Tải bản đầy đủ (.pdf) (8 trang)

Nồng độ interferon gamma trong huyết thanh bệnh nhân vảy nến tại Bệnh viện Da Liễu Thành phố Hồ Chí Minh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (319.19 KB, 8 trang )

Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 1 * 2013

NỒNG ĐỘ INTERFERON GAMMA TRONG HUYẾT THANH
BỆNH NHÂN VẢY NẾN TẠI BV. DA LIỄU THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
Võ Thị Đoan Phượng*, Nguyễn Tất Thắng**

TÓM TẮT
Mở đầu: IFN-γ là một yếu tố điều hòa miễn dịch quan trọng đóng vai trò rất lớn trong sinh bệnh học của
bệnh vảy nến. Nghiên cứu này góp phần tìm hiểu rõ hơn về sinh bệnh học của bệnh vảy nến tại Việt Nam cũng
như đặt những viên gạch đầu tiên cho việc nghiên cứu và phát triển liệu pháp sinh học thuốc kháng IFN-γ trong
điều trị bệnh vảy nến.
Mục tiêu: Định lượng nồng độ IFN- γ huyết thanh ở những bệnh nhân vảy nến và so sánh nồng độ IFN- γ
huyết thanh với độ nặng lâm sàng, thời gian mắc bệnh và tính chất khởi phát sớm của bệnh vảy nến.
Phương pháp: Nghiên cứu cắt ngang phân tích trên 40 người khỏe mạnh và 62 bệnh nhân vảy nến.
Kết quả: Nồng độ IFN- γ trong huyết thanh ở những bệnh nhân vảy nến trung bình là 11,24 ± 6,94 pg/mL,
cao hơn có ý nghĩa thống kê so với nhóm người bình thường là 1,29 ± 0,76 pg/mL (p < 0,001). Nồng độ IFN- γ
trong huyết thanh của nhóm bệnh nhân đỏ da toàn thân do vảy nến là 13,80 ± 8,51 pg/mL, nhóm vảy nến khớp là
10,86 ± 5,79 pg/mL và thấp nhất là nhóm bệnh nhân vảy nến mảng 9,76 ± 5,84 pg/mL. Tất cả nồng độ này đều
cao hơn nhóm bình thường với p < 0,001. Tuy nhiên chúng tôi không tìm thấy sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về
nồng độ IFN- γ huyết thanh giữa các dạng lâm sàng của bệnh vảy nến. Có mối tương quan tuyến tính giữa nồng
độ IFN- γ huyết thanh và độ nặng của vảy nến mảng tính theo chỉ số PASI (hệ số tương quan r = 0,51, p <
0,001). Không tìm thấy sự khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa nồng độ IFN- γ huyết thanh và độ nặng của vảy
nến khớp (p = 0,60). Không có mối tương quan có ý nghĩa thống kê giữa nồng độ IFN- γ huyết thanh và thời gian
mắc bệnh (p=0,25), giữa nồng độ IFN- γ huyết thanh với tính chất khởi bệnh sớm trước 30 tuổi (p=0,19).
Kết luận: Xét nghiệm nồng độ IFN- huyết thanh là 1 xét nghiệm cung cấp những thông tin hữu ích giúp
chúng ta hiểu rõ hơn về mạng lưới sinh bệnh học của bệnh vảy nến. Hiện nay trên thế giới hoàn toàn chưa có 1
xét nghiệm nào hỗ trợ đánh giá độ nặng lâm sàng của vảy nến. Do đó, việc định lượng IFN- γ huyết thanh có thể
được khuyến cáo sử dụng như 1 công cụ hỗ trợ trong việc đánh giá độ nặng của bệnh và theo dõi điều trị.
Từ khóa: Nồng độ Interferon gamma huyết thanh, bệnh nhân vảy nến



ABSTRACT
SERUM INTERFERON GAMMA IN PATIENTS WITH PSORIASIS
IN HOSPITAL OF DERMATO-VENEREOLOGY IN HO CHI MINH CITY
Vo Thi Doan Phuong , Nguyen Tat Thang
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 17 - Supplement of No 1 - 2013: 364 - 371
Background: Interferon gamma (IFN- γ) is an important immune regulator and plays a major role in the
pathogenesis of psoriasis. This study takes part in improving the understanding of pathogenesis of psoriasis, which
encourages further research on anti-IFN- γ biologic therapy in the treatment of psoriasis.
Objective: To analyze the serum IFN-γ levels in psoriatic patients to evaluate the concentrations, correlation
with some clinical features.
Method: Performing an analyzed cross-sectional study in 42 healthy subjects and 60 psoriatic patients.
* Bệnh viện Da Liễu Tp Hồ Chí Minh
** Bộ môn Da Liễu Đại Học Y Dược TP Hồ Chí Minh
Tác giả liên lạc: PGS.TS Nguyễn Tất Thắng ĐT: 0903350104 Email:

