân hết đau hoàn toàn, 
hoặc cơn đau rất thưa nhưng không phải dùng 
thuốc,  số  còn  lại  có  phải  dùng  thuốc  điều  trị 
nhưng  cường  độ  đau  và  tần  số  cơn  đau  đều 

giảm. Với liều xạ phẫu trungbình 72,2 Gy, tỷ lệ 
bệnh nhân đạt BNI‐ I, BNI‐II, BNI‐III tương ứng 
là: 10/ 23, 7/ 23 và 6/ 23 bệnh nhân. 

Tác dụng không mong muốn 
Tác dụng phụ sau xạ phẫu dây V ít gặp, các 
biến chứng phổ biến được báo cáo trong một số 
y văn, nghiên cứu của nước ngoài là: mất hoặc tê 
bì  vùng  mặt,  liết  cơ  mặt.  Theo  nghiên  cứu  của 
Dhople AA và cộng sự, có 6/ 102 bệnh nhân sau 
xạ  phẫu  Gamma  bị  tê  bì  mặt(1).  Tác  giả 
Kondziolka  D,  Lunsford  LD  (2010)  và  cộng  sự 
nghiên  cứu  trên  503  bệnh  nhân  đau  dây  V  bị 
kháng  thuốc  được  điều  trị  bằng  dao  Gamma. 
Liều tối đa là 80 Gy, kết quả 78% bệnh nhân hết 
cảm  giác  đau  hơn  5  năm,  chỉ  có  53/  503  bệnh 
nhân  (10,5  %)  liệt  mặt  hoặc  tê  bì  mặt(4).Trong 

Chuyên Đề Phẫu Thuật Thần Kinh  


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014 

Nghiên cứu Y học

 
tái phát và mức độ đau càng ngày càng tăng, số 
cơn dày hơn. Bệnh nhân được xạ phẫu Gamma 
quay  tại  trung  tâm  Y  học  hạt  nhân  Ung  bướu 
Bệnh  viện  Bạch  Mai  với  liều  30  Gy  (50% 

liều).Sau 2 tuần, bệnh nhân không còn biểu hiện 
đau và hiện không phải dùng thuốc. 

nghiên cứu của chúng tôi chỉ có 2/23 bệnh nhân 
tê bì mặt và yếu cơ nhai sau xạ phẫu một năm. 

Hình ảnh minh họa 
Bệnh nhân Phan Th. Ch., 66 tuổi bị đau dây 
V  nhánh  hàm  dưới  (V3)  bên  phải  hơn  6  tháng. 
Bệnh  nhân  đã  được  điều  trị  nội  khoa  phối  hợp 
nhiều loại thuốc nhưng không hết cơn đau, hay 

 
Hình ảnh MRI sọ não cắt qua cầu não, xung T1: hình 
ảnh dây thần kinh số V hai bên rất rõ 

KẾT LUẬN 
Nghiên  cứu  23  bệnh  nhân  đau  dây  V 
nguyên  phát,  điều  trị  bằng  dao  gamma 
quay, chúng tôi đưa ra những kết luận sau 
Tuổi trung bình là 65, trẻ nhất là 27, cao tuổi 
nhất là 82. 14/23 bệnh nhân là nữ giới. 
Trước  xạ  phẫu  tất  cả  bệnh  nhân  đều  đau  ở 
mức độ BNI‐IV, V. Hầu hết đau nhánh V3. 
Liều  xạ  phẫu  trung  bình  là  72,2  Gy,  thấp 
nhất là 60 Gy, caonhất là 80 Gy. 
Thời gian theo dõi sau xạ phẫutrung bình là 
14,2  tháng,  ít  nhất  là  2  tháng,  dài  nhất  la  56 
tháng. 
Kết  quả  điều  trị:  Sau  xạ  phẫu,  không  còn 

bệnh  nhân  nào  đau  ở  mức  độ  BNI‐IV,  V.  Hầu 
hết  cắt  được  cơn  đau,  không  dung  thuốc  hoặc 
giảm  liều  thuốc:  10  bệnh  nhân  BNI‐I  ,  7  bệnh 
nhân BNI‐II và 6 bệnh nhân BNI‐IIIa. 

Mạch Máu Não và Xạ Phẫu 

 
Kế hoạch xạ phẫu: Đặt 1 shot 4mm vào rễ dây V bên 
phải tại vị trí dây V thoát ra khỏi cầu não. Đường tròn 
màu vàng là đường đồng liều 50% (30 Gy) 
Tác dụng không mong muốn: 2 bệnh nhân 
có biểu hiện tê bì nửa mặt và yếu cơ nhai cùng 
bên.  

TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1.

