Tải bản đầy đủ (.pdf) (5 trang)

Đặc điểm lâm sàng của ung thư tế bào hắc tố tại Bệnh viện Da liễu Trung ương và Bệnh viện K Trung ương

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (377.6 KB, 5 trang )

TẠP CHÍ Y DƯỢC HỌC QUÂN SỰ SỐ 2-2014 - KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU CHƯƠNG TRÌNH KHCN KC.10/11-15

ĐẶC ĐIỂM LÂM SÀNG CỦA UNG THƯ TẾ BÀO HẮC TỐ
TẠI BỆNH VIỆN DA LIỄU TRUNG ƯƠNG VÀ
BỆNH VIỆN K TRUNG ƯƠNG
Trần Hậu Khang*; Nguyễn Thị Ngọc Mai*; Nguyễn Hữu Sáu**
TÓM TẮT
Nghiên cứu mô tả cắt ngang, hồi cứu 60 bệnh nhân (BN) bị ung thư tế bào hắc tố (TBHT). Kết quả:
tuổi trung bình: 56,4 ± 15; tỷ lệ nữ/nam = 1,6/1; 60% BN là nông dân; 66% tổn thương ở chi dưới,
gót chân (23,4%), gan chân (12,8%), mu chân và kẽ chân (8.5 %); thể u: 36,7%; thể đầu cực: 33,3%,
thể dubreuilh: 3,3%; thể nông: 5%; 60,7% BN có di căn hạch bạch huyết; 48,3% BN ở giai đoạn III.
* Từ khóa: Ung thư tế bào hắc tố; Ung thu da.

clinical features, histopathological findings of
patients with melanoma at National Hospital of
Dermato-Verenology and k hospital
Summary
A retrospective traversal study was carried out on 60 patients with malignant melanoma at National
Hospital of Dermatology and National Hospital of Cancers. Results: mean age: 56.4 ± 15. Female/male
ratio = 1,6/1; 60% of patients was farmer, 66% of patients had lesions on the foot, in which 23% was on
the heel, 12.8% on the plantar, 8.5% on the other area of the foot. Nodular melanoma accounted for
36.7%, acral melanoma 33.3%, lentigo maligna melanoma 3.3%; superficial 5%; 60.7% of patients had
lymph node metastasis and 48.3% of patients was at the III stage of AJCC classification.
* Key words: Malignant melanoa; Skin cancer.

ĐẶT VẤN ĐỀ
Ung thư TBHT là một loại u ác tính của
TBHT, nguy hiểm nhất trong các loại ung
thư da do tỷ lệ di căn và tử vong cao. Loại
ung thư này chỉ chiếm khoảng 5% trong số
các loại ung thư da, nhưng lại là nguyên


nhân của 75% số người tử vong do ung thư
da gây nên [5].
Tỷ lệ mắc ung thư TBHT khác nhau ở
mỗi quốc gia, chủng tộc. Bệnh phổ biến ở
các nước phương Tây, những người có làn
da sáng màu. Việt Nam là một trong những

nước có tỷ lệ mắc ung thư TBHT thấp.
Theo ghi nhận năm 1993, tỷ lệ mới mắc
ung thư TBHT tại Hà Nội là 0,3 - 0,4/
100.000 dân [2]. Thực tế cho thấy, hầu hết
BN bị ung thư TBHT đều được chẩn đoán ở
giai đoạn muộn. Một trong những nguyên
nhân chủ yếu là do nhận thức kém về bệnh
của cả người bệnh và thầy thuốc. Nghiên
cứu này được thực hiện nhằm: Nghiên cứu
đặc điểm lâm sàng của ung thư TBHT tại
Bệnh viện Da liễu TW và Bệnh viện K TW.

* Bệnh viện Da liễu TW
** Trường Đại học Y Hà Nội
Người phản hồi (Corresponding): Nguyễn Hữu Sáu ()
Ngày nhận bài: 25/12/2013; Ngày phản biện đánh giá bài báo: 7/1/2014
Ngày bài báo được đăng: 23/1/2014

107


TẠP CHÍ Y DƯỢC HỌC QUÂN SỰ SỐ 2-2014 - KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU CHƯƠNG TRÌNH KHCN KC.10/11-15


ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP
NGHIÊN CỨU
Nghiên cứu dựa trên hồ sơ bệnh án của
BN được chẩn đoán ung thư TBHT điều trị
nội trú tại Bệnh viện Da liễu TW và Bệnh
viện K TW từ 1 - 2008 đến 12 - 2012 dựa
vào lâm sàng và xét nghiệm mô bệnh học.
Thu thập và phân tích các th«ng tin về tuổi,
giới, nghề nghiệp, tiền sử mắc bệnh, biểu
hiện lâm sàng, thể lâm sàng, giai đoạn bệnh
dựa vào phần mềm SPSS 16.0. Các biến
định tính được mô tả dưới dạng phần trăm
(%). Mô tả biến định lượng dưới dạng trung
bình ± độ lệch.
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ
BÀN LUẬN
* Phân bố BN theo tuổi (n = 60):
20 - 29 tuổi: 2 BN (3,3%); 30 - 39 tuổi:
8 BN (13,3%); 40 - 49 tuổi: 12 BN (20%); 50
- 59 tuổi: 13 BN (21,7%); 60 - 69 tuổi:
9
BN (15%); 70 - 79 tuổi: 11 BN (18,3%);
80 - 89 tuổi: 4 BN (6,7%); 90 - 99 tuổi:
1 BN (1,7%).
Qua nghiên cứu 60 BN ung thư TBHT,
chúng tôi thấy: tuổi thấp nhất 21, cao nhất
96 tuổi, trung bình 56 tuổi. Lứa tuổi mắc
bệnh nhiều nhất 50 - 59 tuổi (21,7%). Điều
đó chứng tỏ ung thư TBHT ít gặp ở người trẻ.
* Ph©n bè theo giíi:


Làm ruộng

Trong số 60 BN nghiên cứu, 23 BN (38%)
nam và 37 BN (62%) nữ, tỷ lệ nữ/nam là 1,6/1.
* Ph©n bè theo nghÒ nghiÖp

17

Hưu trí

3

Hành chính

2

Tự do
Nội trợ

1

Bộ đội

1
0

10

20


30

40

Biểu đồ 2: Phân bố theo nghề nghiệp.
Theo nghề nghiệp, bệnh ít gặp nhất là nhân
viên hành chính (5%), nghề tự do (3,3%), bộ
đội (1,7%), sau đó là những người ở độ tuổi
hưu trí (28,3%). Nông dân chiếm tỷ lệ cao
nhất (60,7%). Những người làm ruéng phải
tiếp xúc với ánh nắng mặt trời nhiều nhất,
chịu ảnh hưởng bởi các tia bức xạ cực tím
của ánh nắng mặt trời, một tác nhân gây ung
thư [6].
Bảng 1: Phân bố vị trí tổn thương ung thư.
n = 47

Chi
dưới

Biểu đồ 1: Phân bố theo giới.

36

Đầu-mặt-cổ

4

8,5


Thân mình

4

8,5

Chi trên

8

17

Đùi

3

6,4

Cẳng chân

1

2,1

Mu chân

4

8,5


Gót chân

11

23,4

Gan chân

6

12,8

Ngón chân

2

4,3

Kẽ chân

4

8,5

66

Ung thư hắc tố gặp nhiều nhất ở chi dưới
(66%), trong đó ở gót chân (23,4%), gan chân
(12,8%), mu chân và kẽ chân chiếm tỷ lệ

ngang nhau 8,5%. Trong một nghiên cứu ở
New Zealand về vị trí tổn thương, ung thư
TBHT xuất hiện nhiều nhất ở thân mình
(nam giới) và chi dưới (phụ nữ) [6]. Nghiên
cứu của Bùi Thị Bắc (1999) còng gặp ung
thư hắc tố ở chi dưới chiếm tỷ lệ cao [1].
Bảng 2: Phân bố thể lâm sàng (n = 60).