364

Chuyên Đề Nội Khoa


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 1 * 2013

Nghiên cứu Y học

Results: The mean serum IFN- γ levels of the patients were 11.24 ± 6.94 pg/mL, significantly higher than
those of healthy subjects 1.29 ± 0.76 pg/mL (p < 0.001). The mean serum IFN- γ levels of patients with
erythroderma (13.80 ± 8.51 pg/mL), the plaque-type psoriatic patients (9.76 ± 5.84 pg/mL) and patients with
psoriatic arthritis (10.86 ± 5.79 pg/mL) were significantly differerent from those of healthy subjects (p < 0.001).
There was not a significantly differerent between the serum IFN- γ levels and severity of psoriatic arthritis

(p=0.60). There was a linear positive correlation between the serum IFN- γ levels and psoriasis area and severity
index (PASI) scores (R = 0.51, p <0.001). There was no significant correlation between serum IFN- γ levels of the
patients and duration of illness (p=0.25), early onset (before 30 years old) (p=0.30).
Conclusion: Serum IFN- γ levels provide many useful information about pathogenesis of psoriasis.
There haven’t been any tests to evaluate the severity of psoriasis. Therefore, Serum IFN- γ levels might have
clinical usefulness, particularly in evaluating the monitoring the clinical disease severity and monitoring
therapeutic effects.
Keywords: Serum Interferon gamma, psoriatic patients
khớp và vảy nến đỏ da toàn thân điều trị tại
MỞ ĐẦU
bệnh viện Da Liễu Tp HCM.
Vảy nến là một bệnh viêm da mạn tính ảnh
- So sánh sự khác biệt về nồng độ IFN-γ
hưởng đến 2%-3% dân số thế giới, đặc trưng bởi
trong huyết thanh giữa nhóm người bình
hiện tượng tăng thấm nhập tế bào viêm, tăng
thường và những bệnh nhân vảy nến mảng, vảy
sinh lớp thượng bì và dãn các vi mao mạch(13).
nến khớp và vảy nến đỏ da toàn thân điều trị tại
Mặc dù còn nhiều vấn đề chưa được hiểu rõ
bệnh viện Da Liễu Tp HCM.
trong cơ chế bệnh sinh của bệnh vảy nến, nhưng
- Khảo sát mối liên quan giữa nồng độ IFN-γ
với tiến bộ của nền y học trong thời gian gần đây
trong huyết thanh và thời gian mắc bệnh, chỉ số
đã chỉ ra vai trò quan trọng của cytokine và
PASI, độ nặng của vảy nến khớp, tuổi khởi phát
những yếu tố phát triển(4).
của bệnh vảy nến điều trị tại bệnh viện Da Liễu
Trong số các cytokine, Interferon Gamma

Tp HCM.
(IFN-γ) – một cytokine có nguồn gốc từ tế bào T
ĐỐI TƯỢNG-PHƯƠNGPHÁP NGHIÊNCỨU
giúp nhóm 1 (TH1), một yếu tố điều hòa miễn
dịch quan trọng và đóng vai trò rất lớn trong
Thiết kế nghiên cứu
sinh bệnh học của bệnh vảy nến.
Cắt ngang phân tích.
Tuy nhiên, tại Việt Nam nói chung và tại Tp
Hồ Chí Minh nói riêng, hiện nay có rất ít nghiên
cứu về nồng độ cytokine trong huyết thanh của
bệnh nhân vảy nến. Do đó, chúng tôi thực hiện
nghiên cứu này với mục tiêu nhằm định lượng
nồng độ IFN-γ trong huyết thanh bệnh nhân vảy
nến mảng, vảy nến khớp, vảy nến đỏ da toàn
thân. Đồng thời, chúng tôi cũng xác định mối
liên quan giữa nồng độ IFN-γ huyết thanh và độ
nặng của bệnh cũng như các dạng lâm sàng của
bệnh vảy nến.

Mục tiêu nghiên cứu
- Định lượng nồng độ IFN-γ trong huyết
thanh của bệnh nhân vảy nến mảng, vảy nến

Chuyên Đề Nội Khoa I

Đối tượng nghiên cứu
62 bệnh nhân vảy nến mảng, vảy nến khớp
và vảy nến đỏ da toàn thân điều trị tại bệnh viện
Da liễu Tp.HCM từ ngày 01//2011 đến 07/2011 đã

được chọn vào nghiên cứu.

Tiêu chuẩn chọn mẫu
Nhóm bệnh nhân vảy nến
Tiêu chuẩn chọn mẫu
- Bệnh nhân vảy nến mảng, vảy nến khớp,
đỏ da toàn thân do vảy nến được điều trị tại
bệnh viện Da liễu TPHCM từ 01/2011 đến
07/2011.

- Tuổi > = 18.
365


Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 1 * 2013

- Bệnh nhân đồng ý tham gia nghiên cứu.
Tiêu chuẩn loại trừ

sau khi nhịn đói ít nhất 8 giờ và được gởi đi bệnh
viện Chợ Rẫy Tp.HCM.

- Bệnh nhân đã điều trị thuốc đặc hiệu theo
đường toàn thân trong vòng 2 tháng trước nhập
viện.

- Tất cả những bệnh nhân có kết quả xét
nghiệm thường qui bất thường thuộc tiêu chuẩn

loại trừ bệnh đều bị loại khỏi nghiên cứu.

- Bệnh nhân đã điều trị thuốc đặc hiệu theo
đường thoa tại chỗ trong vòng 2 tuần trước nhập
viện.

