Tải bản đầy đủ (.pdf) (6 trang)

Ghép thận tự thân điều trị tăng huyết áp do hẹp động mạch thận

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (427.48 KB, 6 trang )

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 3 * 2013 

Nghiên cứu Y học

GHÉP THẬN TỰ THÂN ĐIỀU TRỊ TĂNG HUYẾT ÁP  
DO HẸP ĐỘNG MẠCH THẬN 
Dương Thị Kim Cúc*, Dương Quang Vũ*, Thái Minh Sâm*, Châu Quý Thuận*, Dư Thị Ngọc Thu*,  
Trần Trọng Trí*, Hoàng Khắc Chuẩn*, Nguyễn Thị Thái Hà*, Trần Ngọc Sinh* 

TÓM TẮT 
Đặt vấn đề và mục tiêu: Trong bệnh hẹp động mạch thận gây tăng huyết áp, nếu không thể can thiệp 
bằng đường nội mạch (nong, stent) thì phải can thiệp ngoại khoa. Những phương pháp bắt cầu tại chỗ có thể 
gặp khó khăn khi đoạn hẹp dài đến chỗ phân chia động mạch thận hoặc bản thân động mạch chủ và các mạch 
máu lân cận cũng có vấn đề (bệnh Takayashu). Ghép thận tự thân là một giải pháp cho các trung tâm quen 
với việc ghép thận. Cắt thận để ghép  trên những trường hợp này cũng đặc biệt và cần một số kỹ năng riêng 
biệt. Sau những báo cáo đầu tiên tại bệnh viện Chợ Rẫy, năm nay chúng tôi muốn báo cáo thêm một số kinh 
nghiệm liên quan đến kỹ năng cắt thận nội soi cho các trường hợp này.  
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: hang loạt ca. Bệnh nhân là các trường hợp (TH) người lớn 
và trẻ em bị hẹp động mạch thận với sự từ chối đặt stent của khoa tim mạch can thiệp, hoặc đặt stent thất 
bại, bn không đồng ý hoặc không đủ điều kiện đặt stent, nhập viện từ tháng 4/2004 đến tháng 04/2013 tại 
bệnh viện Chợ Rẫy và bệnh viện Nhi Đồng I.  Phương pháp cắt thận nội soi qua ngả bụng được tiến hành, 
lấy thận ra tại đường mổ ở hốc chậu phải, rửa và xử trí mạch máu ở 4 độ Celsius ngoài cơ thể, sau đó thận 
được ghép thận tự thân ngoài phúc mạc tại đường mổ hốc chậu phải. Kiểm tra sau mổ bằng thận đồ đồng vị 
phóng xạ và UIV.  
Kết quả: Trong 9 năm chúng tôi đã thực hiện ghép thận tự thân cho 22TH đã đặt stent thất bại, hoặc 
từ chối đặt stent, có 2TH hẹp ĐM thận kèm rò ĐM – TM thận và 1TH hẹp ĐM thận kèm phình bóc tách 
ĐM chủ ngực  bụng . Cắt lấy thận bằng kỹ thuật nội soi qua  ổ bụng, tuổi trung bình 19 ± 0,8 tuổi, có 10 
em bé, 12 người lớn. Tuổi nhỏ nhất 5 tuổi, tuổi lớn nhất là 55 tuổi. Thời gian mổ trung bình 310 ± 85 giây. 
Thời gian thiếu máu nóng trung bình 233 ± 195 giây (4 – 10 phút). Biến chứng sau mổ: dò nước tiểu sau 
mổ có 1TH (4,5%), hoại tử thận ghép sau mổ 4 tuần  1TH (4,5%). Thời gian năm viện 40 ngày. Sau ghép 
19/22TH  (86,4%)  huyết  áp  đã  trở  về  bình  thường,  trên  siêu  âm  Doppler  thận  ghép  21TH  (95,5%),  UIV 


