Tải bản đầy đủ (.pdf) (6 trang)

Đánh giá hiệu quả của kỹ thuật làm tắc động mạch phế quản trong điều trị ho ra máu nặng hoặc tái phát tại Bệnh viện Nhân dân Gia định

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (430.86 KB, 6 trang )

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Số 6 * 2013

Nghiên cứu Y học 

ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ CỦA KỸ THUẬT LÀM TẮC ĐỘNG MẠCH  
PHẾ QUẢN TRONG ĐIỀU TRỊ HO RA MÁU NẶNG HOẶC TÁI PHÁT  
TẠI BỆNH VIỆN NHÂN DÂN GIA ĐỊNH 
Dương Anh Phượng*, Lê Thị Kim Chi*, Hà Thị Bạch Tuyết*, Nguyễn Bảo Trung*, Lê Thị Thu Hương* 

TÓM TẮT 
Cơ  sở  thực  hiện  nghiên  cứu: Trong các biện pháp điều trị ho ra máu (HRM) nặng hoặc tái phát thì tắc 
động mạch (ĐM) phế quản (bronchial artery embolisation: BAE) là biện pháp cầm máu an toàn và hữu hiệu, đã 
được thực hiện nhiều nơi. Bệnh viện Nhân Dân Gia Định (BV NDGĐ) đã thành lập đơn vị DSA nhưng cho đến 
nay chưa có tổng kết nào để đánh giá ưu nhược điểm cũng như vai trò điều trị của phương pháp này. 
Mục tiêu: Đánh giá hiệu quả của phương pháp làm tắc ĐM phế quản trong điều trị HRM nặng hoặc tái 
phát tại BV NDGĐ. 
Phương pháp: Nghiên cứu mô tả, tiền cứu và hồi cứu ở tất cả bệnh nhân HRM có chỉ định can thiệp làm 
tắc ĐM phế quản. 
Kết quả: 48 BN được chụp mạch số hóa xóa nền (DSA) với hình ảnh tăng sinh mạch máu (62,5%) và dãn 
mạch (25%). Hiệu quả cầm máu tức thời khá cao 93,8% và tỉ lệ tái phát chấp nhận được(24,4%).Biến chứng 
thường gặp sau thủ thuật là sốt nhưng tự giới hạn. Hai trường hợp tử vong do viêm phổi và 1 trường hợp tử 
vong do HRM nặng không can thiệp được. 
Kết luận: BAE kiểm soát cầm máu tức thời và lâu dài ở những trường hợp HRM nặng hoặc tái phát, ngày 
càng được lựa chọn vì tính an toàn và hiệu quả cao. 
Từ khóa: Ho ra máu, tắc động mạch phế quản. 

ABSTRACT 
EVALUATE THE EFFECTIVENESS OF BRONCHIAL ARTERY EMBOLIZATION  
IN THE TREATMENT OF SEVERE OR RECURRENT HEMOPTYSIS  
AT NHAN DAN GIA DINH HOSPITAL 
Dương Anh Phuong, Le Thi Kim Chi, Ha Thi Bach Tuyet, Nguyen Bao Trung, Le Thi Thu Huong  


* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 17 ‐ No 6 ‐ 2013: 88 ‐ 93 
Background: Bronchial artery embolization (BAE) is one of the most effective and least complicated method 
in control of severe or recurrent hemoptysis. At Nhân Dân Gia Dinh Hospital, the DSA unit has been established 
since 2009. However, so far no research has been performed to evaluate advantages, disadvantages and the role of 
this method of treatment. 
Objectives: Evaluate the effectiveness of BAE in treatment of severe or recurrent hemoptysis in Nhan Dan 
Gia Dinh Hospital. 
Method: Descriptive study, pro and retrospective; all patients with hemoptysis admitted to Nhan Dan Gia 
Dinh Hospital and indicated intervention BAE . 
Results: a total of 48 patients with severe or recurrent hemoptysis admitted to Nhân Dân Gia Định Hospital 
and  indicated  intervention  BAE  were  recruited.  Angiographic  findings  indicating  embolization  of  the  affected 
* Khoa Nội hô hấp - Bệnh viện Nhân Dân Gia Định
Tác giả liên lạc: BS. Dương Anh Phượng, ĐT : 0908.146.744

