Tải bản đầy đủ (.pdf) (6 trang)

Đặc điểm tình hình kê toa thuốc tại khoa khám bệnh Bệnh viện Nhi Đồng 2

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (379.71 KB, 6 trang )

Nghiên cứu Y học 

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 4 * 2013

ĐẶC ĐIỂM TÌNH HÌNH KÊ TOA THUỐC TẠI KHOA KHÁM BỆNH  
BỆNH VIỆN NHI ĐỒNG 2 
Lục Quả*, Võ Phương Khanh*, Trịnh Hữu Tùng* 

TÓM TẮT 
Mục tiêu: Đánh giá thực trạng kê toa thuốc ngoại trú tại khoa khám bệnh của bệnh viện Nhi Đồng 2. 
Phương pháp nghiên cứu: Cắt ngang mô tả. 
Kết quả: Đơn thuốc từ loại hình bảo hiểm y tế chiếm tỉ lệ 38,24% và loại hình dịch vụ chiếm tỉ lệ 61,76%. 
Trong giờ hành chánh chiếm tỉ lệ 48,78% và ngoài giờ hành chánh (giờ trực hay thứ bảy/chủ nhật) chiếm tỉ lệ 
51,22%. Đơn thuốc có lỗi sai sót về hình thức kê đơn: Có 13,46% toa thuốc không ghi đầy đủ các phần hành 
chánh và mắc các sai sót như bệnh nhân không có ghi tuổi, cân nặng, giới, thuốc không ghi hàm lượng, số lượng 
cần mua, cách dùng, không lời dặn dò, ngày tái khám, c hữ ký bác sĩ. Có 0,49% toa có chữ  viết rất khó đọc, 
15,59% chữ viết khó đọc. Giá trung bình một toa thuốc là gần 68.000 đồng. Tỷ lệ đơn thuốc có sử dụng kháng 
sinh: 65,27% toa thuốc có ghi thuốc kháng sinh. Trong đó các bác sỹ lớn tuổi, bác sỹ của khoa khám bệnh và bác 
sỹ ngoài giờ kê toa thuốc kháng sinh nhiều hơn các, bác sỹ trẻ (dưới 5 năm), các bác sỹ trong các khoa nội trú và 
khám  bệnh  trong  giờ  hành  chánh.  Tỷ  lệ  đơn  thuốc  có  sử  dụng  corticoids:  16,80%  toa  thuốc  có  ghi  thuốc 
corticoids. Tỷ lệ đơn thuốc có sử dụng thuốc bổ: 22,86% toa thuốc có ghi thuốc bổ. Trong đó các biên chế khoa 
khám bệnh, bác sỹ trẻ (dưới 5 năm và từ 5 ‐ 15 năm) và khám bệnh ngoài giờ hành chánh kê toa cho thuốc bổ 
nhiều hơn là các bác sỹ các khoa nội trú, bác sỹ lớn tuổi và bác sỹ khám bệnh trong giờ. Không có đơn thuốc có sử 
dụng thực phẩm chức năng. 
Kết luận: Từ kết quả nghiên cứu này là cơ sở để bệnh viện có kết hoạch tập huấn lại cho các bác sỹ tham gia 
phòng khám ngoại trú về qui chế kê đơn ngoại trú. 
Từ khóa: Thuốc, kê toa. 

ABSTRACT 
ASSESS THE OUTPATIENT PRESCRIPTION  
AT CHILDRENʹS HOSPITAL 2 OUTPATIENT DEPARTMENT 


Luc Qua, Vo Phuong Khanh, Trinh Huu Tung 
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 17 ‐ Supplement of No 4 ‐ 2013: 76 ‐ 81 
Objective: Assess the outpatient prescription at Childrenʹs Hospital 2 Outpatient Department. 
Method: Cross ‐ sectional description study. 
Results:  Prescriptions  from  the  type  of  health  insurance  accounted  for  38.24%  rate,  and  type  of  services 
accounted  for  61.76%  rate.  During  office  hours  48.78%  proportion  and  out  of  office  hours  (now  directly  or 
saturday/sunday)  accounted  for  51.22%  rate.  Prescription  errors  are  errors  on  the  form  prescribed:  13.46% 
prescriptions are not filled enough with the administration and errors as patients without an age, weight, sex, 
drugs record levels, the amount needed to buy, how to use, non‐verbal reminding, on re‐ examination, physician 
signature. There is 0:49% prescription writing very hard to read, hard to read handwriting 15:59%. The average 
price of a prescription is close to 68.000 VND. Prescription rate of antibiotics use: 65.27% labeled prescription 
antibiotics.  Prescription  rate  using  corticosteroids:  16.80%  labeled  prescription  drugs  corticosteroids.  Rate  of 
* Bệnh viện Nhi Đồng 2. 
Tác giả liên hệ: CN Lục Quả   ĐT: 0986970657 