thận ghép hoạt động tốt 15TH (68,2%), CT‐ Scan 19TH (86,4%),  tử vong 1TH (4,5%). Thời gian theo dõi 
dài nhất là 7 năm, ngắn nhất là 2 tháng. 
Kết  luận:  Các  trường  hơp  tang  huyết  áp  do  hẹp  ĐM  thận  nếu  không  thể  can  thiệp  bằng  đường  nội 
mạch  (nong,  stent),  hoặc  không  có  điều  kiện  để  đặt  stent  thì  sẽ  được  can  thiệp  ngoại  khoa  (ghép  thận  tự 
thân).Nội soi ổ  bụng cắt thận bị  hẹp động mạch có lợi điểm là vào có thể  đi  thẳng  vào  gốc  của  động  tĩnh 
mạch thận trước tiên, các nhánh động mạch nối tắt, nhánh động mạch xuyên nuôi thận được bảo tồn vào 
giai đoạn đầu cuộc mổ, do vậy thời gian thực thiếu máu nóng của thận giảm rất nhiều, thận dễ phục hồi hơn 
sau khi ghép.  Cuộc mổ, ngoài 3 trocars, chỉ có thêm một  đường mổ 10 cm vùng hốc chậu vừa lấy thận ra 
vừa ghép vào. Kết quả cho thấy các cuộc mổ thành công với chức năng thận tốt, bệnh nhân không phải dùng 
hoặc ngưng hẳn thuốc hạ áp, và không bị đe dọa tính  mạng do tăng huyết áp, nhất là các em bé, 1 TH tử 
vong.   
Từ khóa: hẹp động mạch thận, ghép thận tự thân 
* Khoa Ngoại Tiết Niệu Bệnh viện Chợ Rẫy 
Tác giả liên lạc: BS CK2 Dương Thị Kim Cúc 

Chuyên Đề Thận ‐ Niệu 

 
 
ĐT: 091385345 

Email:  

69


Nghiên cứu Y học 

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 3 * 2013


ABSTRACT 
AUTOTRANSPLANTATION FOR THE TREATMENT OF RENAL ARTERY STENOSIS 
Duong Thi Kim Cuc, Duong Quang Vu, Thai Minh Sam, Chau Quy Thuan, Du Thi Ngoc Thu,  
Tran Trong Tri, Hoang Khac Chuan, Nguyen Thi Thai Ha, Tran Ngoc Sinh 
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 17 ‐ Supplement of No 2 ‐ 2013: 
Background and odjective:  The renal arterial stenosis (RSA), is evidence in children and also aldults, 
causes are numerous. Nowadays, the treatments of RSA is minimally invasive by endo‐arterial dilatation or 
endo‐arterial stents. But there were cases failed with this non‐invasive measure. We prefer to auto‐transplant 
if the endo‐arterial intervention was failed. 
Patients  and  Methods:  The patients were all age with RSA, failed after endo‐arterial intervention in 
Cho  Ray  Hospital  (CRH),  Pediatric  N1  hospital  from  April  2004  to  April  2013.  The  laparoscopic 
nephrectomy was performed; the kidney was removed by an incision on right iliac fossa (RIF), washing and 
reservation by Euro‐Collins’ Solution at 4 Celsius degree. Then the auto‐transplantation was realized, on the 
same  RIF  incision  but  extra  peritoneal  (the  peritoneum  was  sutured  by  3.0  vicryl,  and  a  retroperitoneal 
dissection on the RIF) . 
Results: The laparoscopic nephrectomy in order to renal auto transplantation was performed in 22cases 
(of due to of renal artery stenosis), the average of age is 19 ± 0.8 years old (yo), the youngest was 5 yo, the 
oldest was 55 yo, and there were 10 children. The operative time is 310 ± 85 second, the warm ischemic time 
is 233 ± 195 second (range 4 – 10mns). The postoperative results were satisfactory in: 19/22 cases (86.4%) 
with  good  graft  function  controlled  by  isotopic  renal  scan;  19/22  cases  (86.4%)  the  normal  blood  pressure 
were recovered and the patients stopped all of the hypertensions, only another patient still maintained 5mg 
Amlordipine daily. Postoperative complication: urinary leaking (1 case) during 4 weeks (4.5%), death in 1 
case (4.5%). The hospital stay average was 40 days. After transplantation, 19/22TH (86.4%) blood pressure 
has returned to normal, Doppler sonographic renal transplant 21TH (95.5%), renal graft function i  bệnh 
viện Chợ Rẫy từ tháng 4/2004 đến tháng 12/2006 
chúng  tôi  đã  thực  hiện  ghép  thận  tự  thân,  lấy 
thận ghép bằng kỹ thuật nội soi ổ bụng và thành 
công cho 4 trường hợp(Error! Reference source not found.,12,14). 
Ghép thận tự thân là phương pháp điều trị được 
áp  dụng  cho  một  số  bệnh  lý  nặng  của  thận  như: 

