Tải bản đầy đủ (.pdf) (9 trang)

Ứng dụng kỹ thuật lichteinstein trong điều trị thoát vị bẹn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (316.95 KB, 9 trang )

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 8 * Phụ bản của Số 1 * 2004

Nghiên cứu Y học

74 ỨNG DỤNG KỸ THUẬT LICHTEINSTEIN
TRONG ĐIỀU TRỊ THOÁT VỊ BẸN
Vương Thừa Đức* 1

TÓM TẮT
Từ tháng 9/2002 đến hết tháng 9/2003, tại bệnh viện Bình Dân, chúng tôi có 115 ca thoát vò vùng bẹn trên
112 bệnh nhân 9109 nam, 3 nữ) được mổ đặt mảnh ghép polypropylene theo kỹ thuật Lichteinstein (qua ngả
trước). Tuổi trung bình của bệnh nhân là 52,67 ±3,58 tuổi (thấp nhất là 20 và cao nhất là 87). Có 36 người
(32,3%) bò thêm ít nhất một bệnh khác kết hợp. Có 67 người (59%) là lao động nặng và 25 người (23%) nghiện
thuốc lá. Thời gian mổ trung bình là 35 phút ±1,3phút, thời gian hồi phục sinh hoạt cá nhân trung bình là 14,7
giờ ± 0,25 và thời gian nằm viện sau mổ trung bình là 2,07 ngày. Chỉ có 2 bệnh nhân bò tụ máu (1,7%) nhưng
không phải mổ lại và không có người nào bò nhiễm trùng sau mổ.

SUMMARY
USE OF LICHTEINSTEIN REPAIR IN INGUINAL HERNIAS
Vương Thưa Đưc * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 8 * Supplement of No 1 * 2004: 485 - 493

From 9/2002 to 9/2003, there were 115 cases of inguinal hernias in 112 patients (109 males, 3 females)
operated with Lichteinstein repair at Binh Dan hospital. Mean age of patients was 52,67 ±3,58 (from 20 to
87). There were :- 36 patients (32,3%) had at least 1 associated disease. 67 heavy laborers (59%) and 25
cigarette smokers (23%).
The results were:Mean operating time was 36 ±1,3 minutes, mean time of walking resume was
14,7±0,25 h and mean postoperative hospitalizing time was 2,06 days. - None of our patients had wound
infection but there were 2 post-operative hematomas which only require medical treatment.
rạch dãn(9).
ĐẶT VẤN ĐỀ
Sự căng ở đường khâu tạo hình sau mổ thoát vò


bẹn sẽ khiến bệnh nhân đau lâu và là một trở ngại lớn
cho sự phục hồi sinh hoạt và lao động bình thường
sau mổ(1,) . Mặt khác, cũng do căng mà lớp khâu tạo
hình có thể bò thiếu máu nuôi dẫn đến thoát vò tái
phát (10). Để tránh căng, trong những kỹ thuật phục
hồi thành bụng dùng mô tự thân, người ta đã dùng
đường rạch dãn với những tỷ lệ khác nhau, thay đổi
từ 10 đến 30%. Nhưng hiệu quả của đường rạch dãn
không phải lúc nào cũng hoàn toàn làm giảm căng
triệt để, và thực ra cho đến nay chưa có công trình
tiền cứu có so sánh nào xác nhận giá trò của đường

1

Để loại bỏ sự căng ở đường khâu thoát vò một
cách có hiệu quả, tốt hơn cả là dùng mảnh ghép vá
vào chỗ yếu thành bẹn và đây là tiền đề phát triển của
các phương pháp mổ thoát vò bẹn dùng mảnh ghép
nhân tạo đang nở rộ tại phương tây trong thập niên
90 cho đến nay. Trong các phương pháp dùng mảnh
ghép đang phổ biến hiện nay trên thế giới ; kỹ thuật
Lichteinstein, còn gọi là kỹ thuật tạo hình không gây
căng nổi bật lên nhờ tính đơn giản, không tốn kém(17)
mà lại ít tái phát (2,7,9,10,24). Kỹ thuật của Lichteinstein
bắt đầu được chính thức nghiên cứu từ năm 1986 và
nay đã phổ biến rộng rãi khắp thế giới.Tuy nhiên, kỹ
thuật này cho đến hiện nay chưa được nghiên cứu tại

Bộ môn Ngoại – Đại Học Y Dược TP. HCM


Chuyên đề Hội nghò Khoa học Kỹ thuật BV. Bình Dân 2004

485


Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 8 * Phụ bản của Số 1 * 2004

Việt nam, do đó mục đích của chúng tôi trong nghiên
cứu này là bước đầu tìm hiểu những kinh nghiệm về
mặt phẫu thuật cũng như sơ bộ đánh giá về kết quả
sớm sau mổ của kỹ thuật Lichteinstein trên người
Việt nam trong điều kiện phòng mổ của bệnh viện
Bình Dân.

PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Tất cả bệnh nhân bò TVB vào khoa ngoại tổng
quát 2 BVBD, trên 20 tuổi,và không có một bệnh
khác trầm trọng làm ảnh hưởng đến chỉ đònh mổ.
Tất cả những bệnh nhân này đều được mổ theo
chương trình sắp xếp trước, những ca mổ cấp cứu
không được đưa vào nghiên cứu này.
Phẫu thuật viên
Do chính chúng tôi trực tiếp mổ. Những ca nào
không phải do chúng tôi mổ, chúng tôi đều không
đưa vào nghiên cứu này.
Chuẩn bò trước mổ và vô cảm
Bệnh nhân được cạo lông tại khoa phòng ngày
trước mổ và thường chúng tôi không cần dùng kháng

sinh phòng ngừa trước khi mổ.
Khi lên bàn mổ bệnh nhân được y tá phòng mổ
rửa sạch rộng vùng mổ bằng xà phòng tiệt trùng và
sau đó được bác só phẫu thuật sát trùng rộng bằng
Bétadine 10% trước khi trải khăn mổ .
Bệnh nhân được gây tê tủy sống bằng
Bupivacaine 0,5% (thay vì gây tê tại chỗ như
Lichteinstein).

486

Lộn túi thoát vò trực tiếp vào trong và khâu gấp
lại (loại Gilbert 4,5 và 6).
(9)

Cắt cao cổ túi thoát vò gián tiếp và khâu hẹp lỗ
bẹn sâu nếu bò dãn rộng (loại Gilbert 3).
b/ Sau đó tiến hành đặt mảnh ghép(9,24) như sau

Chọn đối tượng nghiên cứu

Kỹ thuật mổ

a/ Sau khi vào vùng bẹn theo ngả cổ điển như
thông thường, chúng tôi

Thành sau ống bẹn được che phủ bằng một lưới
polypropylene có kích thước khoảng 3-6 cm ×10 cm
đặt dọc theo chiều ống bẹn từ ngoài vào trong và cắt
dọc đầu ngoài (đuôi) làm 2 vạt sao cho điểm dừng

tương ứng với bờ trong lỗ bẹn sâu (hình 1).
Cần phải tính toán sao cho bờ dưới của mảnh
ghép phải vươn đến hoặc phủ lên được dây chằng bẹn
và đuôi của mảnh ghép có thể nhét gọn được vào bên
dưới lá trên của cân chéo ngoài. Khâu cố đònh mảnh
ghép bằng chỉ prolene 0 như sau (hình 2):
góc dưới trong của mảnh ghép phải khâu vào mô
mềm trên củ mu hoặc vào củ mu, điều quan trọng là
mảnh ghép phải phủ chồng lên 1-2 cm tại đây.
bờ dưới của mảnh ghép phải được khâu vào dây
chằng bẹn bằng mũi chỉ liên tục
bờ trên mảnh ghép thì may vào cân chéo trong ở
vò trí sát dưới lá trên của cân chéo ngoài.
khâu 2 vạt của đuôi mảnh ghép lại với nhau sao
cho tạo thành một lỗ ôm lấy thừng tinh vừa đủ khít.
Đóng vết mổ

Sau khi rửa sạch bằng dung dòch Bétadine pha
loảng #2% và thấm khô, vết mổ được khâu lại từng
lớp như thông thường (khâu cân chéo ngoài phủ lên
mảnh ghép rồi khâu cân Scarpa và da)

Chuyên đề Hội nghò Khoa học Kỹ thuật BV. Bình Dân 2004


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 8 * Phụ bản của Số 1 * 2004

Hình 1: đo khoảng cách để tính toán kích thước
lưới ghép


Đánh giá kết quả
Số liệu lâm sàng được lưu trữ và tính toán bằng
phần mềm Microsoft Excel.
Nhận xét về đối tượng nghiên cứu
Các dữ kiện về mặt dòch tễ học :
- tuổi, phái, nghề nghiệp, thể trạng mập hay
không
- bệnh kết hợp : nội hoặc ngoại khoa có hoặc
không làm tăng áp lực trong ổ bụng (ảnh hưởng đến
tỷ lệ tái phát), hút thuốc lá.

Nghiên cứu Y học

Hình 2 : đặt và khâu mảnh ghép che phủ thành
bẹn sau.

- loại 6 : TVB trực tiếp kết hợp với gián tiếp
(bệnh nhân có cả 2 túi thoát vò kiểu ống quần)
- loại 7: Thoát vò đùi
Bên thoát vò và bệnh lý vùng bẹn kết hợp:

- Thoát vò một bên (phải, trái), hai bên.
- Các dạng bệnh lý kết hợp: tinh mạc nước, u
nang thừng tinh, tinh hoàn lạc chỗ.
Đánh giá kết quả sớm và biến chứng
sớm sau mổ
– Thời gian mổ.

Các dữ kiện về mặt giải phẫu bệnh


– Tình trạng đau sau mổ.

Loại thoát vò :

– Thời gian hồi phục sinh hoạt cá nhân sau mổ.

Phân loại thoát vò theo Gilbert (1986) có bổ sung
bởi Rutkow và Robbins (1992) gồm 7 loại như sau :

– Thời gian nằm viện sau mổ.

- loại 1 : TVB gián tiếp, lỗ bẹn sâu còn chặt, kích
thước < 2 cm (không hoặc khó đút lọt một ngón tay
trỏ).

– Tai biến và biến chứng sau mổ (nếu có).

KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
Tất cả có 112 bệnh nhân được mổ theo kỹ thuật
Lichteinstein nêu trên, các dữ kiện nghiên cứu phân
bố như sau :

- loại 2 : TVB gián tiếp, lỗ bẹn sâu rộng nhưng
không quá 4 cm (đút lọt một ngón tay dễ dàng ,
nhưng không đút lọt được 2 ngón tay).

Tuổi

- loại 3 : TVB gián tiếp, lỗ bẹn sâu dãn rộng >
4cm (đút lọt 2 ngón tay).


Có 109 bệnh nhân trong nghiên cứu này là nam
giới (97,3%), chỉ có 3 người là nữ giới (2,7%).

- loại 4 : TVB trực tiếp, toàn bộ sàn bẹn bò suy

Tuổi trung bình là 52,67 ±3,58 tuổi (p<0,05),
trong đó trẻ nhất là 20 tuổi và già nhất là 87 tuổi.

yếu.
- loại 5 : TVB trực tiếp, chỗ yếu dạng túi thừa
trên xương mu.

Bảng 1:Phân bố về tuổi tác bệnh nhân
Tuổi

Chuyên đề Hội nghò Khoa học Kỹ thuật BV. Bình Dân 2004

Số bệnh nhân (112)

Tỷ lệ (%)

487


Nghiên cứu Y học
20 – 29
30 – 39
40 - 49
50 - 59

60 - 69
70- 79
>80

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 8 * Phụ bản của Số 1 * 2004
22
14
11
17
24
17
7

19,6
12,5
9,8
15,1
21,4
15,1
6,2

Nghề nghiệp
Hơn phân nửa số bệnh nhân trong nghiên cứu
(59,8%) là người lao động nặng vốn được coi là yếu tố
thuận lợi của sự tái phát.
Bảng 2: Phân bố nghề nghiệp bệnh nhân
Nghề nghiệp
Nặng
Trung bình
Nhẹ

Không

Số bệnh nhân (112)
67
22
9
14

Tỷ lệ (%)
59,8
19,6
8
12,5

Bệnh khác kết hợp

Có 2 bệnh nhân bò u xơ tiền liệt tuyến nhưng chỉ
có 1 người tiểu khó được điều trò nội khoa, và 1 người
bò hẹp niệu đạo đã mổ.
Bảng 3: Các bệnh khác đi kèm
Số bệnh nhân (36)
29
3
4

Tỷ lệ (%)
25,9
1,7
3,5


Nghiện thuốc lá – thể trạng
Chúng tôi ghi nhận có 25 bệnh nhân (22,3%)
nghiện thuốc lá, với số lượng hút trung bình từ 0,5
đến 1 gói thuốc lá mỗi ngày.
Phần lớn bệnh nhân có thể trạng trung bình (76
người, tỷ lệ 67,8%) hoặc gầy (32 người, tỷ lệ 28,6%),
chỉ có 5 ngưới mập (4,5%) và không có ai béo phì.
Loại thoát vò
Chỉ có 3 người (2,6%) thoát vò tái phát lần 1 được
chúng tôi mổ lại trong nghiên cứu này, đa số còn lại
(109 ngưới, 97,4%) là thoát vò nguyên phát.

488

Chúng tôi ghi nhận : thoát vò gián tiếp là 84 ca
(73%), thoát vò trực tiếp là 23 ca (20%), loại kết hợp cả
trực và gián tiếp là 7 ca (6,1%), và chỉ duy nhất có 1
ca (0,8%) thoát vò đùi (ca này có kết hợp với thoát vò
bẹn trực tiếp).
Chỉ có 2 ca có bệnh lý vùng bẹn kết hợp (1,7%),
trong đó 1 ca là tinh mạc nước và ca còn lại là u mỡ
vùng bẹn.
Bảng 4: Phân bố theo loại thoát vò bẹn

Chúng tôi nhận thấy có đến 36 bệnh nhân
(32,3%) có ít nhất một bệnh khác kết hợp, trong đó
nổi bật là các bệnh tim mạch (25,9%) như cao huyết
áp, thiểu năng vành, rối loạn dẫn truyền và rối loạn
nhòp tim.


Bệnh khác
Tim mạch
Niệu khoa
Khác

Có 3 bệnh nhân bò thoát vò 2 bên (2,6%) và 109
bệnh nhân bò thoát vò 1 bên (97,4%) trong số đó có 42
bên trái và 67 bên phải. Tuy tất cả những bệnh nhân
trong nghiên cứu này là những ca mổ chương trình,
nhưng chúng tôi cũng ghi nhận có 2 bệnh nhân bò
nghẹt lúc mổ (1,7%) và 1 người bò thoát vò trượt
(0,8%).