76

Email:  

Chuyên Đề Điều Dưỡng Nhi Khoa  


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 4 * 2013 

Nghiên cứu Y học

prescription drug use supplement: 22.86% labeled prescription supplements. 
Conclusion:  From  the  results  of  this  study  are  the  basis  for  the  planned  hospital  training  for  doctors 
participating outpatient clinics for outpatient prescription regulations. 
Key words: Outpatient prescription. 


ĐẶT VẤN ĐỀ 
Việc sử dụng thuốc không hợp lý, lạm dụng 
kháng  sinh,  corticosteroid,  thuốc  bổ  đang  có 
chiều hướng ngày càng gia tǎng ở các nước đang 
phát  triển  trong  đó  có  Việt  Nam.  Vấn  đề  lạm 
dụng  kháng  sinh,  corticosteroid  và  các  vitamin 
đang xảy ra ở tất cả các tuyến, các cơ sở điều trị 
từ  xã/phường  đến  phòng  khám/bệnh  viện 
quận/huyện,  tỉnh/thành,  các  bệnh  viện  tuyến 
Trung  ương,  ở  cả  các  cơ  sở  y  tế  nhà  nước  lẫn 
phòng khám tư nhân. 

kê  toa  của  các  Bác  sĩ  tham  gia  khám  bệnh  tại 
khoa  khám  bệnh  của  bệnh  viện  Nhi  Đồng  2 
trong năm 2010.  

Mục tiêu  
Xác  định  tỷ  lệ  đơn  thuốc  có  lỗi  sai  sót  về 
hình thức kê đơn. 
Xác định tỷ lệ đơn thuốc có sử dụng kháng 
sinh. 
Xác  định  tỷ  lệ  đơn  thuốc  có  sử  dụng 
corticoids. 
Xác  định  tỷ  lệ  đơn  thuốc  có  sử  dụng  thuốc 

Trong  thời  gian  gần  đây,  trên  các  phương 
tiện thông tin đại chúng phản ánh nhiều về thực 
trạng  kê  toa  thuốc  ngoại  trú  tại  các  cơ  sở  y  tế 
chưa  phù  hợp  quy  chế  kê  đơn  và  y  đức  của 

người thầy thuốc. Bên cạnh việc thực thi nghiêm 
chỉnh  quy  chế  kê  đơn  thuốc  ngoại  trú  của  hầu 
hết  các  bác  sĩ  tâm  huyết,  vẫn  còn  một  số  ít  các 
thầy thuốc vi phạm nhưng chưa có bằng chứng 
thống kê cụ thể.  

bổ. 

Việc  kê  đơn  thuốc  không  đúng  quy  chế  có 
tầm  ảnh  hưởng  không  nhỏ  đến  sức  khỏe  của 
người dân và vấn đề kinh tế xã hội. Cụ thể như: 

Đối tượng 

Bệnh  nhân  sẽ  không  được  sử  dụng  thuốc 
hợp lý đúng theo bệnh mình đang mắc phải dẫn 
đến không hết bệnh, có thể bị phản ứng bất lợi 
không mong muốn. 

Xác  định  tỷ  lệ  đơn  thuốc  có  sử  dụng  thực 
phẩm chức năng. 
Xác định sự phân bố các tỷ lệ trên theo: Loại 
hình  khám,  thời  điểm  khám,  khoa/phòng  biên 
chế công tác và thâm niên công tác. 

Thiết kế nghiên cứu 
Cắt ngang mô tả. 
Các toa thuốc ngoại trú tại khoa khám bệnh 
của bệnh viện Nhi Đồng 2 trong năm 2010.  


Thời gian 
Tháng ngẫu nhiên trong năm 2010. 

Địa điểm 

Do  lạm  dụng,  chỉ  định  không  đúng  kháng 
sinh dẫn đến tình trạng kháng kháng sinh. 

Tại  khoa  khám  bệnh  của  bệnh  viện  Nhi 
Đồng 2.  