hẹp động mạch thận, viêm xơ hóa thận, viêm cầu 
thận,  thận  đa  nang,  tổn  thương  mạch  máu  thận 
nặng  hay  một  số  bệnh  lý  khác  như:  phình  động 
mạch chủ bụng đoạn ngang thận, tổn thương niệu 
quản trên một đoạn dài, bướu thận. …  
Thận được lấy ra ngoài sữa chữa những bất 
thường, tạo hình rồi ghép trở lại cho người bệnh 
bằng đường lấy thận.  
Về chỉ định ghép thận tự thân: Với sự tiến bộ 
của  khoa  học  và  của  ngành  Tim  mạch  học  can 
thiệp,  chỉ  định  ghép  thận  tự  thân  ngày  nay  có 
phần bị thu hẹp. Tuy vậy ghép thận tự thân vẫn 
được  áp  dụng  trong  một  số  trường  hợp  tổn 
thương không thể sửa chữa được hoặc sửa chữa 

Chuyên Đề Thận ‐ Niệu  


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 3 * 2013 
được nhưng không triệt để như:  
‐  Hẹp  động  mạch  thận  hoàn  toàn  hay  hẹp 
trên 1 đoạn dài, hẹp đến chỗ phân nhánh động 
mạch… Nguyên nhân của hẹp động mạch thận 
có thể do xơ vữa, do loạn sản cơ sợi thành mạch 
hay do viêm mạch máu Takayasu. 
‐ Hẹp động mạch thận ở trẻ em, thuyên tắc 
động mạch thận. 
‐  Chấn  thương  hay  vết  thương  mạch  máu 
thận. 
‐  Túi  phình  động  mạch  thận  hay  phình 

nhánh động mạch thận. 
‐  Phình  động  mạch  chủ  bụng  đoạn  ngang 
thận cần phải cắt bỏ tạo hình. 
‐ Tổn thương niệu  quản  trên  một  đoạn  dài: 
chấn thương niêu quản hay cắt đoạn niệu quản 
do bướu niệu quản. 
‐ Bướu thận, một số tác giả cắt thận và bướu 
sau đó đưa ra ngoài phẫu tích lấy bướu sau đó 
ghép thận trở lại cho bệnh nhân. 
‐  Những  bệnh  nhân  tuổi  nhỏ  phần  lớn  suy 
thận mạn thường do bệnh lý bẩm sinh chiếm tỷ 
lệ # 45% (MC. Enry 1992) (2) như: Bướu Wilm’s.  
Trong  vấn  đề  chỉ  định  cần  chú  ý  là  chức 
năng  hoạt  động  của  quả  thận  được  ghép  phải 
còn  khá  tốt.  Việc  thành  công  của  ghép  thận  tự 
thân  có  ý  nghĩa  rất  quan  trọng,  đặc  biệt  trong 
trường hợp thận độc nhất hay thận còn lại hoạt 
động kém. 
Hiệu quả của kỹ thuật: Nếu chỉ định đúng 
phương pháp đạt hiệu quả cao hơn hẳn so với 
các phương pháp khác như nong đặt stent chỉ 
hiệu  quả  đối  với  những  trường  hợp  hẹp  vừa 
phải và hẹp trên 1 đoạn ngắn. Còn so sánh với 
kỹ thuật mổ bắc cầu mạch máu (by‐pass), theo 
Dubernard  (1985)  và  Bleacher  (1997)(1)  kết  quả 
giảm  huyết  áp  sau  mổ  cũng  như  sự  hồi  phục 
chức  năng  thận  trong  ghép  thận  tự  thân  cao 
hơn hẳn so với kỹ thuật mổ bắc cầu mạch máu 
(97%  so  với  80%).  Nghiên  cứu  của  chúng  tôi 
cũng cho thấy 4 bệnh nhân bị cao huyết áp do 

hẹp  động  mạch  thận,  sau  mổ  huyết  áp  đã  trở 
về bình thường.  

