Tải bản đầy đủ (.pdf) (8 trang)

Nhu cầu, yêu cầu điều trị chỉnh hình răng mặt của học sinh 12 tuổi tại thành phố Thủ Dầu Một - Tỉnh Bình Dương năm 2012

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (259.87 KB, 8 trang )

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 2 * 2013

Nghiên cứu Y học

NHU CẦU, YÊU CẦU ĐIỀU TRỊ CHỈNH HÌNH RĂNG MẶT
CỦA HỌC SINH 12 TUỔI TẠI THÀNH PHỐ THỦ DẦU MỘT TỈNH BÌNH DƯƠNG NĂM 2012
Nguyễn Thị Kim Yến*, Nguyễn Thị Kim Anh**

TÓM TẮT
Mục tiêu: Xác định tỷ lệ các đặc điểm sai khớp cắn, nhu cầu, yêu cầu điều trị CHRM của học sinh 12 tuổi tại
thành phố Thủ Dầu Một (TP TDM), tỉnh Bình Dương năm 2012.
Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu cắt ngang với cỡ mẫu gồm 420 học sinh 12 tuổi được khám răng
mặt để xác định các đặc điểm khớp cắn, nhu cầu điều trị CHRM của học sinh theo IOTN; xác định yêu cầu điều
trị CHRM của học sinh qua bảng câu hỏi.
Kết quả: Đặc điểm sai khớp cắn có tỷ lệ cao nhất là sai lệch vị trí răng >2mm (61,7%), kế đến là cắn chìa
>4mm (13,8%), cắn phủ >4mm (12,6%), cắn chéo răng trước (10,2%), cắn chéo răng sau (6,4%); tương quan
răng cối theo phân loại Angle hạng I (66%), hạng II (3,6%), hạng III (11%). Học sinh có nhu cầu điều trị CHRM
về sức khỏe răng (DHC-IOTN) là 48,3%, về thẩm mỹ răng (AC-IOTN) là 25,5%, có yêu cầu điều trị CHRM là
18,3%. Không có sự khác biệt có ý nghĩa về nhu cầu, yêu cầu điều trị CHRM giữa học sinh nam và nữ, giữa
thành thị và nông thôn (p>0,05).
Kết luận: Tỷ lệ sai khớp cắn và nhu cầu điều trị CHRM của học sinh 12 tuổi tại TP TDM, tỉnh Bình Dương
năm 2012 khá cao. Nhu cầu điều trị CHRM cao hơn yêu cầu điều trị CHRM của học sinh. Các yếu tố có ý nghĩa
dự báo yêu cầu điều trị CHRM của học sinh là: sai lệch vị trí răng >2mm, sự không hài lòng của học sinh về hàm
răng, yêu cầu điều trị CHRM của phụ huynh cho con.
Từ khóa: sai khớp cắn, nhu cầu điều trị CHRM, yêu cầu điều trị CHRM

ABSTRACT
ORTHODONTIC TREATMENT NEED AND DEMAND OF SCHOOL CHILDREN AGED 12 YEARS IN
THU DAU MOT CITY, BINH DUONG PROVINCE (2012)
Nguyen Thi Kim Yen, Nguyen Thi Kim Anh
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 17 - Supplement of No 2 - 2013: 97 - 104