Tăng chí phí điều trị do lạm dụng các thuốc 
không cần thiết. 

Cỡ mẫu 

Hậu  quả  quan  trọng  là  giảm  lòng  tin  của 
người dân vào hệ thống y tế.  

Phương pháp chọn mẫu 

 Nhằm  có  số  liệu  thống  kê  cụ  thể  để  làm 
bằng chứng đánh giá thực trạng kê toa thuốc tại 
khoa khám bệnh của bệnh viện Nhi Đồng 2, qua 
đó đề xuất biện pháp cải thiện phù hợp, chúng 
tôi đã tiến hành khảo sát và đánh giá thực trạng 

Chuyên Đề Điều Dưỡng Nhi Khoa

Toàn bộ. 

Chọn  mẫu  ngẫu  nhiên  hệ  thống.  Lấy  01 
tháng bất kỳ trong 06 tháng cuối của năm 2010. 
Trong  tháng  được  chọn,  chỉ  khảo  sát  trong  04 
tuần, mỗi tuần lấy cách ngày. Mỗi ngày, lấy toàn 
bộ các toa thuốc từ 07 giờ 00 phút đến 7 giờ 00 
phút ngày hôm sau.  

77


Nghiên cứu Y học 

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 4 * 2013

Xử lý số liệu 
Nhập  số  liệu  bằng  phần  mềm  EpiData  3.1. 
Phân  tích  số  liệu  thống  kê  mô  tả  bằng  phần 
mềm Stata 11.0 

KẾT QUẢ  
Đơn thuốc từ loại hình bảo hiểm y tế chiếm 
tỉ  lệ  38,24%  và  loại  hình  Dịch  vụ  chiếm  tỉ  lệ 
61,76%. Trong giờ hành chánh chiếm tỉ lệ 48,78% 
và  ngoài  giờ  hành  chánh  (giờ  trực  hay  thứ 
bảy/chủ nhật) chiếm tỉ lệ 51,22%.  
Đơn thuốc có lỗi sai sót về hình thức kê đơn: 
Có 13,46% toa thuốc không ghi đầy đủ các phần 
hành  chánh  và  mắc  các  sai  sót  như  bệnh  nhân 
không  có  ghi  tuổi,  cân  nặng,  giới,  thuốc  không 
ghi  hàm  lượng,  số  lượng  cần  mua,  cách  dùng, 

không lời dặn dò, ngày tái khám, chữ ký bác sĩ. 
Có  0,49  %  toa  có  chữ  viết  rất  khó  đọc,  15,59% 
chữ viết khó đọc.  
Giá  trung  bình  một  toa  thuốc  là  gần  68.000 
đồng.  
Tỷ  lệ  đơn  thuốc  có  sử  dụng  kháng  sinh: 
65,27% toa thuốc có ghi thuốc kháng sinh. Trong 
đó  các  bác  sỹ  lớn  tuổi,  bác  sỹ  của  khoa  khám 
bệnh  và  bác  sỹ  ngoài  giờ  kê  toa  thuốc  kháng 
sinh nhiều hơn các, bác sỹ trẻ (dưới 5 năm), các 
bác  sỹ  trong  các  khoa  nội  trú  và  khám  bệnh 
trong giờ hành chánh.  
Tỷ  lệ  đơn  thuốc  có  sử  dụng  corticoids: 
16,80% toa thuốc có ghi thuốc corticoids.  
Tỷ lệ đơn thuốc có sử dụng thuốc bổ: 22,86% 
toa thuốc có ghi thuốc bổ. Trong đó các biên chế 
khoa khám bệnh, bác sỹ trẻ (dưới 5 năm và từ 5 ‐ 
15 năm) và khám bệnh ngoài giờ hành chánh kê 
toa  cho  thuốc  bổ  nhiều  hơn  là  các  bác  sỹ  các 
khoa  nội  trú,  bác  sỹ  lớn  tuổi  và  bác  sỹ  khám 
bệnh trong giờ.  
Không có đơn thuốc có sử dụng thực phẩm 
chức năng. 