Loại thoát vò
Gilbert 1
Gilbert 2
Gilbert 3
Gilbert 4
Gilbert 5
Gilbert 6
Gilbert 7

Số ca (115)
5
52
27
18
5
7
1


Tỷ lệ (%)
4,3
45,2
23,5
15,6
4,3
6
0,8

Thời gian mổ
Thời gian mổ được tính từ lúc rạch da cho đến
khi hoàn tất cuộc mổ và khâu da, nhanh nhất là 25
phút, lâu nhất là 75 phút, trung bình là # 35 ±1,3
phút (p<0,05).
Bảng 5: Phân bố theo thời gian phẫu thuật
Thời gian (phút)
<30
31-35
36- 40
41-45
46- 50
51-55
>56

Số ca (115)
33
42
18
12

5
1
4

Tỷ lệ (%)
28,7
36,5
15,6
10,4
4,3
0,8
3,4

Kích thước mảnh ghép
Mảnh ghép mà chúng tôi sử dụng trong khi mổ
được tính toán tùy thuộc vào từng ca cụ thể.
Tuy nhiên, do để phù hợp với các mẫu mảnh
ghép thương mại được bán trên thò trường (kích

Chuyên đề Hội nghò Khoa học Kỹ thuật BV. Bình Dân 2004


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 8 * Phụ bản của Số 1 * 2004
thước thường lớn hơn nhu cầu) và cũng để tiết kiệm,
chúng tôi cân nhắc dùng nguyên mảnh ghép, ¾,
hoặc cắt đôi theo chiều dọc để dùng (một mảnh ghép
dùng cho 2 ca).
Bảng 6: Kích thước mảnh ghép dùng trong khi mổ
Kích thước
3 ×11cm

3,8 ×11 cm
4,5 ×11 cm
5 ×11 cm
6 ×11 cm

Số ca (115)
54
52
4
2
3

Tỷ lệ (%)
46,9
45,2
3,4
1,7
2,7

Thời gian phục hồi sinh hoạt cá nhân
sau mổ
Chúng tôi đònh nghóa rằng phục hồi sinh hoạt cá
nhân sau mổ khi bệnh nhân có thể tự đứng lên, đi lại
được trong phòng và tự đi tiểu được. Thời gian nhanh
nhất là 6h, chậm nhất là 54h, trung bình là 14,7h ±
0,25h (p<0,05).
Bảng 7: Phân bố theo thời gian phục hồi sinh hoạt
sau mổ
Thời gian
<12 h

12-24h
24-36
36-48
>48

Số bệnh nhân (112)
66
39
4
2
1

Tỷ lệ (%)
58,9
34,8
3,5
1,8
0,8

Tình trạng đau sau mổ
Sau mổ, bệnh nhân được dùng thuốc giảm đau
loại Paracetamol 500mg hoặc idarac (Floctafenine) 1
viên ×3 lần / ngày, nếu bệnh nhân còn than đau thì
dùng thêm thuốc giảm đau dạng tiêm mạch hoặc
tiêm bắp như Prodafalgan 1g hoặc Diclofenac hoặc
Pethidine (Dolargan) nếu cần.
Chúng tôi phân loại làm 3 mức độ đau :
- Đau nhẹ : đau không gây khó chòu đáng kể, chỉ
cần thuốc giảm đau dạng uống.
- Đau vừa : đau khó chòu, cần dùng thuốc giảm

đau dạng chích nhưng không phải loại gây nghiện.
- Đau nhiều : đau không chòu được, phải dùng
thuốc giảm đau dạng chích loại gây nghiện.
Việc đánh giá mức độ đau được thực hiện bằng

Nghiên cứu Y học

cách hỏi tất cả bệnh nhân vào buổi sáng sớm sau
ngày mổ (trong vòng 12-24 h đầu tiên).
Kết quả cho thấy : hầu hết bệnh nhân bò đau nhẹ
hoặc vừa sau mổ, không có người nào bò đau nhiều.
Bảng 8: Phân bố theo mức độ đau ghi nhận được
trong 24 h đầu
Mức độ đau
nhẹ
vừa
nhiều

Số bệnh nhân (112)
90
22
0

Tỷ lệ (%)
80,3
19,64
0

Thời gian nằm viện sau mổ
Lichteinstein(9) chủ trương cho bệnh nhân xuất

viện trong ngày mổ vì ông dùng gây tê tại chỗ, nhưng
chúng tôi do sử dụng tê tủy sống nên chỉ có thể cho
xuất viện nhanh nhất là vào ngày hôm sau (nằm viện
1 ngày).
Thời gian nằm viện sau mổ tính từ ngày mổ cho
đến ngày bệnh nhân được cho xuất viện, lâu nhất là
11 ngày, ngắn nhất là 1 ngày, và trung bình là 2,07
ngày. Con số này có thể hạ thấp hơn vì trong thực tế,
có nhiều bệnh nhân được mổ vào ngày cuối tuần (thứ
sáu) nên dù đã tự đi đứng được, nhưng phải chờ đến
thứ hai mới xuất viện được (phải nằm viện 3 ngày).
Riêng bệnh nhân nằm viện lâu đến 11 ngày là vì bò tụ
máu lớn vùng bẹn bìu.
Bảng 9: Phân bố theo thời gian nằm viện sau mổ
Thời gian
1 ngày
2 ngày
3 ngày
>3 ngày