88

Email :

Hội Nghị Khoa Học Công Nghệ BV. Nhân Dân Gia Định năm 2013  


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Số 6 * 2013 

Nghiên cứu Y học

vessel include: hypervascularity (62.5%) and enlarged bronchial arteries (25%). Immediately success rate of BAE 
was  93.8%  and  recurrent  rate  was  24.4%.  The  most  common  complication  is  fever  for  1‐8  days  after  the 
procedure and regress. Two of them died from massive hemoptysis. 
Conclusion: BAE may result in long‐term as well as immediate control of sever or recurrent hemoptysis. 
This method is a safe, simple procedure and not exposed to any significant complication. 

Key words: Hemoptysis, bronchial artery embolization 
HRM lượng nhiều tức thời (77%) cũng như lâu 
ĐẶT VẤN ĐỀ  
dài nhưng  biến  chứng  này  cũng  không  thường 
Ho ra máu (HRM) là một trong những lý do 
gặp(7)..  Do  đó  BAE  tỏ  ra  là  lựa  chọn  tốt  trong 
nhập  viện  thường  gặp  ở  khoa  Nội  Hô  Hấp. 
trường hợp HRM lượng nhiều. 
Nguyên  nhân  thường  gặp  nhất  là  do  lao,  dãn 
Đơn  vị  Can  thiệp  mạch  máu  ngoài  mạch 
phế quản. Tử vong trong đa số các trường hợp 
vành  tại  BV  NDGĐ  được  thành  lập  từ  tháng 
là  thứ  phát  vì  ngạt  do  hít  sặc  nhiều  hơn  là  do 
8/2009  đã  can  thiệp  nhiều  trường  hợp  HRM 
xuất huyết. Hướng xử trí thông thường là điều 
nặng  bằng  phương  pháp  tắc  ĐM  phế  quản  có 
trị bảo tồn hoặc điều trị ngoại khoa. Trong phần 
chọn  lọc,  tuy  nhiên  hiện  nay  chưa  có  tổng  kết 
lớn  các  trường  hợp  HRM,  điều  trị  nội  khoa  là 
nào  để  đánh  giá  ưu  nhược  điểm  cũng  như  vai 
bước xử trí ban đầu. Tuy nhiên điều trị nội khoa 
trò điều trị của phương pháp này. 
chỉ  là  giải  pháp  tình  thế  và  các  thuốc  co  mạch 
Mục tiêu nghiên cứu 
không đủ tác dụng đối với các trường hợp HRM 
nặng, các ĐM phế quản dãn không hồi phục. Đa 
Mục tiêu tổng quát 
phần các BN ho ra máu lượng nhiều không phải 
Đánh giá hiệu quả của phương pháp làm tắc 
là  đối  tượng  tốt  cho  phẫu  thuật  vì  dung  tích 