BÀN LUẬN 
Chúng  tôi  thu  thập  được  5.876  toa  thuốc, 
trong đó có 2.247 toa thuốc từ các phòng khám 
loại hình bảo hiểm y tế chiếm tỉ lệ 38,24% và có 

78


3.629  toa  thuốc  từ  các  phòng  khám  loại  hình 
dịch vụ chiếm tỉ lệ 61,76%. Chúng tôi ghi nhận 
số toa loại hình bảo hiểm y tế cao hơn so với ghi 
nhận trong tài liệu dạy dùng cho đào tạo liên tục 
bác  sĩ,  dược  sĩ  bệnh  viện  của  Bộ  Y  Tế  trong  2 
năm 2003 và 2004 là 36% và 33% (1), chứng tỏ loại 
hình  khám  bệnh  BHYT  ngày  càng  được  người 
dân  tin  tưởng  và  sử  dụng  rộng  rãi  hơn.  Tuy 
nhiên, tỉ lệ này vẫn còn thấp so với tỉ lệ điều trị 
BHYT trong nội viện là 95% có thể do các lý do 
như đa số các bệnh thông thường đều do tuyến 
quận/huyện  đảm  nhận,  muốn  khám  tại  bệnh 
viện Nhi Đồng 2 cần phải có giấy chuyển viện, 
tâm  lý  của  thân  nhân  bệnh  nhân  muốn  được 
khám  nhanh,  đồng  thời  tiền  cho  một  lần  khám 
cũng  không  cao  mà  BHYT  không  thanh  toán 
100%  nên  nhiều  người  đã  chọn  giải  pháp  là 
khám dịch vụ cho thuận tiện. 
Có 2.866 toa thuốc được thu thập  trong  giờ 
hành chánh chiếm tỉ lệ 48,78% và 3.010 toa thuốc 
được  thu  thập  ngoài  giờ  hành  chánh  (giờ  trực 
hay thứ bảy/chủ nhật) chiếm tỉ lệ 51,22%. 
Theo quy chế kê toa thuốc ngoại trú (2), có 10 
điều  khoản  quy  định  đối  với  một  toa  thuốc  cụ 
thể từ hình thức của toa thuốc đến các nội dung 
phải ghi trong toa thuốc: Tên tuổi, địa chỉ, cách 
ghi tên thuốc, số lượng, hàm lượng thuốc, cách 
dùng thuốc. Xem xét về hình  thức  cách  ghi  toa 
thuốc,  chúng  tôi  nhận  thấy  có  791  toa  thuốc 

không ghi đầy đủ các phần hành chánh và mắc 
các sai sót chiếm 13,46% và 5.085 toa có ghi đầy 
đủ các phần hành chánh của toa chiếm 86,54%; 
đồng thời thường mắc  những  sai  sót  như  bệnh 
nhân  không  có  ghi  tuổi,  cân  nặng,  giới,  thuốc 
không  ghi  hàm  lượng,  số  lượng  cần  mua,  cách 
dùng được liệt kê trong bảng 1.  
Bảng 1. Tỉ lệ các sai sót về hình thức trong toa thuốc. 
Không ghi (thiếu)
Giới
Tuổi
Hàm lượng thuốc
Số lượng thuốc
Cách dùng
Ngày khám
Chữ ký bác sĩ

n
81
82
70
63
64
68
63

%
10,20
10,35
8,84

7,98
8,03
8,58
7,95

Chuyên Đề Điều Dưỡng Nhi Khoa  


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 4 * 2013 
Không ghi (thiếu)
Họ tên đầy đủ của bác sĩ
Cân nặng
Ngày tái khám
Lời dặn

n
64
59
65
64

%
8,06
7,50
8,26
8,04

Theo quy định  (2) là chữ viết trên toa phải rõ 
ràng, thì trong số  các toa chúng  tôi  khảo  sát  có 
0,49  %  toa  có  chữ  viết  rất  khó  đọc,  15,59%  chữ 