8


TẠP CHÍ Y DƯỢC HỌC QUÂN SỰ SỐ 2-2014 - KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU CHƯƠNG TRÌNH KHCN KC.10/11-15

n
Ung thư
TBHT
ở da

Thể nông

3

5

Thể u

22

36,7


Thể đầu cực

20

33,3

Thể của Dubreuilh lentigo
maligna melanoma

2

3,3

78,3

Thể niêm mạc (Mucosal Melanoma)

9

15

Hạch không có u nguyên phát

4

6,7

60

100


Tổng

42% trường hợp biểu hiện là cục u trên
da. Các trường hợp ung thư hắc tố thể phần
lớn đều xuất hiện trên nền da thường, từ
một vết nhỏ màu đen rồi hình thành cục
u, phát triển to ra, sùi loét, dễ chảy máu.
2
BN từ một nốt ruồi, sau đó phát triển lồi lên
trên mặt da thành cục nhỏ màu đen sậm, lớn
dần. Tuy nhiên, có những trường hợp khối u
xuất hiện trên da, nhưng không biến đổi màu
sắc, chỉ biểu hiện như một khối rắn chắc
trên da, không đau. Trường hợp này,
thường chẩn đoán nhầm ở các bệnh viện
địa phương, chỉ cắt bỏ khối u đơn thuần mà
không làm giải phẫu bệnh lý. 3 BN khối u
không thay đổi màu sắc. 1 BN nổi một cục u
ở mặt trước cánh tay, lồi vào trong da, chắc,
lớn dần trong vòng 3 tháng, kích thước
khoảng 2 cm, được chẩn đoán là u xơ chai.
Đã phẫu thuật cắt bỏ tại Bệnh viện Giao
thông vận tải, làm giải phẫu bệnh sau mổ
nghi ngờ ung thư và chuyển tới Bệnh viện K.
Thể đầu cực trong nghiên cứu chiếm
33,3%; tương tự ở các nước châu Á khác.
Tại Trung Quốc, thể đầu cực là loại phổ biến
nhất (41,8%), sau đó là thể u (19,7%) [9]. Ở
Đài Loan, 58% trường hợp ung thư hắc tố

đầu cực, 30,4% thể u, 10,5% thể nông và
1,1% thể lentigo maligna melanoma
(malanoma Dubreuilh) [4]. Có sự khác biệt
về tỷ lệ phân bố thể bệnh ở những quốc gia
như Úc, New Zealand và các nước châu Âu
với tỷ lệ mắc thể nông, thể u, lentigo maligna
melanoma, thể đầu cực chiếm > 70%, 15%,
13% và 2 - 3% [4, 7].

Ung thư hắc tố thể đầu cực có nhiều biến
đổi, do da dày ở những vị trí như gan chân,
đầu móng, hay vùng gót chân, biểu hiện là
một vết loét hoặc một mảng tăng sắc tố.
Thông thường, các tổn thương dưới móng
thường bắt đầu là vết nâu đen dọc trên
móng, sau đó có dấu hiệu Hutchinson đặc
trưng (vết sắc tố lan rộng ra hai bên rìa
móng, vượt qua ranh giới móng để lan đến
nếp gấp móng). Tuy nhiên, trường hợp vết
nâu-đen xuất hiện ở dưới móng tay trong
thời gian đầu, BN hay nhầm với một vết bầm
tụ máu. Đến khi khối u phát triển sùi lên làm
hỏng móng chân, móng tay, lúc ấy BN mới
đến viện. Với những trường hợp như thế,
cần hỏi kỹ tiền sử chấn thương trong thời
gian gần nhất. Vết tụ máu dưới móng xuất
hiện sau chấn thương, bị đẩy lùi dần ra ngọn
móng, mờ dần đi và biến mất hoàn toàn sau
2 - 3 tháng. Khi có các dấu hiệu vết tụ máu
không mất đi mà lan rộng ra, vết sọc bất

thường ở móng mở rộng ra hai bên móng,
hoặc vết sắc tố đậm dần, nên kiểm tra kỹ,
tránh bỏ sót một ung thư hắc tố. Tổn thương
ở móng cũng có thể nhầm với nấm móng,
hoại tử thiếu máu cục bộ, u hạt sinh mủ.
Trường hợp xuất hiện ở gót chân trên
nền da thường một vết nâu đen, hoặc có thể
là một nốt ruồi nhỏ BN không để ý, sau một
thời gian lớn dần, lan rộng ra xung quanh, bờ
không đều, có thể gây loét chảy máu. Gót
chân là vị trí tổn thương hay gặp nhất ở chi
dưới, do đây là vị trí hay được cọ sát, dễ
chấn thương, đi chân trần tiếp xúc với hóa
chất nông nghiệp [3]. Tuy nhiên, chẩn đoán
th-êng muộn, khi tổn thương dễ có thể nhầm
với các vết bầm máu do chấn thương, viêm
loét nhiễm khuẩn mạn tính, tổn thương loét
gót do bệnh lý đái tháo đường, thần kinh, đặc
biệt là các tổn thương của ung thư hắc tố có
màu sắc không đặc trưng, dễ bỏ qua, cần
phải làm giải phẫu bệnh để chẩn đoán. Mặt
khác, có thể do vùng da gót chân dày làm lu
mờ bản chất thương tổn, vị trí gót và gan
chân ít được chú ý cũng góp phần làm chẩn
9