ĐM phế quản trong điều trị HRM nặng hoặc tái 
phổi kém và có nhiều bệnh đi kèm(9,8), trong khi 
phát tại BV NDGĐ. 
thực  tế  những  trường  hợp  HRM  nặng  và  tái 
Mục tiêu cụ thể 
phát  cần  được  cầm  máu  nhanh  nhằm  tránh  tử 
Mô  tả  đặc  điểm  lâm  sàng  và  cận  lâm  sàng 
vong, sau đó sẽ có thời gian để điều trị nguyên 
của bệnh nhân HRM. 
nhân. 
Thống  kê  các  biến  chứng  và  tỉ  lệ  cầm  máu 
Các BN ho ra máu điều trị bảo tồn có tỉ lệ tử 
sau can thiệp trong thời gian BN còn nằm viện. 
vong cao ngoài khả năng dự đoán, dao động từ 
50  ‐100%(11).  Tỉ  lệ  tử  vong  ở  nhóm  HRM  lượng 
nhiều được can thiệp phẫu thuật là 7,1– 40%(4),và 
tỉ lệ càng cao khi tiến hành phẫu thuật cấp cứu(3). 
Làm  tắc  ĐM  phế  quản  (bronchial  artery 
embolisation:  BAE)  điều  trị  HRM  được  mô  tả 
đầu tiên vào năm 1973(9,8,10). Tiếp theo sau đó có 
nhiều nghiên cứu nữa nhấn mạnh tính an toàn 
và  hiệu  quả  của  thủ  thuật  này(7,14,4).  Kể  từ  khi 
được mô tả lần đầu, BAE đã trở thành can thiệp 
nội mạch được chấp nhận rộng rãi trong điều trị 
và chuẩn bị tiền phẫu cho các trường hợp HRM 
lượng  nhiều(15,10,14,4).Thủ  thuật  tắc  mạch  có  thể 
cứu  mạng  BN,  có  thể  trì  hoãn  hoặc  thay  thế 
phẫu  thuật,  và  trong  nhiều  trường  hợp  là  điều 
trị  lựa  chọn  hàng  đầu.  BAE  có  thể  kiểm  soát 


Thống  kê  các  biến  chứng  và  tỉ  lệ  cầm  máu 
sau can thiệp ở các thời điểm 1,3 và 6 tháng. 

ĐỐI TƯỢNG – PHƯƠNG PHÁP N GHIÊN CỨU 
Đối tượng nghiên cứu 
Tất  cả  bệnh  nhân  HRM  nặng  hoặc  tái  phát 
nhập BV NDGĐ từ đầu tháng 01/ 2011 đến cuối 
tháng  06/2013  và  có  chỉ  định  can  thiệp  làm  tắc 
ĐM phế quản để cầm máu. 

Phương pháp nghiên cứu 
Mô tả, tiến cứu và hồi cứu 

Tiêu chuẩn chọn bệnh 
Tất cả bệnh nhân HRM nhập BV NDGĐ và 
có  chỉ  định  can  thiệp  làm  tắc  ĐM  phế  quản  để 
cầm máu. 

Hội Nghị Khoa Học Công Nghệ BV. Nhân Dân Gia Định năm 2013  

89


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Số 6 * 2013

Nghiên cứu Y học 
Tiêu chuẩn loại trừ 

KẾT QUẢ 


Những  bệnh  nhân  HRM  và  không  có  chỉ 
định  can  thiệp  BAE  hay  có  chống  chỉ  định  can 
thiệp  BAE  (dị  ứng  thuốc  cản  quang,  suy  thận, 
hẹp ĐM phổi bẩm sinh…). 

Tuổi và giới 

Các định nghĩa 
Không có định nghĩa chính xác về HRM nhẹ 
và trung bình (minor & moderate hemoptysis)  
HRM lượng nhiều: chiếm 5% các trường hợp 
HRM 
HRM trên 300 ml/24 giờ hay 
HRM trên 100 ml/24 giờ / 3 ngày  
hoặc  HRM  với  bất  kì  thể  tích  nào  gây  ảnh 
hưởng huyết động.  
Can  thiệp  thành  công:  khạc  ra  máu  ít  hơn 
100ml trong 24 giờ sau can thiệp(2). . 
Can thiệp thất bại: còn khạc nhiều hơn 100ml 
trong 24 giờ sau can thiệp. 
Các bước tiến hành: 
Thu thập số liệu về lâm sàng dựa trên hồ sơ 
bệnh án lưu trữ tại BV. 
Thực  hiện  các  cận  lâm  sàng  cần  thiết:  xét 
nghiệm  cơ  bản,  đông  máu  toàn  bộ,  ECG, 
Xquang  phổi  thẳng,  MSCT  ngực,  nội  soi  phế 
quản… 
Điều trị nội khoa tích cực. 
Tiến hành can thiệp BAE‐ghi nhận đặc điểm 
tổn  thương  mạch  máu  trên  DSA:  Chích  động 