viết khó đọc và 83,92% chữ viết có thể đọc được. 
Đây là vấn đề mà các bác sĩ thường bị các bệnh 
nhân phàn nàn, cũng như báo chí hay nhắc tới. 
Trong  791  toa  thuốc  không  ghi  đầy  đủ  các 
mục, thiếu ghi giới tính chiếm tỉ lệ là 10,20% và 
thiếu  ghi  tuổi  của  bệnh  nhi  chiếm  10,35%,  là  2 
thiếu sót thường gặp nhất. Tuy nhiên, điều đáng 
quan tâm là 8,84% trong số các toa này ghi thiếu 
hàm lượng thuốc là điều không thể chấp nhận, 
vì có thể dẫn đến việc dùng thuốc quá liều hoặc 
không  đủ  liều  lượng  thuốc  ảnh  hưởng  đến  kết 
quả điều trị. 
Xét về người ghi toa, chúng tôi ghi nhận có 
8,09%  các  toa  do  các  bác  sĩ  thuộc  biên  chế  của 
khoa  khám  bệnh  ghi  và  91,91%  các  toa  do  các 
bác sĩ từ các khoa nội trú ra tham gia khám bệnh 
ghi.  Điều  này  phù  hợp  với  sự  phân  công  nhân 
sự của Phòng Tổ chức cán bộ. Các bác sĩ thuộc 
các nhóm tuổi khác nhau, bác sĩ có biên chế dưới 
05 năm chiếm tỉ lệ 30,72%, các bác sĩ có biên chế 
từ 05 đến 15 năm chiếm tỉ lệ 36,51% và các bác sĩ 
có biên chế trên 15 năm ghi chiếm tỉ lệ 32,78%. 
Điều này chứng tỏ là đa số  các bác sĩ khi được 
phân  công  ra  khoa  khám  bệnh  đều  có  ít  nhiều 
kinh nghiệm từ trên 05 năm trở lên. 
Theo  qui  chế  kê  toa  ngoại  trú,  tên  thuốc 
phải  ghi  theo  tên  hóa  học  (generic),  trong 
nghiên  cứu  chúng  tôi  nhận  thấy  chỉ  có  3,46% 
các  toa  được  ghi  vừa  tên  hóa  học  vừa  tên 
thương  mại,  14,1%  các  toa  ghi  theo  đúng  tên 

hóa học và 82,44% các toa ghi theo tên thương 
mại. Điều này sẽ gây khó khăn cho bệnh nhân 
nếu  như  không  mua  thuốc  tại  nhà  thuốc  của 
bệnh  viện,  cũng  như  chưa  loại  trừ  được  việc 
ghi toa theo trình dược viên. Ngoài ra, việc kê 
toa thuốc bằng tên hóa học còn giúp giảm chi 
phi  điều  trị  cho  bệnh  nhân,  cụ  thể  với  cùng 

Chuyên Đề Điều Dưỡng Nhi Khoa

Nghiên cứu Y học

một  một  thuốc  có  cùng  tên  hóa  học  với  chất 
lượng điều trị như nhau, nhưng nếu bác sĩ kê 
thuốc biệt dược ngoại thì giá sẽ rất cao, chẳng 
những tăng thêm gánh nặng chi phí cho người 
bệnh  mà  còn  ảnh  hưởng  đến  ngành  sản  xuất 
dược phẩm trong nước sẽ không phát triển. 
Xét  về  nội  dung  và  chất  lượng  toa  thuốc, 
chúng tôi ghi nhận có 2041 toa là không có ghi 
kháng sinh chiếm tỉ lệ là 34,73% và có 3835 toa 
có  ghi  thuốc  kháng  sinh  chiếm  tỉ  lệ  lên  tới  là 
65,27%. Theo thống kê của Bộ Y Tế trong 2 năm 
2003 và 2004 (1), số tiền chi cho kháng sinh là 54% 
và  56%  trên  tổng  số  tiền  thuốc,  kháng  sinh 
chiếm  khoảng  36%  tổng  chi  phí  cho  thuốc  và 
hoá  chất  và  tỉ  lệ  cao  nhất  được  báo  cáo  tại  các 
bệnh viện nhi Thành Phố Hồ Chí Minh là lên tới 
89%. Cũng theo báo cáo của Cục Quản lý Khám 
Chữa  bệnh  năm  2009,  chi  phí  cho  kháng  sinh 