Số bệnh nhân (112)
52
5
53
2

Tỷ lệ (%)
46,4
4,5
47,3

1,8

Tai biến và biến chứng sớm sau mổ
Chúng tôi không ghi nhận có tai biến nào trong
khi mổ.
Tuy nhiên có 2 ca bò tụ máu vết mổ nhưng không
có ca nào phải mổ lại. điều may mắn là chúng tôi
không ghi nhận ca nào bò nhiễm trùng vết mổ hay
nhiễm trùng mảnh ghép cả.
Cho đến nay, chúng tôi chưa ghi nhận ca nào bò
tái phát, nhưng do thời gian còn ngắn, nên chúng tôi
sẽ báo cáo vấn đề này trong một dòp khác khi đã theo

Chuyên đề Hội nghò Khoa học Kỹ thuật BV. Bình Dân 2004

489


Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 8 * Phụ bản của Số 1 * 2004

dõi đủ.
Bảng 10: Biến chứng sau mổ
Biến chứng
Nhiễm trùng
Tụ máu
Khác

Số ca(115)

0
2
0

Tỷ lệ (%)
0
1,8
0

BÀN LUẬN
Nhận xét về kỹ thuật đặt mảnh ghép
qua ngả trước
Qua kinh nghiệm của 115 trường hợp mổ, chúng
tôi nhận thấy kỹ thuật này rất đơn giản, tuy nhiên
cần lưu ý một số chi tiết kỹ thuật theo thứ tự sau
Cố đònh bờ dưới của mảnh ghép:

Được khởi khâu từ củ mu hướng ra ngoài : Cực
dưới trong của mảnh ghép nhất thiết phải phủ dư
trên củ mu một chút chừng 1-1,5 cm, theo
Lichteinstein thì chỉ cần khâu vào mô mềm trên
xương mu là được. Nhưng trong thực tế chúng tôi
thường móc kim sâu hơn, lấy cả vào màng xương của
củ mu để mảnh ghép được cố đònh chắc chắn. Sau
đó, tiếp tục khâu bờ dưới của mảnh ghép vào dây
chằng bẹn từ củ mu ra phía ngoài bằng mũi khâu vắt
liên tục, cho đến khi vượt quá bờ ngoài của lỗ bẹn sâu
chừng 2-3 cm. Cần chú ý là chỉ khâu không cần thiết
phải xiết quá chặt để tránh thiếu máu gây hoại tử cân
ngay tại đường khâu.

Xẻ đuôi mảnh ghép

Sau khi đã khâu cố đònh xong bờ dưới của mảnh
ghép, chúng tôi dùng kéo cắt dọc đuôi của mảnh
ghép thành 2 vạt từ ngoài vào, đi song song và cách
dây chằng bẹn chừng 1,5 cm, cho đến khi đến bờ
trong lỗ bẹn sâu.
Cố đònh bờ trong và bờ trên của mảnh
ghép

Cũng bắt đầu được khâu bằng mũi vắt liên tục
khởi từ xương mu vòng lên trên (khâu vào cân cơ
thẳng) rồi ra ngoài (khâu vào cân chéo trong) cho đến
khi vượt quá lỗ bẹn sâu chừng 2-3 cm. Cần chú ý
khâu bờ trên của mảnh ghép vào mô cân của cơ chéo
trong (chứ không phải vào mô cơ), và nên lấy gần với

490

chỗ hợp nhất với cân chéo ngoài vì tại đó cân thường
khá dày và rất chắc chắn. Ngay cả ở một số người mà
cơ đòa yếu, vốn có lớp cân này mỏng, thì tại vò trí này
chúng tôi hầu như bao giờ cũng tìm thấy những thớ
cân khá dày, đủ làm chỗ tựa vững chắc cho đường
khâu. Một điều quan trọng khi khâu ở giai đoạn này là
tránh khâu phạm hay xiết đè ép nhánh thần kinh
chậu hạ vò, vốn thường đi ngang vò trí này trước khi
xuyên qua cân chéo ngoài để đi vào lớp mô dưới da.
Khâu 2 vạt đuôi để ôm thừng tinh


Khi khâu khép 2 vạt đuôi của mảnh ghép để tạo
thành một lỗ ôm sát thừng tinh thì chú ý không để
quá chặt nhưng cũng không quá rộng (nhét được đầu
kềm phẫu tích là được). Theo Lichteinstein(9) thì, chỉ
cần khâu 1-2 mũi rời để đính 2 vạt đuôi của mảnh
ghép lại với nhau là đủ; nhưng chúng tôi thường khâu
một đoạn dài chừng 2-3 cm khởi từ bờ ngoài lỗ bẹn
sâu bằng mũi vắt liên tục, rồi khâu vòng lại để cột kết
thúc tại vò trí khởi phát; vì như thế sẽ chắc chắn hơn
nhằm tránh một số trường hợp tái phát hiếm hoi ở
bên ngoài lỗ bẹn sâu(17).
Phần đuôi của mảnh ghép nên được cắt bớt nếu
quá dài, chúng tôi nhận thấy rằng thông thường
mảnh ghép dùng trong thoát vò bẹn ở người Việt nam
chỉ cần dài #10 cm là đủ. Phần đuôi (sau khi cắt gọn
bớt) sẽ được nhét vào giữa 2 lớp cân chéo ngoài và
chéo trong.
Kích thước mảnh ghép
Ban đầu, chúng tôi thường dùng mảnh ghép kích
thước 5×11 cm (hãng B Braun) hoặc loại kích thước
6×11 cm (hãng Johnson) dùng cho một người thì
thấy dư (phải cắt bớt) và mảnh ghép bò chùng sau khi
khâu xong. Lý do là thể hình của người Việt nam thấp
bé hơn, ốm hơn nhiều so với người tây phương; trong
khi các loại mảnh ghép được cung cấp theo những
kích cỡ trên, là để dùng cho người tây phương vốn
rộng hơn nhiều.
Sau đóù để tiết kiệm, chúng tôi dùng loại mảnh
ghép kích thước 7,5×15 cm (vốn được hãng B Braun
sản xuất để dùng cho những ca thoát vò thành bụng