mạch  đùi  phải  theo  phương  pháp  Seldinger.Sheath: 
5F. Pigtail 5.0F, Cobra 5.0F, Progreat 2.7F. Khảo sát 
động mạch chủ ngực. Chọn lọc động mạch ghi hình 
chẩn đoán. Chọn lọc nhánh tăng sinh độngmạch bơm 
PVA 550 – 710 micron. 
Ghi  nhận  các  biến  chứng  và  hiệu  quả  cầm 
máu tại các thời điểm: ngay sau can thiệp.  
Ghi  nhận  các  biến  chứng  và  hiệu  quả  cầm 
máu tại các thời điểm: sau can thiệp 1,3,6 tháng 
bằng cách điện thoại cho BN hay thân nhân BN 
và dựa vào bệnh án điện tử của BV. 
Các số liệu sẽ được nhập vào máy tính dựa 
trên phần mềm SPSS, phiên bản 16. 

90

Dân số nghiên cứu của chúng tôi có tuổi từ 
16 – 95 (trung bình 57,06 ± 19,45 ), tỉ lệ nam/nữ = 
4,8/1. 

Tình trạng bệnh trước khi can thiệp BAE 
Trong số 48 BN được khảo sát có 4 BN suy 
hô hấp cần phải đặt nội khí quản trước khi tiến 
hành  thủ  thuật  chiếm  tỉ  lệ  8,3  %.  Ngoại  trừ  6 
trường hợp không thu được mẫu do bác sĩ nhận 
bệnh không đánh giá mức độ HRM trong bệnh 
án,  trong  dân  số  nghiên  cứu  còn  lại  tình  trạng 
HRM  lượng  ít  dai  dẳng  chiếm  tỉ  lệ  cao  nhất 
52,4% (n = 22),  HRM lượng trung bình và lượng 
nhiều lần lượt là 19 %( n= 8) và 28,6 % ( n = 12). 


Nội soi phế quản (NSPQ)trước can thiệp 
Bảng 1: Đặc điểm tổn thương ghi nhận qua NSPQ 
NSPQ trước can thiệp BAE
Không thưc hiện
Xuất huyết thùy trên P
Xuất huyết thùy giữa P
Xuất huyết thùy dưới P
Xuất huyết thùy trên T
Xuất huyết thùy lưỡi
Xuất huyết thùy dưới T
Tổn thương khác

Tỉ lệ ( n = 48)
39 (81,2%)
1 (2,1%)
3 (6,2%)
1 (2,1%)
1 (2,1%)
1 (2,1%)
1 (2,1%)
2 (4,2%)

Trong  48  trường  hợp  khảo  sát  thì  có  đến 
81,2% (n = 39) không có NSPQ  trước can thiệp 
BAE, chỉ có 8 trường hợp được NSPQ trước can 
thiệp  chiếm  8,8  %.  Khi  NSPQ  có  1  trường  hợp 
không thấy được nguồn gốc chảy máu, 1 trường 
hợp phát hiện u sùi, có 1 trường hợp chảy máu ở 
2 vị trí (thùy trên P và thùy lưỡi T). 


Đặc  điểm  tổn  thương  trên  phim  MSCT 
ngực 
Một  BN  có  thể  có  nhiều  tổn  thương  khác 
nhau  trên  MSCT  ngực.  Trong  dân  số  nghiên 
cứu  có  đến  43,8  %  (  n  =  21)  BN  có  dãn  phế 
quản khu trú. 
Bảng 2: Đặc điểm tổn thương ghi nhận qua CT ngực 
Đặc điểm trên MSCT ngực
Không thực hiện
Xơ vôi

Tỉ lệ ( n = 48)
4 ( 8,3 %)
13 (27,1%)

Hội Nghị Khoa Học Công Nghệ BV. Nhân Dân Gia Định năm 2013  


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Số 6 * 2013 
Đặc điểm trên MSCT ngực
Lao tiến triển
Dãn phế quản khu trú
Dãn phế quản lan tỏa 1 bên
Dãn phế quản lan tỏa 2 bên
Khác: viêm tiểu PQ, đông đặc,
kính mờ, khí phế thủng, u nấm…

Tỉ lệ ( n = 48)
12 ( 25%)