Chuyên Đề Thận ‐ Niệu 

Nghiên cứu Y học

Vấn  đề  lấy  thận  trong  ghép  thận  tự  thân: 
trước đây thường áp dụng kỹ thuật mổ mở lấy 
thận, ngày nay với sự tiến bộ của y học, lấy thận 
bằng  phẫu  thuật  nội  soi  đã  đem  lại  kết  quả  tốt 
cho người bệnh, Chúng tôi cũng đã áp dụng 22 
trường  hợp  lấy  thận  nội  soi  ổ  bụng  và  kết  quả 
đều  tốt  86,4%.  Nội  soi  ổ  bụng  cắt  thận  bị  hẹp 
động  mạch  có  lợi  điểm  là  vào  có  thể  đi  thẳng 
vào gốc của động tĩnh mạch thận trước tiên, các 
nhánh  động  mạch  nối  tắt,  nhánh  động  mạch 
xuyên nuôi thận được bảo tồn vào giai đoạn đầu 
cuộc mổ, do vậy thời gian thực thiếu máu nóng 
của thận giảm rất nhiều, thận dễ phục hồi hơn. 
Cuộc  mổ,  ngoài  3  trocars,  chỉ  có  thêm  một 
đường mổ 10 cm vùng hốc chậu vừa lấy thận ra 
vừa ghép vào. vấn đề thẩm mỹ cao, đau sau mổ 
giảm  và  thời  gian  nằm  viện  được  rút  ngắn  lại. 
Tuy nhiên vì là kỹ thuật mới nên giá thành các 
trang thiết bị còn cao và đòi hỏi phẫu thuật viên 
phải  có  kinh  nghiệm  trong  vấn  đề  phẫu  thuật 
nội soi. 
Về  kỹ  thuật  ghép:  Có  2  vị  trí  ghép  thường 
dùng  là  ghép  vào  hốc  chậu,  ngoài  phúc  mạc 

hoặc  ghép  vào  vị  trị  cũ  của  thận  vùng  hông 
lưng. 
Vấn  đề  chuẩn  bị  trước  ghép  đóng  một  vai 
trò rất quan trọng, quyết định cho sư thành công 
của cuộc mổ. Các khâu chuẩn bị bao gồm: ekíp 
mổ, dung dịch rửa và bảo quản thận… thời gian 
thiếu  máu  thận  ghép  càng  ngắn  càng  tốt,  đặc 
biệt là thời gian thiếu máu nóng để làm giảm tổn 
thương  cho  thận  ghép  và  thận  ghép  hồi  phục 
tốt. 
Vấn đề xử lý mạch máu thận trong qúa trình 
mổ  đóng  một  vai  trị  rất  quan  trọng  như  cắt  bỏ 
đoạn mạch máu hẹp, tái tạo lại động mạch thận, 
nối  động  mạch  thận  với  1  mạch  máu  mới… 
Những vấn đề nầy cần phải hết sức cẩn thận vì 
đây  là  thao  tác  quyết  định  cho  hệ  thống  máu 
nuôi thận tốt hay không sau khi ghép. 
Khâu nối niệu quản vào bàng quang: có rất 
nhiều  kỹ  thuật,  áp  dụng  kỹ  thuật  nào  tuỳ  thói 
quen  của  từng  phẫu  thuật  viên,  vấn  đề  là  làm 
thế  nào  để  không  bị  xì  dò  nước  tiểu,  không  bị 

73


Nghiên cứu Y học 

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 3 * 2013

hẹp miệng nối và không bị trào ngược nước tiểu 

có thể gây nhiễm trùng tiểu ngược dòng về sau. 
Chúng  tôi  áp  dụng  kỹ  thuật  Lich  Gregoire  và 
nhận thấy kết quả khá tốt. 