lớn) cắt đôi theo chiều dọc chia làm 2 mảnh (mỗi

Chuyên đề Hội nghò Khoa học Kỹ thuật BV. Bình Dân 2004


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 8 * Phụ bản của Số 1 * 2004
mảnh 3,75×15 cm) dùng cho 2 ca (tất nhiên là phải
cắt ngắn bớt). Với kích thước này, chúng tôi nhận
thấy là đủ(4) cho hầu hết bệnh nhân người Việt nam ;
tuy rằng có một số ít ca thì đường khâu đôi khi có hơi
căng do mảnh ghép hơi hẹp, nhưng sự căng này
không đáng kể mà bù lại mảnh ghép được dàn đều và
phẳng ra hơn. Chỉ có 3 ca chúng tôi buộc phải dùng
mảnh ghép kích thước 5-6×11 cm vì những người
này mập, hoặc do cơ đòa bẩm sinh có cân chéo trong
quá mỏng đòi hỏi phải khâu lên thật cao.
Vấn đề phòng chống nhiễm trùng
Kháng sinh phòng ngừa là không cần thiết trừ
khi bệnh nhân có một bệnh khác kèm theo gây ảnh
hưởng đến vấn đề nhiễm trùng như tiểu đường
chẳng hạn. Trong nghiên cứu này, chúng tôi chỉ
dùng kháng sinh phòng ngừa cho vài ca mổ đầu tiên
mà thôi, sau đó khi đã có kinh nghiệm thì chúng tôi
hầu như không dùng nữa trừ khi có chỉ đònh.
Cũng như một số tác giả khác, theo chúng tôi thì
vấn đề vô trùng phẫu thuật mới là điều quan trọng
hơn cả, việc vô trùng được chúng tôi thực hiện
nghiêm ngặt cho toàn bộ kíp mổ từ khâu rửa tay, mặc
áo, mang găng, cho đến khâu tiệt trùng và trải khăn
mổ. Sau khi hoàn tất đặt mảnh ghép, chúng tôi chủ

trương rửa phẫu trường để tiệt trùng và lấy đi những
máu cục, mảnh mô dập vốn là môi trường tốt cho sự
phát triển của vi trùng. Thay vì dùng kháng sinh(15)
hay Chlorhexidine, chúng tôi thường rửa vết mổ bằng
Betadine pha loảng #2%, rồi thấm khô trước khi
khâu cân chéo ngoài che phủ lên mảnh ghép. Với
những biện pháp này, chúng tôi đã có kết quả hết sức
khích lệ là không có bệnh nhân nào bò nhiễm trùng
sau mổ.
Nhận xét về kết quả
Qua 115 ca mổ, chúng tôi ghi nhận chỉ có 2 bò tụ
máu sau mổ (1,7%) nhưng không liên quan đến việc
đặt mảnh ghép. Tuy nhiên, một số nghiên cứu lớn ở
nước ngoài đã có ghi nhận một số biến chứng như
tổng kết của trung tâm nghiên cứu thoát vò Anh(5) với
3175 ca mổ thoát vò bẹn theo kỹ thuật lichteinstein
cho thấy:

Nghiên cứu Y học

- 45 bệnh nhân (1,3%) bò nhiễm trùng vết mổ
trong đó có 3 người bò áp xe phải dẫn lưu nhưng
không có người nào bò hình thành hang hốc mãn
tính.
- chỉ có 36 người (1%) bò đau hậu phẫu tới 2
tháng và 13 người (0,3%) bò đau kéo dài tới 2 năm.
- có 14 người (0,3%) bò tái phát trong thời gian
theo dõi từ 18 tháng đến 5 năm.
So sánh giữa kỹ thuật đặt mảnh ghép
và kỹ thuật dùng mô tự thân

Nhìn chung, phần lớn tác giả khi so sánh kỹ
thuật Lichteinstein và kỹ thuật truyền thống đều
nhận thấy : bệnh nhân dùng mảnh ghép ít đau hơn
và ít tái phát hơn so với dùng kỹ thuật kinh điển như
Bassini hay Shouldice.
Bảng 10: So sánh giữa kỹ thuật kinh điển và
Lichteinstein
Nghiên cứu
Thill
Friis, Lindhal
Shmitz (1997)
Kux (1994)
Grant (6) (2000)
McGillicuddy)(13)

Đau
Hồi phục
Mô tt Lich Mô tt Lich

#

#

Tái phát
Mô tt Lich.
11,5% 3,3%
15% 5%

Chậm nhanh
4,4% 1,4%

2% 0,5%

Chú thích : (nhiều hơn), (ít hơn)