Nhóm người bình thường
- Những người bình thường khỏe mạnh
được chọn từ các nhân viên, học viên tại bệnh
viện Da Liễu và thân nhân của những người tình
nguyện này.

- Bệnh nhân mắc các bệnh nhiễm trùng cấp
tính hoặc mạn tính (viêm gan siêu vi...), bệnh
mạn tính (xơ gan, ung thư…), rối loạn chuyển
hóa (béo phì, tiểu đường...).
- Bệnh nhân thuộc những thể vảy nến khác:
vảy nến giọt, vảy nến mủ, vảy nến trẻ em…

Nhóm người bình thường
- Đồng ý tham gia nghiên cứu.
- Những người khỏe mạnh hiện tại không
mắc các bệnh: nhiễm trùng cấp tính hoặc mạn
tính, bệnh nội khoa mạn tính (xơ gan, ung
thư…), rối loạn chuyển hóa (béo phì, tiểu
đường...) hoặc có người nhà thuộc quan hệ huyết
thống mắc bệnh vảy nến.

- Qui trình thực hiện xét nghiệm IFN-γ
tương tự như những bệnh nhân vảy nến.


KẾT QUẢ
Đặc điểm chung của đối tượng nghiên cứu
Bảng 1: Một số đặc điểm dịch tễ của các đối tượng
nghiên cứu
Đặc điểm
Tuổi (trung bình)
Giới(%)
Nữ
Nam

Nhóm vảy Nhóm bình Giá trị p
nến (N=62) thường (N=40)
43,5±13,2
41,3±13,7
0,410
45
55

45
55

0,897

- Có độ tuổi và giới tính tương đồng với
nhóm bệnh nhân vảy nến.

Nhận xét: tuổi trung bình của nhóm vảy nến
là 43,5±13,2, của nhóm bình thường là 41,3±13,7.
Tỉ lệ giới nữ là 45% và nam là 55% ở cả 2 nhóm.


Phương pháp chọn mẫu

Một số đặc điểm lâm sàng của nhóm vảy nến

Liên tục thuận tiện.

Phân tích số liệu
Dữ liệu được xử lý bằng phần mềm STATA
9.0.

Cách tiến hành nghiên cứu
Nhóm bệnh nhân vảy nến
- Mỗi bệnh nhân được hỏi kỹ bệnh sử và
thăm khám lâm sàng, ghi nhận tất cả các yếu tố
liên quan vào phiếu thu thập thông tin.
- Bệnh nhân sẽ được lấy máu làm xét nghiệm
IFN-γ và các xét nghiệm thông thường khác:
sinh hóa máu (đường huyết, creatinine máu,
SGOT, SGPT, GGT, lipid máu, công thức máu,
VS, tổng phân tích nước tiểu).
- Mẫu máu làm xét nghiệm IFN-γ được lấy

366

Thời gian bệnh và tuổi khởi phát bệnh
Thời gian bệnh trung bình l 12,1+8,6 năm,
trong đó, bệnh nhân mắc bệnh kéo dài ít nhất là
1 năm, nhiều nhất là 39 năm.Tuổi khởi bệnh
trung bình l 31,2+11,4 tuổi. 55% bệnh nhân khởi

phát sớm trước 30 tuổi.
Phân loại lâm sàng
Bảng 2: Phân bố các dạng lâm sàng của nhóm vảy
nến
Dạng lâm sàng
Vảy nến mảng
Vảy nến khớp
Đỏ da toàn thân vảy nến
Tổng cộng

Nữ Nam Tổng cộng Tỉ lệ(%)
15 17
32
52
4
6
10
16
9
11
20
32
28 34
62
100

Nhận xét: vảy nến mảng chiếm tỉ lệ cao nhất
với 52%, thứ 2 là đỏ da toàn thân do vảy nến với

Chuyên Đề Nội Khoa



Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 1 * 2013
tỉ lệ 32% và cuối cùng là vảy nến khớp 16%.

Đặc điểm tổn thương khớp
Bảng 3: Tỉ lệ các loại tổn thương khớp của bệnh nhân
vảy nến
Tổn thương khớp
Khớp ngoại biên
Khớp trục và khớp ngoại biên
Tổng cộng

Số bệnh nhân
3
7
10

Tỉ lệ (%)
30
70
100

Nhận xét: có 30% bệnh nhân chỉ tổn thương
khớp ngoại biên, có 70% bệnh nhân vừa tổn
thương khớp trục và khớp ngoại biên.

Chỉ số PASI
Bảng 4: Đặc điểm chỉ số PASI ở nhóm bệnh nhân vảy nến
PASI

Trung bình

Vảy nến mảng
(N=32)
21,98 ± 9,83

Vảy nến khớp
(N=10)
23,68 ± 9,58

Thấp nhất
Cao nhất

5,6
44,5

14,3
45

p
0,63

Nhận xét: chỉ số PASI của nhóm vảy nến
mảng là 21,98 ± 9,83 pg/ml, của nhóm vảy nến
khớp là 23,68 ± 9,58 pg/ml. Tuy nhiên sự khác
biệt này không có ý nghĩa thống kê.