chiếm trên 30% tổng chi phí của bệnh viện cho 
thuốc  và  hoá  chất.  Điều  này  cho  thấy  việc  lạm 
dụng kháng sinh ở khu vực phòng khám là rất 
đáng kể, phù hợp với thống kê của Bộ Y Tế. 
Toa có ghi thuốc corticoid là 987 toa chiếm tỉ 
lệ  là  16,80%,  4889  toa  thuốc  không  có  ghi 
corticoid chiếm tỉ lệ là 77,14%. Điều này cho thấy 
việc lạm dụng thuốc corticoid là không đáng kể. 
Có  1.343  toa  có  ghi  thuốc  bổ  chiếm  tỉ  lệ  là 
22,86% và 77,14% số toa thuốc còn lại không có 
sử  dụng  thuốc  bổ  là  4533  toa.  Theo  kết  quả 
thống kê của Bộ Y Tế trong các năm 2000, 2001 
và 2002 (1) tỉ lệ tiền chi cho thuốc bổ chiếm 5 ‐ 7% 
tổng  tiền  thuốc.  Trong  2  năm  2003,  2004  (1)  tỉ  lệ 
tiền chi cho thuốc bổ chiếm 2% tổng tiền thuốc. 
Như  vậy  trong  những  năm  gần  đây,  việc  lạm 
dụng  thuốc  bổ  có  chiều  hướng  gia  tăng  trở  lại, 
đặc biệt tại khu vực phòng khám. 
Không  có  toa  nào  có  ghi  thực  phẩm  chức 
năng. Đây là điều đáng mừng, có lẻ do sự giám 
sát  chặt  chẽ  của  Ban  Giám  Đốc  và  Phòng  Kế 
hoạch  Tổng  hợp  không  cho  nhập  thực  phẩm 
chức năng vào nhà thuốc của bệnh viện.  
Chúng  tôi  cũng  nhận  thấy  có  580  toa  có 
phần  thuốc  ghi  không  phù  hợp  với  chẩn  đoán 
bệnh  chiếm  tỉ  lệ  là  9,80%.  Đây  là  điều  đáng  lo 

79



Nghiên cứu Y học 

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 4 * 2013

ngại về chất lượng kê toa thuốc của các bác sĩ. 
Theo  qui  định  của  Qui  chế  kê  đơn  ngoại 
trú   do Bộ Y Tế ban hành năm 2008, thời gian 
kê toa tối đa là 5 ngày, chúng tôi ghi nhận  có 
261  toa  thực  hiện  không  đúng  quy  định  này 
chiếm tỉ lệ là 4,45%.  
(2)

Giá  trung  bình  một  toa  thuốc  là  gần  68.000 
đồng, toa mắc nhất là 759.000 đồng và rẻ nhất là 
600 đồng với độ lệch chuẩn là 49.000 đồng. Với 
điều  kiện  kinh  tế  như  thời  điểm  này,  giá  trung 
bình của toa thuốc như vậy là hơn cao so với đời 
sống  người  dân,  và  thật  đáng  phê  phán  khi  kê 
một toa thuốc có giá cao hơn 1 tháng lương tối 
thiểu  của  cán  bộ  công  nhân  viên  (từ  1/5/2010 
mức lương tối thiểu tăng từ 650.000 lên 730.000 
đồng /tháng). 
Về phần đánh giá sự phù hợp giữa chi phí 
toa  thuốc  so  với  chẩn  đoán  bệnh  và  mức  độ 
bệnh ghi trên toa, chúng tôi nhận thấy có 1.360 
toa thuốc có giá tiền không phù hợp chiếm tỉ lệ 
là 23,14%. 
Khi tìm mối liên quan giữa việc ghi toa cho 
kháng sinh, corticoid, thuốc bổ, thực hiện đúng 
theo qui chế kê toa  ngoại  trú,  sự  phù  hợp  giữa 

chẩn  đoán  bệnh  và  thành  phần  toa  thuốc,  với 
các yếu tố có liên quan đến các bác sĩ như biên 
chế thuộc khoa Khám bệnh, thâm niên công tác, 
khám bệnh trong giờ hay ngoài giờ hành chánh; 
chúng tôi ghi nhận được như sau: 

Việc cho kháng sinh (KS) 
Các  bác  sĩ  thuộc  biên  chế  khoa  khám  bệnh 
ghi  toa  cho  kháng  sinh  nhiều  hơn  các  bác  sĩ 
thuộc các khoa nội trú và sự khác biệt này có ý 
nghĩa thống kê với P = 0,0083 và OR là 0,75.  
Các  bác  sĩ  có  thâm  niên  công  tác  dưới  5 
năm  có  xu  hướng  kê  toa  có  kháng  sinh  thấp 
hơn các bác sĩ có thâm niên 5 – 15 năm và trên 
15  năm,  và  sự  khác  biệt  có  ý  nghĩa  thống  kê 
với P <0,001; OR lần lượt là 0,73 và 0,76. Giữa 2 
nhóm bác sĩ thâm niên trên 5 năm thì không có 
sự khác biệt về việc kê toa có kháng sinh. 
Các bác sĩ khám bệnh trong giờ hành chánh 
ít  cho  KS  hơn  các  bác  sĩ  khám  ngoài  giờ  hành 