Objective: To assess the normative need, demand for orthodontic treatment and related factors
schoolchildren aged 12 years in Thu Dau Mot city, Binh Duong province (2012).
Methods: Cross-sectional study. The sample consisted of 420 schoolchildren aged 12 years in Thu Dau Mot
city, Binh Duong province, randomly selected from different geographical area. The orthodontic treatment needs
(IOTN) and occlusal features were calculated for the total sample. The related factors and demand for orthodontic
treatment were assessed with a questionnaire.
Results: The malocclusion traits were: contact point displacement >2mm (61.7%), overjet >4mm (13.8%),
overbite >4mm (12.6%), anterior crossbite (10.2%), posterior crossbite (6.4%). According to the classification of
Angle, the prevalence of Class I, Class II, and Class III malocclusions was 66%, 3.6% and 11%. The DHC and the
AC of the IOTN classified respectively 48.3% and 25.5% of the children as having a definite need for orthodontic
treatment. 18.3% of the schoolchildren expressed a demand for orthodontic treatment There were no significant
* Bệnh Viện đa khoa tỉnh Bình Dương, ** Khoa Răng Hàm Mặt, Đại học Y Dược TP.HCM
Tác giả liên lạc: ThS.BSCKII Nguyễn Thị Kim Yến, ĐT: 0918350707, Email:

Chuyên Đề Răng Hàm Mặt

97


Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 2 * 2013

gender or geographical areas differences concerning this need, demand for orthodontic treatment.
Conclusion: The prevalence of malocclusion and the need for orthodontic treatment were high. The
prevalence of need for orthodontic treatment far exceeds the demand of schoolchildren. Contact point displacement
>2mm, dissatisfaction with dental appearance and parents' desire for treatment are strong predictors for
schoolchildren' demand for orthodontic treatment.
Key words: Malocclusion, orthodontic treatment need, orthodontic treatment demand, IOTN
ngẫu nhiên phân tầng theo thành thị và nông

ĐẶT VẤN ĐỀ
thôn. Đặc điểm của mẫu là trẻ có sức khỏe bình
Khảo sát nhu cầu điều trị CHRM trong các
thường, chưa được điều trị CHRM.
điều tra dịch tễ về sức khỏe răng miệng là xác
Phương pháp nghiên cứu
định tình trạng sai khớp cắn, tình trạng thẩm
Thiết kế nghiên cứu
mỹ răng miệng của cộng đồng và xác định các
đối tượng cần phải được điều trị CHRM. Đánh
Cắt ngang mô tả.
giá nhu cầu và yêu cầu điều trị CHRM không
Phương tiện nghiên cứu
chỉ là vấn đề quan trọng của các nhà dịch tễ
Dụng cụ khám răng, thước đo (thước IOTN),
mà còn là vấn đề quan tâm của các nhà điều
phiếu khám, bảng câu hỏi, hóa chất kiểm soát
trị lâm sàng CHRM, cũng như của các nhà
nhiễm khuẩn. Nội dung chính của bảng câu hỏi
hoạch định chính sách.
gồm: nguồn thông tin về CHRM, sự hài lòng về
Đã có nhiều nghiên cứu trên thế giới về nhu
hàm răng của học sinh, yêu cầu điều trị CHRM.
cầu và yêu cầu điều trị CHRM. Tỷ lệ nhu cầu và
Các biến số nghiên cứu và cách đánh giá
yêu cầu điều trị CHRM thay đổi tùy thuộc vào
Khám răng mặt và sử dụng thước IOTN để
cộng đồng dân cư do có sự khác nhau về điều
xác
định các đặc điểm khớp cắn (tương quan

kiện, ý thức chăm sóc răng miệng, về văn hóa,
răng cối theo phân loại của Angle, độ cắn chìa,
kinh tế xã hội cũng như nhận thức về thẩm mỹ.
độ cắn phủ, cắn chéo răng sau, sai lệch vị trí
Tỉnh Bình Dương hiện nay chưa có nghiên
răng) và nhu cầu điều trị CHRM của học sinh
cứu nào về vấn đề này. Tiến hành điều tra nhu
theo IOTN.
cầu và yêu cầu điều trị CHRM của học sinh tại
Đánh giá yêu cầu điều trị CHRM của học
thành phố Thủ Dầu Một (TP TDM), tỉnh Bình
sinh
và các yếu tố liên quan qua bảng câu hỏi.
Dương là việc làm cần thiết, là cơ sở để lập kế
Đánh giá yêu cầu điều trị CHRM của phụ
hoạch phù hợp về nhân sự, đào tạo, ngân sách…
huynh cho con qua bảng câu hỏi.
dành cho chương trình chăm sóc sức khoẻ răng
miệng nói chung và CHRM nói riêng tại tỉnh
Các yếu tố liên quan với nhu cầu, yêu cầu
Bình Dương.
điều trị CHRM là: giới tính, vùng địa dư, đặc