Nồng độ IFN-γ
Sự khác biệt về nồng độ IFN-γ huyết thanh ở
bệnh nhân vảy nến và nhóm người bình thường

Bảng 5: Sự khác biệt về nồng độ IFN-γ huyết thanh ở
bệnh nhân vảy nến và nhóm người bình thường
Đặc điểm
Nồng độ IFN- γ
(pg/ml)

Nhóm vảy
Nhóm bình Giá trị p
nến (N=62) thường (N=40)
11,24±6,94
1,29±0,76
<0,001
(9,48-13,00)
(1,05-1,53)

Cao nhất
Thấp nhất

27,44
0,51

3,14
0,15

Nhận xét: nồng độ IFN-γ của nhóm vảy
nến là 11,24 pg/ml cao hơn nhóm bình thường
1,29pg/ml có ý nghĩa thống kê với p<0,001.

Sự khác biệt về nồng độ IFN-γ huyết thanh
theo phân loại lâm sàng trong nhóm bệnh

nhân vảy nến
Bảng 6: Sự khác biệt về nồng độ IFN-γ huyết thanh
theo phân loại lâm sàng trong nhóm bệnh nhân vảy nến
Phân loại lâm sàng
Vảy nến mảng
Vảy nến khớp

TB± ĐLC
9,76±5,84
10,86±5,79

Chuyên Đề Nội Khoa I

KTC 95%
7,65-11,86
6,72-15,01

P
0,12

Phân loại lâm sàng
Đỏ da toàn thân

Nghiên cứu Y học
TB± ĐLC
13,80±8,51

KTC 95%
9,82-17,78


P

Nhận xét: nồng độ IFN-γ huyết thanh cao
nhất ở nhóm bệnh nhân đỏ da toàn thân. Sự
khác biệt không có ý nghĩa thống kê (p=0,12)
giữa những nhóm này.

Sự khác biệt về nồng độ IFN-γ huyết thanh ở
từng dạng lâm sàng trong nhóm bệnh nhân
vảy nến so với nhóm người bình thường
Bảng 7: Sự khác biệt về nồng độ IFN-γ huyết thanh ở
từng dạng lâm sàng trong nhóm bệnh nhân vảy nến
so với nhóm người bình thường
Nhóm bình thường

Vảy nến
mảng
p<0,001

Vảy nến
khớp
P<0,001

Đỏ da
toàn thân
p<0,001

Nhận xét: nồng độ IFN- γ huyết thanh của
từng dạng lâm sàng trong nhóm bệnh nhân vảy
nến đều cao hơn nhóm bình thường và sự khác

biệt này có ý nghĩa thống kê với p<0,001.

Mối liên quan giữa nồng độ IFN- γ huyết
thanh với độ nặng của vảy nến khớp và
tuổi khởi phát của bệnh
Bảng 8: Mối liên quan giữa nồng độ IFN- huyết
thanh với độ nặng của vảy nến khớp và tuổi khởi phát
của bệnh
Đặc điểm

IFN- γ(pg/ml)
TB ±ĐLC KTC 95%

Tổn thương khớp
Khớp ngoại biên
Khớp ngoại biên và khớp trục
Khởi phát bệnh: Sớm
Muộn

9,29±0,79
12,68±7,74
10,20±6,73
12,50±7,10

P

7,33-11,25 0,60
5,53-19,83
7,85-12,55 0,19
9,75-12,25


Nhận xét: không có sự khác biệt có ý nghĩa
thống kê của nồng độ IFN-γ huyết thanh giữa 2
nhóm bệnh nhân tổn thương khớp cũng như
giữa 2 nhóm bệnh nhân khởi phát sớm và muộn.

Mối tương quan giữa nồng độ IFN- γ huyết
thanh với thời gian mắc bệnh và chỉ số
PASI của bệnh vảy nến
Bảng 9: Mối tương quan giữa nồng độ IFN- huyết
thanh với thời gian mắc bệnh và chỉ số PASI của bệnh
vảy nến
Đặc điểm
Thời gian bệnh

Giá trị thống kê
R

IFN-γ
0,15

367


Nghiên cứu Y học
Đặc điểm
PASI

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 1 * 2013
Giá trị thống kê

p
R
p

IFN-γ
0,25
0,51
<0,001

Nhận xét: không có mối tương quan tuyến
tính giữa nồng độ IFN-γ và thời gian mắc
bệnh nhưng có mối tương quan tuyến tính với
chỉ số PASI.
Mối tương quan giữa nồng độ IFN-γ và chỉ
số PASI được thể hiện qua phương trình hồi qui
tuyến tính:
Y= 0,30X + 3,24