80

chánh  và  sự  khác  biệt  này  có  ý  nghĩa  thống  kê 
với P<0,001 và OR là 1,39.  
Để  lý  giải  cho  những  điều  này,  theo  chúng 
tôi nghĩ có chăng các bác sĩ trẻ (dưới 5 năm), các 
bác sĩ trong các khoa nội trú và khám bệnh trong 
giờ  hành  chánh  còn  kê  toa  theo  bài  bản,  lý 
thuyết hơn là các bác sĩ lớn tuổi, bác sĩ của khoa 

khám  bệnh  và  bác  sĩ  ngoài  giờ  chỉ  kê  toa  theo 
kinh  nghiệm  và  lạm  dụng  kháng  sinh  nhiều 
hơn; hay chăng là còn lý do nào khác.  

Việc cho Corticoid 
Các  bác  sĩ  thuộc  biên  chế  khoa  khám  bệnh 
cho  Corticoid  nhiều  hơn  các  bác  sĩ  thuộc  các 
khoa  nội  trú,  và  sự  khác  biệt  này  có  ý  nghĩa 
thống kê với Pr =0,0095 và OR là 0,73. Có chăng 
các  bác  sĩ  của  khoa  khám  bệnh  lạm  dụng 
Corticoid vì nghĩ rằng sử dụng Corticoid sẽ mau 
hết bệnh hơn. 
Các bác sĩ có thâm niên công tác dưới 5 năm 
và từ 5 ‐ 15 năm có xu hướng kê toa có Corticoid 
thấp hơn các bác sĩ có thâm niên trên 15 năm, sự 
khác  biệt  này  có  ý  nghĩa  thống  kê  với  P  <0,001 
và OR lần lượt là 0,71 và 0,73.  
Các bác sĩ khám bệnh trong giờ hành chánh 
ít cho Corticoid hơn các BS khám ngoài giờ hành 
chánh  và  sự  khác  biệt  này  có  ý  nghĩa  thống  kê 
với P = 0,0077 và OR là 0,83.  
Chúng tôi nghĩ rằng các bác sĩ trẻ hơn (dưới 
5  năm  và  từ  5  ‐  15  năm)  và  khám  trong  giờ  có 
thể không lạm dụng Corticoid, còn ghi toa một 
cách  bài  bản  chứ  không  theo  kinh  nghiệm  như 
các bác sĩ lớn tuổi và bác sĩ khám ngoài giờ. 

Việc cho thuốc bổ (TB) 
Các  bác  sĩ  thuộc  biên  chế  khoa  khám  bệnh 
cho TB nhiều hơn các bác sĩ thuộc các khoa nội 

trú, và sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê với 
P  <  0,001  OR  là  0,57.  Có  phải  chăng  các  bác  sĩ 
thuộc  biên  chế  khoa  khám  bệnh  quan  tâm  đến 
vấn  đề  dinh  dưỡng  cho  BN  hơn  các  bác  sĩ  các 
khoa nội trú, hay có lý do nào khác.  
Các  bác  sĩ  có  thâm  niên  công  tác  từ  5  ‐  15 
năm  có  xu  hướng  kê  toa  có  thuốc  bổ  ít  hơn  2 
nhóm bác sĩ dưới 5 năm và trên 15 năm, sự khác 

Chuyên Đề Điều Dưỡng Nhi Khoa  


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 4 * 2013 
biệt này có ý nghĩa thống kê với P < 0,001; và OR 
lần lượt là 1,48 và 0,62. 
Các bác sĩ khám bệnh trong giờ hành chánh 
ít  cho  TB  hơn  các  bác  sĩ  khám  ngoài  giờ  hành 
chánh  và  sự  khác  biệt  này  có  ý  nghĩa  thống  kê 
với P = 0,0077 và OR là 0,83. 
Để  lý  giải  cho  những  điều  này,  theo  chúng 
tôi nghĩ có chăng các bác sĩ trẻ (dưới 5 năm và từ 
5 ‐ 15 năm) và khám bệnh ngoài giờ hành chánh 
kê toa cho TB nhiều hơn là các bác sĩ lớn tuổi và 
bác sĩ khám bệnh trong giờ vì không tự tin, thích 
cho  nhiều  thuốc;  hay  chăng  là  còn  lý  do  nào 
khác như nói trên.  