21 ( 43,8%)
4 ( 8,3%)
6 ( 12,5%)
( 43,8%)

Điều trị nội khoa trước can thiệp BAE 
Bảng 3: Điều trị nội khoa trước can thiệp mạch máu 
Điều trị nội khoa
Thở oxy
Điều trị cầm máu
Điều trị ức chế ho
Điều trị an thần
Nội soi cầm máu

Tỉ lệ ( n=45)
23 (47,9%)
47 (97,9%)
42 (87,5%)
35 (72,9%)
8 ( 18,8%)

Đặc điểm tổn thương mạch máu trên DSA 
Bảng 4: Đặc điểm tổn thương mạch máu trên DSA 
Đặc điểm mạch máu trên DSA
Bình thường
Dãn động mạch
Tăng sinh động mạch
Khác

Tỉ lệ ( n = 44)

3 ( 6,2%)
12 ( 25%)
39 ( 62,5%)
3 ( 6,2%)

Khi  khảo  sát  mạch  máu  trên  DSA  cho  thấy 
đa  số  BN  có  tăng  sinh  mạch  máu  chiếm  tỉ  lệ 
62,5% (n = 39), trong đó có 18,8% (n = 9) BN có cả 
2 đặc điểm vừa tăng sinh mạch máu vừa có dãn 
ĐM.  Có  1  trường  hợp  dị  dạng  ĐM  phế  quản 
phổi trái, 1 trường hợp dò động tĩnh mạch phổi 
phải, 1 trường hợp ĐM phế quản trái co thắt có 
dấu thoát mạch. 

Tình trạng HRM sau can thiệp BAE 
Bảng 5: Tình trạng HRM sau can thiệp 
Trình trạng ho ra máu
Trên 100ml/24h
Đàm vướng máu

Tỉ lệ ( n= 45)
1 (2,2%)
22 (48,9%)

Trong tổng số 45 trường hợp được can thiệp 
BAE  chỉ  có  1  trường  hợp  có  HRM  hơn  100ml 
chiếm tỉ lệ 2,2%. Có 22 trường hợp còn ho đàm 
vướng máu sau can thiệp chiếm tỉ lệ 48,9%. Thời 
gian ho đàm vướng máu trung bình là 3,68 ±1,89  
ngày, ngắn nhất là 1 ngày, dài nhất là 8 ngày. 


Biến chứng sau can thiệp 
Bảng 6: các biến chứng sau khi can thiệp 
Các biến chứng
Thuyên tắc phổi

Tỉ lệ ( n=45)
0

Nghiên cứu Y học
Các biến chứng
Máu tụ
Đau chân
Đau ngực
Sốt

Tỉ lệ ( n=45)
0
4 (8,9%)
2 (4,4%)
10 (22,2%)

Trong 45 BN được can thiệp BAE không có 
BN nào có thuyên tắc phổi hay biến chứng máu 
tụ. Sốt chiếm tỉ lệ cao nhất 22,2% ( n = 10). 

Tỉ lệ can thiệp thành công và tử  vong  sau 
can thiệp BAE 
Bảng 7: Kết quả sau can thiệp 
Kết quả sau BAE

Tái phát
Tử vong
Thành công

Tỉ lệ ( n = 45)
11 ( 24,4%)
3 ( 6,67%)
31 ( 68,93%)

Trong  tổng  số  45  BN  được  can  thiệp  có  11 
trường  hợp  tái  phát  chiếm  tỉ  lệ  24,4%.  Trong  3 
trường  hợp  tử  vong  sau  can  thiệp  có  2  trường 
hợp  do  suy  hô  hấp  và  viêm  phổi  chiếm  tỉ  lệ 
6,67%,  1  trường  hợp  ngưng  hô  hấp  tuần  hoàn 
ngay tại phòng can thiệp DSA. 