Mục tiêu nghiên cứu
Xác định tỷ lệ các đặc điểm sai khớp cắn, nhu
cầu, yêu cầu điều trị CHRM của học sinh 12 tuổi
tại TP TDM tỉnh Bình Dương năm 2012 và các
yếu tố liên quan.

ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

Đối tượng nghiên cứu
420 học sinh 12 tuổi tại các trường trung học
cơ sở tại TP TDM tỉnh Bình Dương được chọn

98

điểm khớp cắn, nguồn thông tin CHRM, sự
không hài lòng về hàm răng.

Xử lý - Phân tích sô liệu
Nhập số liệu và phân tích với phần mềm
SPSS for Windows 19. Sử dụng chỉ số Kappa,
phép kiểm Chi-square, phép kiểm xác suất chính
xác Fisher, phân tích hồi quy logistic đa biến.

KẾT QUẢ - BÀN LUẬN
Mẫu nghiên cứu gồm: 360 học sinh ở tầng

Chuyên Đề Răng Hàm Mặt


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 2 * 2013
thành thị và 60 học sinh ở tầng nông thôn phù
hợp với tỷ lệ tổng số học sinh theo vùng địa dư
(86 % là thành thị và 14 % là nông thôn); có 168
học sinh nam (40 %) và 252 học sinh nữ (60 %).
Không có sự khác biệt về giới giữa thành thị và
nông thôn (p>0,05).

Đặc điểm khớp cắn

Đặc điểm sai khớp cắn có tỷ lệ cao nhất là sai
lệch vị trí răng (61,7 %), kế đến là cắn chìa >4mm
(13,8%), cắn phủ >4mm (12,6%), cắn chéo răng
trước (10,2%), cắn chéo răng sau (6,4%). Học sinh
12 tuổi tại TP TDM tỉnh Bình Dương trong
nghiên cứu này có tương quan răng cối theo
phân loại của Angle như sau: nhiều nhất là hạng
I (66%), hạng III (11%) nhiều hơn hạng II (3,6%);
có 10,7 % tương quan răng cối hai bên phải và
trái khác nhau, có 8,8% không xác định tương
quan răng cối do mất (hoặc vỡ) răng cối lớn thứ
nhất. Kết quả này tương tự với nghiên cứu của
Đống Khắc Thẩm, Hoàng Tử Hùng (2000)(10), và
nghiên cứu của Chu CH (2009) ở Hồng Kông(9).

Nhu cầu điều trị CHRM
Nghiên cứu đánh giá nhu cầu điều trị
CHRM theo IOTN(6) và sử dụng thước IOTN để
xác định các mức độ về sức khỏe răng (DHCIOTN)(2,8,14,21). Thước IOTN với các vạch đã được
định mức sẵn giúp cho việc xác định các mức độ
về sức khỏe răng được chính xác, nhanh chóng.
Khi khám răng ở cộng đồng, sử dụng thước
thông thường để đo thì rất khó thấy và cần
nhiều thời gian.
Học sinh có nhu cầu (cần điều trị CHRM) về
sức khỏe răng (DHC-IOTN) là 48,3%, về thẩm
mỹ răng (AC-IOTN) là 25,5%. Tỷ lệ học sinh cần
điều trị CHRM (mức 4-5 DHC-IOTN) trong
nghiên cứu của chúng tôi khá cao, tương tự các
nghiên cứu nhu cầu điều trị CHRM đánh giá

theo IOTN ở lứa tuổi 12 trên thế giới ở
Malaysia(1), Senegan(16), Thụy Sỹ(8). Do đó, cần
tăng cường biện pháp CHRM phòng ngừa,
CHRM can thiệp cho học sinh tại TP TDM tỉnh
Bình Dương.
Nhu cầu điều trị CHRM đánh giá theo