BÀN LUẬN
Chỉ số IFN-γ huyết thanh ở nhóm bình
thường khỏe mạnh của chúng tôi đã là 1,29 ±
0,76 pg/ml. Kết quả này tương tự nghiên cứu
của Phan Thị Danh thực hiện trên 47 người
tình nguyện khỏe mạnh tại bệnh viện Chợ Rẫy
năm 2009 là 1,0 ± 2,0 pg/ml(11). Đồng thời,
chúng tôi cũng đo được nồng độ IFN-γ huyết
thanh của 62 bệnh nhân vảy nến là 11,24 ± 6,94
pg/ml cao hơn có ý nghĩa thống kê so với
nhóm bình thường. Kết quả này tương tự một
số nghiên cứu khác như của Abdallah thực

hiện năm 2009 trên 21 bệnh nhân(1), của tác giả
Chodorowska ở Ba Lan(3), của Takahashi ở
Nhật(13), của tác giả Arican và cộng sự(2), của
Szegedi(12) và tác giả Jacob thực hiện trên 12
bệnh nhân ở Mỹ(7). Tuy nhiên một nghiên cứu
của tác giả Gomi dù tìm thấy nồng độ IFN-γ
huyết thanh ở nhóm vảy nến cao hơn nhóm
bình thường có ý nghĩa nhưng không trình
bày được trung bình ± độ lệch chuẩn của nồng
độ IFN-γ huyết thanh ở cả 2 nhóm(5). Nhờ kĩ
thuật xét nghiệm hóa quang miễn dịch với độ
nhạy rất cao mà chúng tôi có thể phát hiện
IFN-γ trong huyết thanh 100% các trường hợp.
Khác với Gomi và cộng sự sử dụng kĩ thuật
RIA (radioimmunoassay) với ngưỡng 0,8
pg/mL nên chỉ đo được nồng độ IFN-γ huyết
thanh của 2 trong 21 người bình thường và
của 10 trong 21 bệnh nhân vảy nến tham gia
nghiên cứu(5).

368

Khi so sánh nồng độ IFN- γ huyết thanh
của 3 dạng lâm sàng trong nhóm bệnh nhân
vảy nến, mặc dù chúng tôi ghi nhận được
nồng độ của nhóm đỏ da toàn thân do vảy nến
cao hơn nhóm vảy nến khớp và cao hơn nhóm
vảy nến mảng nhưng sự khác biệt này không
có ý nghĩa thống kê.
Kết quả này trái với mong đợi ban đầu của

chúng tôi rằng từng dạng lâm sàng có biểu
hiện lâm sàng và diễn tiến khác nhau: vảy nến
mảng thường diễn tiến mạn tính trong khi vảy
nến khớp và vảy nến đỏ da toàn thân là những
thể bệnh nặng, có tổn thương viêm hệ thống
nhiều hơn, vì vậy nồng độ IFN- γ huyết thanh
sẽ tăng cao hơn. Điều này có thể do cỡ mẫu
của chúng tôi không đủ, trong tương lai cần
thực hiện với số lượng bệnh nhân lớn hơn để
có kết luận chính xác.
Nghiên cứu của chúng tôi cho thấy nồng độ
IFN- γ huyết thanh của nhóm vảy nến mảng cao
hơn nhóm bình thường có ý nghĩa thống kê
(p<0,001). Kết quả này tương tự nghiên cứu của
tác giả Abdallah trên 21 bệnh nhân vảy nến
(p<0,05)(1).
Một nghiên cứu khác của tác giả Gomi và
cộng sự được thực hiện trên 21 bệnh nhân vảy
nến mảng và 21 người bình thường cũng ghi
nhận nồng độ IFN- γ huyết thanh ở nhóm bệnh
cao hơn nhóm chứng có ý nghĩa thống kê(5).
Thêm nữa, tác giả Arican đã tiến hành đo nồng
độ này ở 30 bệnh nhân vảy nến mảng và 23
người tình nguyện khỏe mạnh tại Thổ Nhĩ Kỳ
cũng ghi nhận sự khác biệt giữa nồng độ IFN- γ
huyết thanh giữa 2 nhóm này (p<0,05)(8).
Nhiều nghiên cứu trước nay đã chứng minh
vai trò quan trọng của IFN- γ trong cơ chế sinh
bệnh học của vảy nến. Kết quả nghiên cứu của
chúng tôi cũng ủng hộ giả thuyết IFN- γ đóng

vai trò quan trọng trong hệ thống cytokine dẫn
đến sự phát triển và duy trì của quá trình viêm
trong bệnh vảy nến (3). Các cytokine hoạt động
tương tác lẫn nhau, trong đó, IFN- γ là một trong
những cytokine đóng vai trò trung tâm. Nó kích

Chuyên Đề Nội Khoa


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 1 * 2013
thích sự giải phóng các cytokine như IL-1, IL-8,
TNF-α, các hóa chất trung gian của phản ứng
viêm. Hơn nữa, IFN- γ còn có khả năng bộc lộ
phân tử kết dính tế bào 1 (ICAM-1) và HLA-DR,
vì thế điều hòa tác động giữa tế bào T viêm và tế
bào sừng, tạo điều kiện thuận lợi cho sự di
chuyển tế bào T đến sang thương da(9,10).
Tương tự, chúng tôi cũng tìm thấy sự khác
biệt có ý nghĩa thống kê khi so sánh nồng độ
IFN- γ huyết thanh của nhóm vảy nến khớp và
nhóm người bình thường (p<0,001). Chúng tôi
không tìm thấy 1 tài liệu nào trước đó nghiên
cứu về định lượng nồng độ chất này trong huyết
thanh nên chúng tôi không thể tiến hành so sánh
với các nghiên cứu khác. Chủ yếu những nghiên
cứu đã thực hiện đều định lượng nồng độ IFN- γ
trong da, dịch khớp viêm của bệnh nhân vảy nến
khớp và đều ghi nhận có sự tăng cao của nồng
độ chất này. Như vậy, IFN- γ không chỉ tăng
trong huyết thanh bệnh nhân vảy nến mà còn