Tái phát sau can thiệp 
Bảng 8: Tái phát sau can thiệp 
Thời gian tái phát
Trong vòng 1 tháng
Trong vòng 3 tháng
Trong vòng 6 tháng
Hơn 6 tháng

Tỉ lệ ( n = 11)
4 ( 36,3%)
2 ( 18,2%)
3 ( 27,3%)
2 ( 18,2%)


BÀN LUẬN 
Dân  số  nghiên  cứu  của  chúng  tôi  đa  số  là 
nam  (83,3%)  với  độ  tuổi  trung  bình  là  57,06  ± 
19,45,  dao  động  từ  16  đến  95,  tỉ  lệ  nam/nữ  = 
4,8/1,  tương  đương  với  tác  giả  trong  và  ngoài 
nước (1,2,6) 
Tại  thời  điểm  nhập  viện  có  6  trường  hợp 
không  thu  thập  được  dữ  liệu  về  mức  độ  HRM 
(do không ghi nhận trong bệnh án), trong số 42 
BN  còn  lại  có  52,4%  (n=22)  HRM  lượng  ít  và 
28,6%(n=12)  HRM  lượng  nhiều.  Tỉ  lệ  này  cao 
hơn tác giả Sidhu và cộng sự(11) (chỉ có 5% HRM 
lượng nhiều) có thể do nguyên nhân gây HRM 
chủ yếu là lao phổi và di chứng lao, mà xuất độ 
bệnh lý này khá cao ở Việt Nam. Tuy vậy ở thời 
điểm  ngay  trước  can  thiệp  BAE  thì  có  4  BN 

Hội Nghị Khoa Học Công Nghệ BV. Nhân Dân Gia Định năm 2013  

91


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Số 6 * 2013

Nghiên cứu Y học 
(8,3%)  suy  hô  hấp  phải  đặt  nội  khí  quản  trước 
thủ thuật. 
Xquang tim phổi thẳng, CT ngực và nội soi 
phế  quản  (NSPQ)  thường  được  dùng  nhất  để 
xác  định  vị  trí  chảy  máu(15).NSPQ  là  một  thủ 

thuật xâm lấn và kích thích BN nên dễ dẫn đến 
nguy  cơ  HRM  nhiều  hơn  và  suy  hô  hấp  nặng 
hơn,  ngoài  ra  để  tiến  hành  NSPQ  cần  phải  có 
máy  móc  và  nhân  sự  mà  không  phải  lúc  nào 
cũng sẵn có. Sang thương thường gặp nhất khi 
chụp  CT  ngực  là  dãn  phế  quản  khu  trú  chiếm 
43,8%  (n=21),  tổn  thương  lao  tiến  triển  25% 
(n=12)  ,tương  đương  với  bài  viết  của  tác  giả 
David. R. Sopko(12) cũng như nhiều y văn khác. 
Phần lớn BN đều được điều trị nội khoa tích 
cực  với  cầm  máu,  thuốc  ức  chế  ho  và  an  thần 
trước  hoặc  trong  khi  chờ  tiến  hành  BAE,  phù 
hợp  với  y  văn  về  hướng  xử  trí  phối  hợp  nội 
khoa tích cực. 

Khảo  sát  DSA  ở  đơn  vị  chúng  tôi  cho  thấy  
hình ảnh tăng sinh ĐM chiếm 62,5%(n= 39)  và 
dãn  ĐM  25%(n=12)  thấp  hơn  tác  giả  Sidhu  và 
cộng sự(4) với tỉ lệ lần lượt là 83% và 31%, có thể 
do dân số mẫu không nhiều nên chưa ghi nhận 
được  nhiều  sang  thương.  Có  9  trường  hợp 
(18,8%)  có  cả  hai  loại  sang  thương  trên.  Hình 
ảnh thoát mạch rất có ích và chuyên biệt nhưng 
theo  tác  giả  David  R.  Sopko  ghi  nhận  chỉ  có 
10,7%(12)  còn nghiên cứu chúng tôi chỉ ghi nhận 
được 1 trường hợp nhưng cũng không  thể tiến 
hành can thiệp được vì BN suy hô hấp tại phòng 
can  thiệp.  Chúng  tôi  cũng  ghi  nhận  được  1 
trường hợp dị dạng mạch máu não hồi cạnh hải 
mã  đi  kèm  dò  động  tĩnh  mạch  phổi  phải  (hội 