Chuyên Đề Răng Hàm Mặt

Nghiên cứu Y học

IOTN không có sự khác biệt có ý nghĩa giữa
học sinh nam và nữ, giữa thành thị và nông
thôn tại TP TDM tỉnh Bình Dương (p>0,05).
Kết quả này tương tự như các nghiên cứu ở
Nepal(22), Pháp(23), Thổ Nhĩ Kỳ(25). Nghiên cứu
tại TP HCM(26), Đồng Nai(24), Đà Nẵng(17) đã cho
thấy không có sự khác biệt có ý nghĩa về nhu
cầu điều trị CHRM theo giới.
Kết quả nghiên cứu cho thấy có sự nhất trí
trung bình giữa nhu cầu điều trị CHRM đánh
giá về sức khỏe răng (DHC-IOTN) và thẩm mỹ
răng (AC-IOTN) (chỉ số Kappa là 0,53). Nhu cầu
điều trị CHRM về sức khỏe răng (DHC-IOTN)
(48,3%) cao hơn nhu cầu điều trị CHRM về thẩm
mỹ răng (AC-IOTN) (25,5%) và sự khác biệt này
có ý nghĩa thống kê (p<0,001). Sự khác nhau này
là do nhu cầu điều trị CHRM về sức khỏe răng
(DHC-IOTN) được xác định căn cứ vào các đặc
điểm sai khớp cắn. Mất răng cối lớn, răng cối

nhỏ mọc lệch, cắn chéo răng sau, cắn sâu gây
chấn thương nướu, ảnh hưởng nhiều đến sức
khỏe răng miệng, nhưng về mặt thẩm mỹ, các
bất thường này không được chú ý. Trong khi
nhu cầu điều trị CHRM về thẩm mỹ răng (ACIOTN) chỉ đánh giá các khía cạnh thẩm mỹ của
khớp cắn nhìn từ phía trước (do đó, nhu cầu
điều trị về thẩm mỹ răng có ít hơn), và có nhiều
tính chủ quan.
Nghiên cứu này cho thấy có sự liên quan
có ý nghĩa giữa nhu cầu điều trị CHRM về sức
khỏe răng (DHC-IOTN) và các đặc điểm sai
khớp cắn của học sinh như: cắn chéo răng
trước (p<0,05), cắn phủ> 4mm (p<0,01), cắn
chéo răng sau (p<0,001), sai lệch vị trí răng
>2mm (p<0,001). Trong các học sinh cần điều
trị CHRM ở TP TDM tỉnh Bình Dương (2012),
các đặc điểm sai khớp cắn chiếm tỷ lệ nhiều
nhất là sai lệch vị trí răng (trong đó, sai lệch vị
trí răng>4mm là 29%), kế đến là cắn phủ
>4mm (18,7%), cắn chìa >4mm (16,3 %).
Có thể do tỷ lệ sai lệch vị trí răng khá cao nên
nhu cầu điều trị CHRM về sức khỏe răng trong
nghiên cứu này nhiều hơn các nghiên cứu trong
nước tại TP HCM (21%) (26), Đồng Nai (26,4%)(24),

99


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 2 * 2013


Nghiên cứu Y học
Đà Nẵng (32%)(17) (Bảng 1).