Dhople AA, Adams JR, Maggio WW, Naqvi SA, Regine WF, 
Kwok  Y  (2009):  “Long‐term  outcomes  of  Gamma  Knife 
radiosurgery  for  classic  trigeminal  neuralgia:  implications  of 
treatment  and  critical  review  of  the  literature”J  Neurosurg. 
Aug;111(2):351‐8. 

2.

Đồng  Văn  Hệ  (2009):”  Điều  trị  đau  dây  V  bằng  phẫu  thuật 
giải phóng chèn ép mạch máu”. Y học thực hành số 8, trang 55‐
58. 


3.

KimYH, KimDG, Kim JW et al. (2010) “Is it effective to raise 
the  irradiation  dose  from  80  to  85  Gy  in  gamma  knife 
radiosurgery  for  trigeminal  neuralgia?”  Stereotactic  and 
Functional Neurosurgery, vol. 88, no. 3, pp. 169–176. 

4.

Kondziolka D, Zorro O, Lobato‐Polo J, Kano H, Flannery TJ, 
Flickinger JC, Lunsford LD (2010): “Gamma Knife stereotactic 
radiosurgery for idiopathic trigeminal neuralgia”,J Neurosurg. 
Apr;112(4):758‐65. 

5.

Lee  C  (2010):”The  measurement  of  pain  in  patients  with 
trigeminal  neuralgia”,  Clinical  neurosurgery,  Vol 57,chapter  19, 
pp130,. 

6.

Leksell  L  (1971),  “Sterotaxic  radiosurgery  in  trigeminal 
neuralgia,” Acta Chirurgica Scandinavica, vol. 137, no. 4, pp. 311–
314,. 

471


Nghiên cứu Y học 


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014

 
7.

Longhi M, Rizzo P, Nicolato A, Foroni R, Reggio M, Gerosa M 
(2007),  “Gamma knife radiosurgery  for  trigeminal neuralgia: 
results  and  potentially  predictive  parameters‐‐part  I: 
Idiopathic 
trigeminal 
neuralgia.”, 
Neurosurgery. 
Dec;61(6):1254‐60; discussion 1260‐1. 

12.

Pollock BE, Schoeberl KA (2010), “Prospective comparison of 
posterior  fossa  exploration  and  stereotactic  radiosurgery 
dorsal root entry zone target as primary surgery for patients 
with  idiopathic  trigeminal  neuralgia,”  Neurosurgery,  vol.  67, 
no. 3, pp. 633–638,.  

8.

Mai Trọng Khoavàcs (2010).” Đánh giá kết quả điều trị 1200 
bệnh  nhân  u  não  và  bệnh  lý  sọ  não  bằng  phương  pháp  xạ 
phẫu dao Gamma quay tại Trung tâm Y học hạt nhân và Ung 
bướu ‐ Bệnh viện Bạch Mai”. Tạp chí Y học Thành phố Hồ Chí 
Minh, chuyên đề Ung bướu học. 4 (14), 604‐614. 


13.

SheehanJ.  P.,  RayD.  K.,  Monteith  S.  et  al.  (2010),  “Gamma 
Knife  radiosurgery  for  trigeminal  neuralgia:  the  impact  of 
magnetic resonance  imaging‐detected  vascular  impingement 
of  the  affected  nerve,”  Journal of Neurosurgery, vol. 113, no. 1, 
pp. 53–58,. 

9.

Massager  N,  Abeloos  L,  Devriendt  D,  Op  de  Beeck  M,  and. 
Levivier M (2007) “Clinical evaluation of targeting accuracy of 
Gamma  Knife  radiosurgery  in  trigeminal  neuralgia,” 
International  Journal  of  Radiation  Oncology  Biology  Physics,  vol. 
69, no. 5, pp. 1514–1520,. 

14.

Võ Văn Nho (2003):” Điều trị đau dây thần kinh số V vô căn 
bằng phương pháp nhiệt đông tại hạch Gasser qua da”. Y học 
TP Hồ Chí Minh, tập 7, Phụ bản của số 4. Trang 121‐130. 

10.

11.

Matsuda  S,  Nagano  O,  Serizawa  T,  Higuchi  Y,  and  Ono  J 
(2010)  “Trigeminal  nerve  dysfunction  after  Gamma  Knife 
surgery for trigeminal neuralgia: a detailed analysis,” Journal 

of Neurosurgery, vol. 113, pp. 184–190,. 

 

Ngày nhận bài báo:    

 

10/10/2014 

Ngày phản biện nhận xét bài báo:   27/10/2014 
Ngày bài báo được đăng: 

 

5/12/2014 

Olesen1 J, Steiner TJ (2004) “The international classification of 
headache  disorders,  2nd  edn  (ICDH‐II)”,  J  Neurol  Neurosurg 
Psychiatry;75:808‐811 
 

 

472

 

Chuyên Đề Phẫu Thuật Thần Kinh  




×