TẠP CHÍ Y DƯỢC HỌC QUÂN SỰ SỐ 2-2014 - KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU CHƯƠNG TRÌNH KHCN KC.10/11-15

đoán bệnh muộn. Tổn thương hắc tố ở chân

có tiên lượng xấu hơn so với tổn thương ở
vị trí khác ở chi dưới.
Trường hợp khối u không nằm ở những
vị trí trên là một thách thức đối với bác sỹ.
Đó là thể ung thư hắc tố hiếm gặp như ung
thư hắc tố niêm mạc, ung thư hắc tố không
thấy khối u nguyên phát. Những trường hợp
này phụ thuộc hoàn toàn vào kết quả mô
bệnh học. Do vậy, khi chẩn đoán bệnh đã ở
giai đoạn muộn. Trong nghiên cứu của
chúng tôi, 2 BN đến viện do ra máu âm đạo
bất thường. Soi âm đạo thấy tổn thương
khối u màu đen, dễ chảy máu ở thành trước
âm đạo. 1 BN sờ thấy khối lồi ra ở âm hộ và
được chẩn đoán nhầm là polyp âm đạo.
Khối u ở niêm mạc mũi xoang khiến BN ngạt
mũi dần dần một bên, kéo dài gần 1 tháng,
sau đó, BN thấy đau mũi, bên mũi ngạt sưng
lên và chảy máu. BN đã đi khám ở Bệnh
viện Tai Mũi Họng thấy có khối u màu đen
trong hốc mũi, phẫu thuật lấy khối u, sinh
thiết chẩn đoán là ung thư TBHT. Trường
hợp khối u xuất hiện ở niêm mạc miệng, BN
nhìn thấy một chấm nâu nhỏ trên lợi hàm
trên, lớn dần trong vòng 4 tháng, tạo thành
một vết màu nâu-đen kích thước khoảng 1,5
cm, màu sắc không đều, ở ngoài màu nâu,
ở giữa có chấm màu đen. Trường hợp khối
u ở niêm mạc mắt làm BN thấy mắt bên phải
nhìn mờ dần, sau đó có cảm giác đau tức

trong mắt. BN được phẫu thuật cắt bỏ nhãn
cầu, sau sinh thiết phát hiện là ung thư
TBHT.
Bảng 3: Đánh giá di căn hạch bạch huyết.
n
Cổ
1 vùng Chẩm
hạch
Góc hàm

2
2
1
27

Nách

3

Bẹn

19

79,4% 100%

Khoeo

1

Hạch ổ bụng


1

2 vùng Hạch bẹn và chậu
hạch
Hạch bẹn 2 bên
Hạch bẹn và
khoeo cùng bên

2
2

7

20,6%

3

34/60 BN (60,7%) có di căn hạch bạch
huyết. Trong đó, di căn một chặng hạch
27/34 BN (79,4%) và di căn hai chặng hạch
7/34 (20,6%). 4 trường hợp nghi ngờ di căn
đến gan, phổi. 4 trường hợp vào viện sờ
thấy hạch bạch huyết mà không tìm thấy tổn
thương nguyên phát trên da, niêm mạc
được chẩn đoán nhờ vào sinh thiết hạch,
cho kết quả nh- sau: các tế bào biểu mô
xâm nhập hạch, là tế bào nhân to nhỏ không
đều, vành nhân méo mó, kiềm tính cao, chất
nhiễm sắc thô, hạt nhân rõ. Các tế bào biểu