tăng mô đích (da, dịch khớp) chính là bằng
chứng rõ ràng và thuyết phục trong việc lí giải
vai trò của chất này trong sinh bệnh học. Mặc dù
rất muốn đo IFN- γ tại mô đích nhưng chúng tôi
chưa thể thực hiện được vì tại Việt Nam hiện tại
chưa thể thực hiện các xét nghiệm cytokine lấy
từ các bệnh phẩm khác (da, dịch khớp). Vì vậy,
trong tương lai chúng tôi hi vọng sẽ có nhiều
nghiên cứu tiến hành khảo sát nồng độ IFN- γ
không chỉ trong huyết thanh mà còn trong
những mẫu bệnh phẩm khác để có cái nhìn toàn
diện hơn về sinh bệnh học của vảy nến.
Đỏ da toàn thân do vảy nến là một dạng lâm
sàng nặng và cũng rất thường gặp, là một thách
thức điều trị đối với các bác sĩ lâm sàng. Trong
nghiên cứu của chúng tôi, đỏ da toàn thân do
vảy nến có nồng độ IFN- γ huyết thanh cao nhất
so với vảy nến mảng, vảy nến khớp (mặc dù
không có ý nghĩa thống kê) và cao hơn nhóm
bình thường với p<0,001. Kết quả này cũng
tương tự nghiên cứu của Abdallah và cộng sự
thực hiện năm 2009 trên 21 bệnh nhân vảy nến
và 15 người bình thường (p<0,05)(1). Điều này có
thể giải thích do đỏ da toàn thân do vảy nến là

Chuyên Đề Nội Khoa I

Nghiên cứu Y học

một thể bệnh nặng với phản ứng viêm cấp tính

toàn thân biểu hiện bởi sang thương da lan tỏa.
Tuy nhiên đây cũng chỉ là nghiên cứu hiếm hoi
so sánh nồng độ IFN- γ huyết thanh đỏ da toàn
thân do vảy nến với các dạng lâm sàng khác và
người bình thường. Chúng tôi không tìm được
nghiên cứu nào khảo sát nồng độ huyết thanh
cho riêng những trường hợp đỏ da toàn thân do
vảy nến. Với kết quả này chúng tôi hi vọng mở
ra một hướng nghiên cứu mới sâu hơn về thể
bệnh đỏ da toàn thân do vảy nến, từ đó hiểu
thêm hơn về cơ chế bệnh và tìm ra những
phương pháp điều trị hiệu quả.
Nhiều nghiên cứu cho thấy những bệnh
nhân khởi phát bệnh sớm trước 30 tuổi thường
có biểu hiện lâm sàng nặng, dai dẳng, diễn biến
phức tạp hơn và tổn thương móng nhiều (8). Điều
đó gợi mở cho nghiên cứu của chúng tôi rằng kết
quả nồng độ IFN- γ huyết thanh của nhóm bệnh
nhân vảy nến khởi phát sớm (<30 tuổi) sẽ cao
hơn so với nhóm khởi phát muộn (>30 tuổi).
Tuy nhiên, chúng tôi không tìm thấy sự khác
biệt có ý nghĩa thống kê giữa nồng độ IFN- γ
huyết thanh của 2 nhóm này (p=0,19). Theo hiểu
biết của chúng tôi cũng chưa có nghiên cứu nào
trên thế giới thực hiện so sánh nồng độ IFN- γ
huyết thanh của 2 nhóm này nên chúng tôi
không có dữ liệu để đối chiếu.
Trong vảy nến khớp, tổn thương khớp trục
là 1 dấu hiệu nặng của bệnh. Vì thế, chúng tôi
tiến hành so sánh nồng độ IFN- γ huyết thanh

trung bình giữa 2 nhóm bệnh nhân có tổn
thương khớp ngoại biên đơn thuần và những
bệnh nhân vừa tổn thương khớp trục và khớp
ngoại biên. Chúng tôi nhận thấy không có sự
khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa 2 nhóm về
nồng độ IFN- γ huyết thanh (p = 0,60). Chúng
tôi không tìm thấy bất cứ tài liệu nào trước đó
ghi nhận về vấn đề này nên không tiến hành
so sánh kết quả của chúng tôi với những
nghiên cứu khác.
Tuy nhiên, vì số lượng bệnh nhân vảy nến
khớp trong nghiên cứu của chúng tôi tương

369


Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 1 * 2013

đối ít, chỉ có 10 bệnh nhân nên kết quả đưa ra
còn hạn chế. Do đó, cần có những nghiên cứu
mở rộng hơn về số lượng bệnh nhân, đồng
thời định lượng nồng độ các cytokine trong
mô đích (da, khớp) và định lượng nhiều
cytokine cùng lúc sẽ cung cấp các thông tin
hữu ích về mạng lưới tương tác của các
cytokine ở hai nhóm bệnh nhân tổn thương
khớp ngoại biên đơn thuần và nhóm vừa tổn
thương khớp trục và khớp ngoại biên.