Về  thời  gian  kê  toa  đúng  theo  quy  định 
của qui chế kê toa ngoại trú 
Không được cho thuốc quá 5 ngày 

Sự  khác  biệt  về  thời  gian  kê  toa  đúng  theo 
qui  định  giữa  các  bác  sĩ  thuộc  biên  chế  khoa 
khám  bệnh  và  các  bác  sĩ  của  các  khoa  khác 
không có ý nghĩa thống kê. 
Các bác sĩ dưới  5  năm  kinh  nghiệm  có  thời 
gian kê toa không đúng theo qui định có sự khác 
biệt có ý nghĩa thống kê so với các bác sĩ trên 15 
năm  kinh  nghiệm,  với  P  =  0,03  và  OR  =  1,42. 
Điều này có lẻ hiển nhiên vì các bác sĩ trẻ chưa 
“thấm nhuần” cũng như chưa quen với các qui 
định. 

KẾT LUẬN  
Qua khảo sát thực trạng kê toa thuốc ngoại 
trú tại khoa khám bệnh của bệnh viện Nhi Đồng 
2 trong năm 2010, chúng tôi có một số kết luận 
như sau: 
Đơn thuốc từ loại hình Bảo Hiểm Y Tế chiếm 
tỉ  lệ  38,24%  và  loại  hình  Dịch  vụ  chiếm  tỉ  lệ 
61,76%. Trong giờ hành chánh chiếm tỉ lệ 48,78% 
và  ngoài  giờ  hành  chánh  (giờ  trực  hay  thứ 
bảy/chủ nhật) chiếm tỉ lệ 51,22%. 

Nghiên cứu Y học

Đơn thuốc có lỗi sai sót về hình thức kê đơn: 
có 13,46% toa thuốc không ghi đầy đủ các phần 
hành  chánh  và  mắc  các  sai  sót  như  bệnh  nhân 
không  có  ghi  tuổi,  cân  nặng,  giới,  thuốc  không 
ghi  hàm  lượng,  số  lượng  cần  mua,  cách  dùng, 

không lời dặn dò, ngày tái khám, chữ ký bác sĩ. 
Có  0,49  %  toa  có  chữ  viết  rất  khó  đọc,  15,59% 
chữ viết khó đọc.  
Giá trung bình một toa thuốc là gần 68.000 
đồng. 
Tỷ  lệ  đơn  thuốc  có  sử  dụng  kháng  sinh: 
65,27%  toa  thuốc  có  ghi  thuốc  kháng  sinh. 
Trong  đó  các  bác  sĩ  lớn  tuổi,  bác  sĩ  của  khoa 
khám  bệnh  và  bác  sĩ  ngoài  giờ  kê  toa  thuốc 
kháng  sinh  nhiều  hơn  các  bác  sĩ  trẻ  (dưới  5 
năm),  các  bác  sĩ  trong  các  khoa  nội  trú  và 
khám bệnh trong giờ hành chánh. 
Tỷ  lệ  đơn  thuốc  có  sử  dụng  corticoids: 
16,80% toa thuốc có ghi thuốc corticoids.  
Tỷ  lệ  đơn  thuốc  có  sử  dụng  thuốc  bổ: 
22,86% toa thuốc có ghi thuốc bổ. Trong đó các 
biên  chế  khoa  khám  bệnh,  bác  sĩ  trẻ  (dưới  5 
năm và từ 5 ‐ 15 năm) và khám bệnh ngoài giờ 
hành  chánh  kê  toa  cho  thuốc  bổ  nhiều  hơn  là 
các  bác  sĩ  các  khoa  nội  trú,  bác  sĩ  lớn  tuổi  và 
bác sĩ khám bệnh trong giờ. 
Không có đơn thuốc có sử dụng thực phẩm 
chức năng. 

TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1.

Bộ Y Tế (2005). Tài liệu tập huấn sử dụng thuốc hợp lý trong 
điều  trị  ‐  Tài  liệu  dùng  cho  đào  tạo  liên  tục  bác  sĩ,  dược  sĩ 
bệnh viện. 

Qui  chế  kê  đơn  thuốc  trong  điều  trị  ngoại  trú  (2008).  Ban 
hành kèm QĐ số 04/2008/QĐ‐ Bộ Y Tế. 

2.

 

Ngày nhận bài báo:   

 

12‐11‐2013. 

Ngày phản biện nhận xét bài báo:  14‐11‐2013. 
Ngày bài báo được đăng: 

 

16‐12‐2013. 

 

 

Chuyên Đề Điều Dưỡng Nhi Khoa

81




×