So sánh giữa kỹ thuật đặt lưới ghép
qua ngã cổ điển và ngã nội soi
Janu (1997) nghiên cứu trên 800 bệnh nhân
trong thời gian 9 năm nhằm so sánh giữa 4 nhóm kỹ
thuật : (1) đặt lưới qua ngã trước, (2) dùng mô tự
thân, (3) đặt lưới qua ngã tiền phúc mạc, (4) đặt lưới
qua ngã nội soi. Kết luận cuối cùng là: kỹ thuật đặt
lưới qua mổ mở là ít bò tái phát nhất mà không làm
tăng nguy cơ nhiễm trùng cùng những biến chứng
hậu phẫu khác và không kéo dài thời gian nằm viện.
Theo Zieren(5) (1996), khi những chỉ tiêu đánh
giá sớm sau mổ là như nhau giữa nhóm dùng kỹ
thuật Lichteinstein và kỹ thuật mổ nội soi ; thậm chí
ngay cả khi phẫu thuật nội soi có hơi vượt trội hơn
một chút, thì phần lớn phẫu thuật viên dù rành cả 2

Chuyên đề Hội nghò Khoa học Kỹ thuật BV. Bình Dân 2004

491


Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 8 * Phụ bản của Số 1 * 2004

loại kỹ thuật đều thích chọn kỹ thuật lichteinstein

hơn. Nhóm này đã báo cáo kết quả tiền cứu so sánh
giữa 3 nhóm kỹ thuật : mổ nội soi, mổ mở đặt lưới và
kỹ thuật Shouldice (mỗi nhóm có 80 bệnh nhân). Kết
quả cho thấy : những tỷ lệ biến chứng hậu phẫu
không có sự khác biệt giữa 3 nhóm và cũng không có
ca nào bò tái phát sớm trước 25 tháng. tỷ lệ đau hậu
phẫu, nhu cầu dùng thuốc giảm đau, sự hạn chế vận
động và sự hồi phục lao động là tương đương nhau
giữa 2 nhóm mổ nội soi và mổ mở đặt lưới ghép ;
nhưng thấp hơn rõ rệt nếu so với nhóm shouldice,
trong khi đó phí tổn cho những dụng cụ và vật liệu
dùng trong cuộc mổ nội soi lại đắt gấp 10 lần so với
mổ mở đặt lưới. Kết luận cuối cùng là : phẫu thuật
mổ mở đặt lưới ghép là kỹ thuật hứa hẹn nhất trong
số 3 kỹ thuật vừa nêu, khi tất cả các yếu tố đánh giá
đều được đưa vào xem xét và cân nhắc.
Bảng 11 : So sánh giữa Lichteinsrein và mổ nội soi
Tác giả

Đau

Phục hồi

Lich NS
Wilson (1994)
Brooks(1996)
Horeyseck(1996
)
Fillipi(1996)
Gontarz(5)

(1998)
Wellwood(25)(19
98)
Lawrence(11)(19
95)
Kozol(8) (1997)
PhThông(20)
(2003)

#
#
#
#

#
#
#
#

Lich

Tái phát Khác(%)
(%)
NS Lich NS Lich NS

14-21 7-10
11,8 7,5
#
#
#

#

0

8

nv

1,3 3,2
sớm
#

trễ
#

b/c2 b/c12

5-9 9-19 2,3* 5,1

Chú thích : #(như nhau),*(ngả tiền phúc mạc), nv(tái nhập
viện), b/c(biến chứng)

KẾT LUẬN
Kỹ thuật đặt mảnh ghép vùng bẹn qua ngã cổ
điển của Lichteinstein là phẫu thuật đơn giản, ít gây
đau (do không căng), nhờ đó bệnh nhân có thể phục
hồi nhanh để sớm trở lại sinh hoạt và lao động bình
thường, chi phí điều trò thấp.

492


TÀI LIỆU THAM KHẢO
American Hernia Society (1999), annual meeting,
Springer – Verlag, vol. 3, supplement 1, feb. 1999.
2/ Capozzi. J.A., Berkenfield. J.A., Cherry. J.K., (1988),
Repair of inguinal hernia in the adult with prolene
mesh, SGO., vol. 167, 124-128.
3/ Fitzgibbons. R.J., Amid. K.A., Corbitt. J.D., Mckernan.
J.B., Nyhus. L.M., (1998), Symposium : operative
repair of inguinal hernia, Contemporary surgery,
January.
4/ Goldstein. H.S., (1999), Selecting the right mesh,
Springer – verlag, vol. 3, p. 23.
5/ GONTARZ. W., WOLANSKI. L., LEKSOWSKI. K.,
(1998), A comparison of two “tension free” inguinal
hernia repair methods- laparoscopic hernioplasty vs
anterior mesh technique,The British Journal of
surgery, vol. 85(2s), supplement 2, pp. 101
6/ GRANT. A., (2000), Mesh compaired with non-mesh
methods of open groin hernia repair : systematic
review of randomized controlled trials, The British
Journal of Surgery, Vol. 87(7), pp 854-859.
7/ HERNANDEZ. P., LASALA. M., ONTANON. M.,
GARCIA. C., ARGUELLO. M., MEDINA. I., (1997),
Tension free hernioplasty in primary inguinal hernia,
The British Journal of Surgery, Vol. 84(2s), p. 84.
8/ KOZOL. R., LANGE. P., KOSIR. M., BELESKI. K.,
MASON. K., TENNENBERG. S., KUBINEC. S.,
WILSON. R., (1997), A prospective, randomized Study
of open vs laparoscopic iguinal hernia repair: An