Vảy nến là một bệnh lý mạn tính kéo dài
nhiều năm. Thời gian bệnh càng lâu, các rối loạn
về miễn dịch càng gây ra những tác động và hậu
quả nặng nề. Vì vậy, chúng tôi đã tiến hành tìm
mối tương quan giữa nồng độ IFN-γ huyết
thanh với thời gian mắc bệnh của nhóm bệnh
nhân vảy nến. Kết quả chúng tôi ghi nhận không
có sự tương quan giữa nồng độ IFN-γ huyết
thanh và thời gian mắc bệnh (hệ số tương quan
R = 0,15, p = 0,25).
Chỉ số PASI là một thang điểm để đánh giá
độ nặng lâm sàng của bệnh vảy nến phổ biến
trên thế giới. Ngày nay, với tiến bộ của khoa học
đã cho phép chúng ta định lượng được nồng độ
của các cytokine, trong đó có IFN-γ và có thể sử
dụng nó như một yếu tố không chỉ đánh giá độ
nặng của bệnh, tiên lượng bệnh mà còn đánh giá
hiệu quả điều trị (1). Tác giả Hong và cộng sự cho
rằng IFN-γ chủ yếu liên quan tới việc độ nặng
của bệnh do làm tăng sinh tế bào sừng, trong khi
đó bệnh vảy nến kéo dài là do IL-12 (6). Trong
nghiên cứu này, chúng tôi đã tìm ra mối tương
quan mạnh giữa nồng độ IFN-γ huyết thanh và
chỉ số PASI (r=0,51, p<0,001). Tương tự, nghiên
cứu của tác giả Abdallah và cộng sự cũng ghi
nhận mối tương quan này với r=0,56, p<0,1(1) hay
nghiên cứu của tác giả Takahashi trên một cỡ
mẫu lớn 122 bệnh nhân vảy nến ở Nhật (r=0,475,
p=0,001)(13). Một nghiên cứu khác của Jacob cũng
có tìm thấy mối tương quan giữa nồng độ IFN-γ

huyết thanh và độ nặng của bệnh. Không chỉ
vậy, tác giả còn tìm mối tương quan có ý nghĩa
thống kê (p<0,05) giữa nồng độ IFN-γ huyết
thanh với từng yếu tố cụ thể như: diện tích sang

370

thương (r=0,64), độ dày (r=0,62), hồng ban (r=0,7)
và vảy (r=0,67) (7). Một tác giả khác là Arican
cũng tìm được mối tương quan rất mạnh giữa
nồng độ IFN-γ huyết thanh và chỉ số PASI với
r=0,89 và p=0,00(2). Ngược lại, tác giả
Chodorowska lại không tìm thấy mối tương
quan có ý nghĩa thống kê giữa hai yếu tố này
(p=0,08)(3) và tác giả Gomi cũng ghi nhận kết quả
tương tự(5). Điều này có thể do cỡ mẫu của chúng
tôi lớn hơn nên dễ dàng tìm thấy mối tương
quan có ý nghĩa thống kê hơn. Hơn nữa, nhờ kĩ
thuật xét nghiệm hóa quang miễn dịch với độ
nhạy rất cao mà chúng tôi có thể phát hiện IFN-γ
trong huyết thanh 100% các trường hợp. Khác
với Gomi và cộng sự sử dụng kĩ thuật RIA
(radioimmunoassay) với ngưỡng 0,8 pg/mL nên
chỉ đo được nồng độ IFN-γ huyết thanh của
9,5% người bình thường và của 47,6% bệnh nhân
vảy nến tham gia nghiên cứu nên kết quả nghiên
cứu của chúng tôi chính xác và đáng tin cậy hơn.

KẾT LUẬN
Nghiên cứu của chúng tôi cũng đã định

lượng được nồng độ IFN-γ huyết thanh ở
nhóm vảy nến là 11,24 ± 6,94 pg/ml và nồng độ
IFN-γ huyết thanh ở nhóm bình thường là 1,29
± 0,76 pg/ml.
Cụ thể, nồng độ IFN-γ huyết thanh từng
dạng lâm sàng như sau:
- Nhóm đỏ da toàn thân do vảy nến: 13,80 ±
8,51pg/ml.
- Nhóm vảy nến khớp: 10,86 ± 5,79pg/ml.
- Nhóm bệnh nhân vảy nến mảng: 9,76 ±
5,84pg/ml.
* Tất cả nồng độ IFN-γ huyết thanh của
nhóm vảy nến nói chung và của từng dạng lâm
sàng nói riêng đều cao hơn nhóm bình thường
một cách có ý nghĩa thống kê với p<0,001.
Tuy nhiên chúng tôi không tìm thấy sự khác
biệt có ý nghĩa thống kê về nồng độ IFN- γ huyết
thanh giữa các dạng lâm sàng của bệnh vảy nến.
* Kết quả nghiên cứu của chúng tôi cũng
không tìm thấy mối liên quan giữa nồng độ IFN-