chứng 
HHT: 
hereditary 
hemorrhagic 
telangiectasia)  là  rối  loạn  di  truyền  hiếm  gặp 
1/5000 dân, còn gọi là bệnh hay hội chứng Osler‐
Weber‐Rendu. 
Trong  45  BN  được  can  thiệp  làm  tắc  mạch 
chỉ có 1 trường hợp HRM trên 100ml trong vòng 
24 giờ sau thủ thuật và đã được can thiệp lần hai 
ngay trong thời gian còn nằm viện, 97,8% (n=44) 
được  xem  là  thành  công  theo  định  nghĩa  trên. 
48,9% (n=22) ho đàm vướng máu sau can thiệp 

92

từ 1 – 8 ngày ( trung bình 3,68 ± 1,89). Tỉ lệ thành 
công  khi  can  thiệp  BAE  ở  đơn  vị  chúng  tôi 
tương  đương  với  các  tác  giả  trong  và  ngoài 
nước(4,7,8). 
Theo y văn, biến chứng thường gặp nhất sau 
can thiệp là đau ngực 24‐91%(15,7,8,9) và tự hết mà 
không thấy đề cặp đến vấn đề sốt sau can thiệp. 
Trong  khi  đó  qua  khảo  sát  chúng  tôi  ghi  nhận 
sốt  chiếm  tỉ  lệ  cao  nhất  22,2%(n=10)  trong  khi 
đau ngực chỉ xảy ra ở 2 bệnh nhân (4,4%). Ở VN 
tỉ  lệ  bệnh  nhiễm  cao,  do  đó  vấn  đề  sốt  cũng 
không  loại  trừ  do  tình  trạng  bội  nhiễm  đi  kèm 
trước hoặc sau khi can thiệp 
Tỉ lệ tái phát chung sau can thiệp chúng tôi 

ghi nhận  được  là  24,4%(n=11)  tương  đương  tác 
giả  David  R.Sopko(15)  (10  –  33%).Thời  điểm  tái 
phát  trong  vòng  1,3,6  và  sau  6  tháng  sau  can 
thiệp  lần  lượt  là  36,3%(n=4),  18,2%(n=2), 
27,3%(n=3) và 18,2%(n=2). Do thời gian theo dõi 
không  dài  như  các  đồng  nghiệp  ở  nước  ngoài 
nên  tạm  thời  chúng  tôi  chưa  so  sánh  tỉ  lệ  cầm 
máu lâu dài. 
Tử  vong  sau  can  thiệp  BAE  là  biến  cố 
nghiêm  trọng.  Trong  nghiên  cứu  chúng  tôi  ghi 
nhận  3  trường  hợp  tử  vong,  trong  đó  2  trường 
hợp tử vong do suy hô hấp viêm phổi sau thời 
gian  thở  máy  tại  ICU,  không  có  HRM  tái  phát 
sau  BAE.  Trường  hợp  tử  vong  còn  lại  là  do 
HRM lượng lớn, BN trở nặng ngay trên bàn can 
thiệp, hồi sức không hiệu quả và chưa tiến hành 
can thiệp được. 

KẾT LUẬN 
BAE có thể kiểm soát HRM lượng nhiều tức 
thời cũng như 6 tháng sau can thiệp với tỉ lệ cầm 
máu tức thời thành công trên 97,8% mà ít có biến 
chứng, tỉ lệ tái phát tương đối chấp nhận được 
24,4% sau 6 tháng .  Đây là thủ thuật tuy không 
phức tạp nhưng có thể cứu mạng BN, chuẩn bị 
tiền phẫu hoặc thay thế phẫu thuật hay có thể là 
điều trị lựa chọn trong một số trường hợp. 

ĐỀ XUẤT 
Thực hiện nghiên cứu với thời gian theo dõi 

dài hơn với số lượng bệnh nhân lớn hơn, và có 

Hội Nghị Khoa Học Công Nghệ BV. Nhân Dân Gia Định năm 2013  


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Số 6 * 2013 
so sánh với nhóm bệnh nhân không can thiệp sẽ 
có tính thuyết phục cao hơn trong đánh giá tỉ lệ 
thành công và tái phát xa sau BAE. 

TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1.

2.

3.

4.

5.

6.

7.

8.

Abal  AT,  Nair  BC,  Cherian  J  (2001).  Heamoptysis:  aetiology, 
evaluation and outcome – a prospective study in a third‐word 
country. Respir Med. Jul; 95(7): 548‐552. 

Dwivedi MK, Pal RK, Borkar PB (1999). Management of severe 
hemoptysis  due  to  tuberculosis  by  bronchial  artery 
embolisation. Chest Radiology , Vol 9, fouth edition, page 165 – 
168. 
Fernando  HC,  Stein  M,  Benfield  JR(1998),  Link  DP.  Role  of 
bronchial  artery  embolization  in  the  management  of 
hemoptysis. Arch Surg; 133:862‐866. 
Hayakawa K, Tanak F,Torizuka T, et al (1992). Bronchial artery 
embolization for hemoptysis immediate and long‐term results. 
Cardiovasc Intervent Radiol; 15:154‐159. 
Lopez JK, and Lee HY (2006). Bronchial artery embolization for 
treatment  of  life‐threatening  hemoptysis.  Serminar  in 
interventional radiology , Vol 23 no 3, page 223‐229. 
Mal H, Rullon I, Mellot F, Brugie’re O, Sleiman C, Menu Y, and 
Fournier  M,  (1999).  Immediate  and  long‐term  results  of 
bronchial  artery  embolization  for  life‐threatening  hemoptysis. 
Chest; 115:996 – 1001. 
Mal H, Rullon I, Mellot F, et al (1999). Immediate and long‐term 
results  of  bronchial  artery  embolization  for  life‐threatening 
hemoptysis. Chest; 115:996‐1001. 
Marshall  TJ,  Jackson  JE  (1997).  Vascular  intervention  in  the 
 

Nghiên cứu Y học

9.
10.

11.


12.

13.

14.

15.

thorax:  bronchial  artery  embolization  for  hemoptysis.  Eur 
Radiol 1997;7: 1221‐1227. 
Najarian  KE,  Morris  CS  (1998).  Arterial  embolization  in  the 
chest. J Thorac Imaging; 13:93‐104. 
Remy J, Voisin C, Ribet M, et al (1973). Treatment by bronchial 
artery  embolization  of  sever  e  or  repeated  hemoptysis 
associated  with  systemic  hypervascularization.  Nouv  Presse 
Med;2:2060‐2068. 
Sidhu  M,  Wieseler  K,  Burdick  TR,  and  Shaw  DWW,  (2008). 
Bronchial  Artery  Embolization  for  Hemoptysis.  Seminar  in 
interventional radiology , Vol 25 no 3, page 310‐ 318. 
Sopko DR, and TP Smith,  (2011). Bronchial artery embolization 
for hemoptysis. Seminar in interventional radiology , Vol 28 no 
1, page 48‐62. 
Tạ Bá Thắng, Nguyễn Sĩ Tùng(2012). Kết quả bước đầu gây tắc 
động mạch [phế quản điều trị ho ra máu nặng do lao phổi. Y 
học thực hành (838) 8/2012, trang 3 – 5. 
Uflacker  R,  Kaemmer  A,  Neves  C,  Picon  PD  (1983). 
Management  of  massive  hemoptysis  by  bronchial  artery 
embolization. Radiology; 146:627‐634. 
Yoon  W,  Kim  JA,  Kim  JH,  Chung  TW,  Kong  HK  (2002). 
Bronchial  and  nonbronchial  systemic  artery  embolization  for 

life‐threatining  hemoptysis:  a  comprehensive  review. 
Radiographycs; 22:1395‐1409. 

 

Ngày nhận bài báo: 15/8/2013 
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 21/8/2013 
Ngày bài báo được đăng: 10/12/2013 

Hội Nghị Khoa Học Công Nghệ BV. Nhân Dân Gia Định năm 2013  

93



×