mô này đứng thành đám lộn xộn, mất cực
tính.
* Giai đoạn lâm sàng theo AJCC (American
Joint Committee on Cancer):
Giai đoạn I: 13 BN (21,7%); giai đoạn II:
12 (20%); giai đoạn III: 29 BN (48,3%); giai
đoạn IV: 6 BN (10%).
Giai đoạn lâm sàng III chiếm tỷ lệ cao nhất
(48,3%). Giai đoạn IV chiếm tỷ lệ thấp (10%).
BN được chẩn đoán hầu hết ở giai đoạn muộn.
Nghiên cứu trước đó của Bùi Thị Bắc cho
kết quả tương tự [1]. Điều này có thể giải
thích do BN đến khám muộn, ung thư đã
tiến triển ở giai đoạn muộn. 38/60 BN đến
viện được xác định có di căn, trong đó 4 BN
vừa có di căn hạch vừa di căn xa đến các
cơ quan gan, phổi, da và 7 BN có di căn 2
chặng hạch. Các phương tiện chẩn đoán
hình ảnh như siêu âm, chụp cộng hưởng từ,
PET CT giúp xác định di căn hạch, cơ quan
được tốt hơn. BN được phát hiện muộn có
nhiều nguyên nhân khác nhau, do vị trí không
điển hình của tổn thương, thiếu nhận thức
và chủ quan về bệnh, do chẩn đoán sai và
điều trị không đúng cách ở các tuyến dưới…
khiến cho bệnh ở giai đoạn muộn tại thời

10



TẠP CHÍ Y DƯỢC HỌC QUÂN SỰ SỐ 2-2014 - KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU CHƯƠNG TRÌNH KHCN KC.10/11-15

điểm chẩn đoán. Điều này ảnh hưởng đến
hiệu quả điều trị và thời gian sống của BN.
KẾT LUẬN

3. Adele Green, Margaret McCredie et al. A
case-control study of melanomas of the soles
and palms (Australia and Scotland). Cancer
Causes & Control. 1999, 10 (1), pp.21-25.

Qua nghiên cứu 60 BN ung thư TBHT,
chúng tôi rút ra một số nhận xét sau:

4. Chang JW, Yeh KY et al. Malignant
melanoma in Taiwan: a prognostic study of 181
cases. Melanoma Res. 2004, 14 (6), pp.537-541.

- Lứa tuổi trung niên 50 - 59 mắc bệnh
nhiều nhất (21,7%), tiếp theo lµ lứa tuổi 40
- 49 (20%), trung bình 56 tuổi.

5. Jerant AF, Johnson JT et al. Early detection
and treatment of skin cancer. Am Fam Physician.
2000, 62 (2), pp.357-368, pp.375-376, pp.381-382.

- Tỷ lệ mắc bệnh của nữ gấp 1,6 lần nam.
- Nông dân mắc bệnh cao nhất, có thể do
đặc thù nghề nghiệp phải làm việc ngoài
nắng nhiều.

- 83,9% có biểu hiện bệnh trên da, trong
đó vị trí thường gặp nhất ở chi dưới (66%),
đặc biệt phần gót chân và gan chân.
- Thể lâm sàng gặp nhiều nhất là thể u và
thể đầu cực.
- Bệnh phần lớn được chẩn đoán ở giai
đoạn muộn, 48,3% ở giai đoạn III, do đó tiên
lượng bệnh không khả quan.

6. Katsambas A, Nicolaidou E. Cutaneous
malignant melanoma and sun exposure. Recent
developments in epidemiology. Arch Dermatol.
1996, 132 (4), pp.444-450.
7. Markovic SN, Erickson LA et al. Malignant
melanoma in the 21st Century, Part 2: Staging,
Prognosis, and Treatment. Mayo Clin Proc. 2007,
82 (4), pp.490-513.
8. Zhihong Chi, 1Siming Li et al. Clinical
presentation, histology, and prognoses of malignant
melanoma in ethnic Chinese: A study of 522
consecutive cases. BMC Cancer. 2011, Vol 11:85.
1471-2407/11/85.

- 56,7% BN có di căn ung thư tới hạch
bạch huyết, 1 BN di căn gan, 1 BN di căn phổi,
2 BN di căn dưới da.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bùi Thị Bắc. Nghiên cứu đặc điểm lâm
sàng và hình thái học u hắc tố ác tính. Trường
Đại học Y Hà Nội. 1999, tr.26-27.

2. Nguyễn Đức Hùng, Phó Đức Mẫn, Cung
Thị Tuyết Anh, Nguyễn Văn Sơn, Vũ Văn Vũ,
Nguyễn Mạnh Quốc. Dịch tễ học ung thư hiện
nay tại Thành phố Hồ Chí Minh và các tỉnh phía
nam Việt Nam. Y học Việt Nam. 1993, tập 173,
số 17, tr.31-37.

11



×