Chuyên Đề Nội Khoa


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 1 * 2013
γ với độ nặng của bệnh vảy nến khớp (p=0,60)
hay với tuổi khởi phát bệnh sớm <30 tuổi hay
muộn >30 tuổi (p=0,19).
Đáng chú ý, chúng tôi tìm thấy mối tương
quan mạnh giữa nồng độ IFN-γ huyết thanh với

chỉ số PASI của bệnh vảy nến (r=0,51, p<0,001) và
mối tương quan này được thể hiện qua phương
trình Y = 0,30X + 3,24. Ngược lại, chúng tôi
không tìm thấy mối tương quan giữa nồng độ
IFN- γ huyết thanh với thời gian mắc bệnh.
Hiện nay trên thế giới hoàn toàn chưa có một
xét nghiệm nào hỗ trợ đánh giá độ nặng lâm
sàng của vảy nến. Do đó, việc định lượng IFN- γ
và có giá trị thực hành lâm sàng khá cao do nồng
độ IFN- γ huyết thanh có liên quan đến mức độ
nặng của bệnh. Vì vậy, nồng độ IFN- γ huyết
thanh có thể được khuyến cáo sử dụng như một
phương tiện hỗ trợ trong việc đánh giá độ nặng
của bệnh.
Chúng tôi hi vọng rằng nghiên cứu này sẽ
tạo tiền đề cho những nghiên cứu lớn hơn,
chuyên sâu hơn về cytokine trong bệnh vảy nến
trong tương lai. Cụ thể, cần có những nghiên
cứu lớn hơn về cỡ mẫu, theo dõi nồng độ IFN-γ
huyết thanh trước và sau quá trình điều trị,
không chỉ định lượng nồng độ IFN-γ huyết
thanh mà còn định lượng nồng độ IFN-γ trong
mô đích như da, khớp cũng như định lượng
cùng lúc nhiều loại cytokine để xem mối tương
tác của chúng, giúp chúng ta hiểu rõ hơn về
mạng lưới sinh bệnh học miễn dịch phức tạp
trong bệnh vảy nến và có cái nhìn toàn diện hơn
về bệnh vảy nến.
Ngoài ra, nhận thấy vai trò trung tâm của
IFN-γ trong sinh bệnh học của vảy nến, chúng

tôi mong sẽ có những nghiên cứu đi sâu vào
phát triển liệu pháp sinh học thuốc kháng IFN-γ,

Chuyên Đề Nội Khoa I

Nghiên cứu Y học

mở ra những cơ hội mới cho bệnh nhân vảy nến
trong một ngày không xa.

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.

2.

3.

4.
5.

6.

7.

8.

9.

10.


11.

12.

13.

Abdallah MA, Abdel-Hamid MF, Kotb AM, Mabrouk EA
(2009), "Serum Interferon gamma is a psoriasis severity and
prognostic marker". Cutis, 84(3): 163-168.
Arican O, Aral M, Sasmaz S, Ciragil P (2005), "Serum levels of
TNF-alpha, IFN-gamma, IL-6, IL-8, IL-12, IL-17, and IL-18 in
patients with active psoriasis and correlation with disease
severity". Mediators Inflamm, 2005(5): 273-279.
Chodorowska G (1998), "Plasma concentrations of IFNgamma and TNF-alpha in psoriatic patients before and after
local treatment with dithranol ointment". J Eur Acad Dermatol
Venereol, 10(2): 147-151.
Christophers E (1996), "The immunopathology of psoriasis."
Int Arch Allergy Immunol, 110(3): 199-206.
Gomi T, Shiohara T, Munakata T, Imanishi K, Nagashima M
(1991), "Interleukin 1 alpha, tumor necrosis factor alpha, and
interferon gamma in psoriasis". Arch Dermatol, 127(6): 827830.
Hong K, Chu A, Ludviksson B (1999), "IL-12, independently
of IFN-gamma, plays a crucial role in the pathogenesis of a
murine psoriasis-like skin disorder." J Immunol, 162: 74807491.
Jacob SE, Nassiri M, Kerdel FA, Vincek V (2003),
"Simultaneous measurement of multiple Th1 and Th2 serum
cytokines in psoriasis and correlation with disease severity".
Mediators Inflamm, 12(5): 309-313.
Johann EG, James TE (2009). Psoriasis. In Fitzpatrick’s
Dermatology in general medicine (7 ed., Vol. 1, pp. 169-192).

Mac Grow Hill
Liu Y, Krueger JG, Bowcock AM (2007), "Psoriasis: genetic
associations and immune system changes". Genes Immun,
8(1): 1-12.
Nickoloff JB, Nestle OF (2004), "Recent insights into the
immunopathogenesis of psoriasis provide new therapeutic
opportunities." J Clin Invest, 113(12): 1664-1675.
Phan Thị Danh (2009). Sử dụng kĩ thuật biochip trong xét
nghiệm và ứng dụng lâm sàng cytokine. Khoa Sinh Hóa, Bệnh
viện Chợ Rẫy, Tp Hồ Chí Minh.
Szegedi A, Aleksza M, Gonda A, Irinyi B, Sipka S (2003),
"Elevated rate of Thelper1 (T(H)1) lymphocytes and serum
IFN-gamma levels in psoriatic patients". Immunol Lett, 86(3):
277-280.
Takahashi H, Tsuji H, Hashimoto Y, Ishida-Yamamoto A,
Iizuka H (2009), "Serum cytokines and growth factor levels in
Japanese patients with psoriasis". Clin Exp Dermatol, 35(6):
645-649.

371



×