KẾT LUẬN 
Ghép  thận  tự  thân  là  một  kỹ  thuật  điều  trị 
hiệu quả trong một số bệnh lý mạch máu phức 
tạp  của  thận,  niệu  quản  hay  động  mạch  chủ 
bụng… Đây là một phẫu thuật lớn, đòi hỏi có sự 
chuẩn bị tốt để đảm bảo cho sự thành công của 
phẫu thuật.  
Để  đạt  được  thành  công  của  cuộc  mổ,  đòi 
hỏi  phải  tuân  thủ  theo  đúng  những  bước  cần 
thiết  của  quy  trình  ghép  một  cơ  quan  đó  là  về 
khâu  chuẩn  bị,  kỹ  thuật  mổ  cũng  như  điều  trị 
nội và theo dõi sau phẫu thuật. Theo chúng tôi 
vấn  đề  quan  trọng  là  chỉ  định  đúng  và  xử  trí 
thương tổn tốt. Trong đó vai trò nội soi ổ bụng 
trong  thì  lấy  thận  cũng  quan  trọng  không  kém 
và góp phần thành công trong cuộc mổ. 
Nội  soi  ổ  bụng  cắt  thận  bị  hẹp  động  mạch, 
chỉ định khi có chống chỉ định hoặc thất bại với 
các  phương  pháp  stent,  nong,  hay  bị  từ  chối  vì 
không  được  chi  trả  tiền  mua  stent.  Nội  soi  ổ 
bụng cắt thận để ghép tự thân có lợi điểm là vào 
có thể đi thẳng vào gốc của động tĩnh mạch thận 
trước  tiên,  bảo  tồn  được  các  nhánh  động  mạch 
nối tắt, nhánh động mạch xuyên nuôi thận, vào 
giai  đoạn  đầu  cuộc  mổ.  Do  vậy  thời  gian  thực 
thiếu máu nóng thực của thận giảm đi rất nhiều, 

thận dễ phục hồi hơn. Cuộc mổ, ngoài 3 trocars, 
chỉ có thêm một đường mổ 10 cm vùng hốc chậu 
vừa lấy thận ra vừa ghép vào. Kết quả cuộc mổ 
qua  loạt  này  cho  thấy  các  cuộc  mổ  thành  công 
với  chức  năng  thận  phục  hồi  tốt,  bệnh  nhân 
không còn phải dùng hoặc ngưng hẳn thuốc hạ 
áp,  và  không  còn  bị  đe  dọa  tai  biến  mạch  máu 
do tăng huyết áp, nhất là các em bé, có 1 TH tử 
vong nghĩ do thuyên tắt phổi, 1TH hoại tử thận 
ghép, 1TH dò nước tiểu sau mổ.  

TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1.

74

Bleacher  J,  Turner  ME,  Quivers  E,  Schwarts  (1997).  Renal 
autotransplantation for renovascular hypertension caused by 
midaortic  syndrome.  J  Pediatr  Surg  Feb;  32(2):  248‐50; 

2.

3.

4.

5.

6.


7.
8.

9.

10.

11.

12.

13.

14.

15.

16.

17.

discussion 250‐1. 
Chiche L, Kieffer E, Sabatier J, Colau A, Koskas F, Bahnini A 
(2003).  Renal  Autotransplantation  for  vascular  disease:  late 
outcome according to etiology. J Vasc Surg Feb; 37(2):353‐61. 
Desai  D,  Nicholls  G,  Duffy  PG  (1999).  Bench  surgery  with 
autotransplantation  for  Bilateral  synchronous  Wilmsʹ  tumor: 
a report of three cases. J Pediatr Surg Apr; 34(4):632‐4. 
Duberna JM, Martin X, Mongin D, Gelet A, Canton F (1985). 
Extracorporeal  replacement  of  the  renal  artery:  techniques, 