Assessment of postoperative pain., Archives of Surgery,
Vol. 132(3), pp 292-295.
9/ KURZER. M., BELSHAM. PA., KARK. AE., (1998), the
Lichteinstein repair, The Surgical Clinic of north
America, vol. 78, no. 6, p. 1025.
10/ LAFFERTY. PM., MALINOWSKA. A., PELTA. D.,
(1998), Lichteinstein Inguinal Hernia repair in a
primary healthcare setting, The British Journal of
Surgery, Vol. 85(6), pp 793-796.
11/ LAWRENCE. K., MCWHINNIE. D., GOODWIN. A.,
DOLL. H., GORDON. A., GRAY. A., BRITTON.
J.,COLLIN. J., (1995), Randomized controlled Trial of
laparoscopic vs open repair of inguinal hernia: early
results, British Medical Journal, Vol. 311(7011), pp
981-985.
12/ LICHTENSTEIN. F., SHULMAN. AG., AMID.
PK.(1993), The cause, prevention, and treatment of
recurrent groin hernia, Surg. Clin. north Amer., Vol.
73, no 3,p. 529.
13/ McGILLICUDDY. JE., (1998), Prospective Randomized
Comparision of the Shouldice and Lichteinstein
Hernia Repair Procedure, Archives of Surgery, Vol.
133(9), pp 974
14/ MADDERN. GJ., HIATT. JR., PHILLIPS. EH., (1998),
Hernia Repair: Open vs Laparoscopic Approaches, The
British Journal of Surgery, Vol. 85(2), p. 283.
15/ MAXIMO. D., (1998), Pathophysiology, Prevention, and
Management of Prosthetic Infections in Hernia
Surgery, the Surgical Clinic of North America, vol. 78,
no. 6, p. 1105.

1/

Chuyên đề Hội nghò Khoa học Kỹ thuật BV. Bình Dân 2004


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 8 * Phụ bản của Số 1 * 2004
16/

17/

18/

19/

20/

NORDIN. P., BARTELMESS. P., JANSSON. C.,
SVENSSON. C., EDLUND. G., (2002), Randomized
trial of lichteinstein versus shouldice hernia repair in
general surgical practice, British Journal of
Surgery,89, p. 45-49.
NOTARAS. MJ, (1995), Open hernioplasty is safer and
cheaper than laparoscopic surgery, British Medical
Journal, Vol. 311(7005), pp 630-631.
PARVIZ. K. AMID, (2002), How to avoid recurrence in
lichteinstein tension - free hernioplasty, The American
Journal of Surgery, 184, p. 259-260.
PHAN MINH TRÍ, ĐỖ ĐÌNH CÔNG, nguyễn hữu thònh,
(2003), Đặt lưới “polypropylene” ngả tiền phúc mạc
trong điều trò thoát vò bẹn, Y học thành phố Hồ chí

Minh, tập 7, Phụ bản số 1, trang 187-191.
PHẠM HỮU THÔNG, ĐỖ ĐÌNH CÔNG, NGUYỄN
ANH DŨNG, NGUYỄN THẾ HIỆP, (2003), Nhận xét
kết quả ban đầu của phẫu thuật điều trò thoát vò bẹn
qua ngả nội soi ổ bụng, Y học thành phố Hồ chí Minh,
tập 7, Phụ bản số 1, trang 192-201.

Nghiên cứu Y học

21/ RAYMOND A. DIETER JR, (1999), Mesh plug migration
into scrotum : a new complication of hernia repair,
Int. Surg., 84, p. 57-59.
22/ Rutkow I.M., Robbins A.W., (1998), Mesh plug repair
and groin hernia surgery, The Surgical Clinic of north
America, vol. 78, no. 6, p. 1007.
23/ SANTOS C., FERNANDEZ M., (1997), Tension free
hernioplasty in inguinal hernia, The British Journal
of Surgery, Vol. 84(2s), p. 85.
24/ SHULMAN A. G LICHTENSTEIN F.,., AMID P.
K.(1992), The safety of mesh repair for primary
inguinal hernia: result of 3019 operations from 5
diverse surgical sources, The American Journal Of
Surgery, Vol. 58, p. 255-7.
25/ WELLWOOD J., SCULPHER M., STOKER D.,
NICHOLLS G., GEDDES C., WHITEHEAD A.,
SINGH
R.,
SPIEGHELHALTER
D.,
(1998),

Randomized controlled Trial of laparoscopic vs open
mesh repair of inguinal hernia: outcome and cost,
British Medical Journal, Vol. 317(7151), pp 103-110.

Chuyên đề Hội nghò Khoa học Kỹ thuật BV. Bình Dân 2004

493



×