indications and long‐term results. J Urol. Jan; 133(1):13‐6. 
Duberna JM, Martin X, Gelet A, Mongin D, Canton F, Tabib A 
(1985):  Renal  autotransplantation  versus  bypass  techniques 
for renovascular hypertension. Surgery May; 97(5):529‐34. 
Gill IS, Uzzo RG, Hobart MG, Streem SB, Goldfarb DA, Noble 
MJ  (2000).  Laparoscopic  retroperitoneal  live  donor  right 
nephrectomy  for  purposes  of  allotransplantation  and 
autotransplantation. J Urol Nov; 164(5):1500. 
Hardy  JD  (1963).  High  ureteral  injuries.  Management  by 
autotransplantation of the kidney. JAMA Apr 13; 184:97‐101. 
Knobloch K, Wiebe K, Lichtenberg A, Fischer S, Gohrbandt B, 
Haverich  A  (2005).  Ex  vivo  repair  and  renal 
autotransplantation for complex renal artery aneurysms in a 
solitary kidney. Ann Vasc Surg May; 19(3):407‐10.  
Sicard GA, Valentin LI, Freeman MB, Allen BT, Anderson CB 
(1988)  Renal  autotransplantation:  an  alternative  to  standard 
renal  revascularization  procedures.  Surgery  Oct;  104(4):624‐
30. 
Takahashi  A,  Satoh  S,  Nakai  I,  Kitaura  K,  Wada  Y,  Oka  T 
(1995).  Renal  autotransplantation  for  dissecting  aneurysm. 
Nippon Kyobu Geka Gakkai Zasshi; 43(9):1553‐8. Japanese. 
Trần Ngọc Sinh (2005). Những phương pháp xử lí mạch máu 
trong  ghép  thận  tại  bệnh  viện  Chợ  Rẫy,  Tạp  chí  Y  học 
TP.HCM ‐ chuyên đề Niệu Khoa, tập 9 (3); trang 213‐ 222. 
Trần Ngọc Sinh (2005). Phẫu thuật cắt thận nội soi để ghép : 
nhân 13 trường hợp đầu tiên tại bệnh viện Chợ Rẫy, Tạp chí 
Y Học Việt Nam – Số đặc biệt tháng 8, trang 253‐264. 
Trần Ngọc Sinh (2005). Những phương pháp xử  mạch  máu 
trong  ghép  thận  tại  bệnh  viện  Chợ  Rẫy,  Tạp  chí  Y  học  Việt 
Nam,  số  đặc  biệt  tháng  8/2005  chuyên  đề  Tiết  Niệu  ‐  Thận, 

mừng Đại hội đại biểu tịan quốc lần thứ 2, Hội Tiết Niệu  – 
Thận học Việt Nam), 277‐288. 
Trần  Ngọc  Sinh  (2006).  Lấy  thận  nội  soi  để  ghép  nhân  20 
trường hợp tại bệnh viện Chợ Rẫy, Tạp chí Y học TP.HCM : 
số  đặc  biệt  hội  nghị  KHKT  bệnh  viện  Bình  Dân,  trang  319‐
328. 
Trần Ngọc Sinh (2005). Phẫu thuật cắt thận nội soi để ghép: 
hiệu  quả  và  triển  vọng,Y  học  TP  Hồ  Chí  Minh  (chuyên  đề 
Ngoại  Chuyên  ngành  Niệu  khoa,  Hội  Nghị  Khoa  học  Kỹ 
Thuật lần thứ 22), Tập 9, phụ bản số 1, trang 95‐99.  
Văn  Tần,  Dương  Quang  Trí  và  cs  (2004).  Hai  trường  hợp 
ghép thận tự thân cơ hội thành công sau mổ bướu sau phúc 
mạc xâm lấn. Y học TP.Hồ Chí Minh, tập 8, phụ bản của số 1, 
tr.223‐232.  
Webster JC, Lemoine J, Seigne J, Lockhart J, Bowers V (2005). 
Renal Autotransplantation for managing a short upper ureter 
or after ex vivo complex renovascular reconstruction. BJU Int; 
96(6):871‐4.  

Ngày nhận bài báo  

 

16‐09‐2012 

Ngày phản biện nhận xét bài báo:  23‐03‐2013 
Ngày bài báo được đăng:    

15–07‐2013 


Chuyên Đề Thận ‐ Niệu  



×