Bảng 1. Nhu cầu, yêu cầu điều trị CHRM đánh giá
theo IOTN của các nghiên cứu thực hiện ở Việt Nam.
ðịa ñiểm
(tỉnh)
ðà Nẵng
(17)
(2003)
TP.HCM
(26)
(2006)
ðồng Nai
(24)
(2011)
Bình Dương
2012

Cỡ Tuổi DHC (%)
AC (%)
Yêu
mẫu
(mức 4-5) (Ảnh 8 – 10) cầu (%)
425
12
4,9
75,3
32
143


11

386

9-11

420

12

21
26.4
48,3

17,5
17,9

56

25,5

18,3

Nói chung, sai khớp cắn thường gặp trong
các đối tượng có nhu cầu điều trị CHRM (mức 45 của DHC-IOTN) là sai lệch vị trí răng(1, 4, 7, 11).
Nguyên nhân gây sai lệch vị trí răng thường
gặp nhất là do thiếu khoảng mọc răng. Thiếu
khoảng có thể do sâu răng mặt bên làm giảm
kích thước gần - xa của răng sữa dẫn đến thiếu

chỗ cho răng thay thế, do răng sữa mất sớm,
khoảng mất răng hẹp lại vì các răng kế cận
nghiêng, di chuyển vào khoảng trống do mất
răng. Do vậy, việc giữ gìn bộ răng sữa có thể
giúp duy trì chức năng ăn nhai và ngăn ngừa bất
hài hòa của chiều dài, chiều ngang cung răng.
Ngành RHM tại Bình Dương chưa có đơn vị
chuyên điều trị cho răng trẻ em. Nhân lực
chuyên trách về công tác Nha học đường tại TP
TDM tỉnh Bình Dương nói riêng và tỉnh Bình
Dương nói chung quá ít. Thực tế, đa số phụ
huynh chưa biết rõ tầm quan trọng của bộ răng
sữa, không chú trọng đến việc bảo tồn và phục
hồi các răng sữa, không muốn trám răng sữa sâu
mà chỉ muốn nhổ răng (thậm chí còn nhổ răng
cối lớn thứ nhất).
Học sinh sống ở nông thôn mất (hoặc vỡ lớn)
răng cối lớn thứ nhất (18,3%) nhiều hơn học sinh
sống ở thành thị (7,2%), sự khác biệt này có ý
nghĩa thống kê (p<0,01). Về vùng địa dư, học
sinh và phụ huynh sống ở nông thôn chưa quan
tâm chăm sóc các răng sau (có lẽ do các răng này
không ảnh hưởng trực tiếp đến thẩm mỹ, và
nghĩ là còn răng mọc thay thế).
Răng hô, răng mọc không đều hoặc sai khớp

100

cắn không những gây bất hài hòa về mặt thẩm
mỹ và chức năng giữa các cấu trúc sọ mặt, mà

còn ảnh hưởng về mặt tâm lý, làm giảm sự tự tin
trong giao tiếp của bệnh nhân. Các mục đích của
điều trị CHRM là: cải thiện chức năng của bộ
răng, cải thiện sức khỏe răng miệng, cải thiện
thẩm mỹ răng mặt(5). Những vấn đề này không
chỉ là thẩm mỹ mà còn có ảnh hưởng nhiều đến
chất lượng cuộc sống. Tại Việt Nam nói riêng và
trên thế giới nói chung, nhu cầu điều trị CHRM
tăng cùng với sự phát triển của dân số và sự phát
triển của kinh tế xã hội.

Yêu cầu điều trị CHRM
Học sinh có yêu cầu (muốn điều trị
CHRM) là 18,3%. Yêu cầu điều trị CHRM của
học sinh TP TDM tỉnh Bình Dương ít hơn kết
quả nghiên cứu ở Đồng Nai (56%)(24), TP Đà
Nẵng (75,3%)(17) (Bảng 1).
Nghiên cứu cho thấy không có sự khác biệt
có ý nghĩa về yêu cầu điều trị CHRM giữa học
sinh nam và nữ (p>0,05). Kết quả này tương tự
như các nghiên cứu trong nước tại TPHCM(26),
Đồng Nai(24), TP Đà Nẵng(17) và nước ngoài ở Ý(18),
Tây Ban Nha(20). Tuy nhiên, Hassan AH (2006)
khảo sát 743 sinh viên (17- 24 tuổi) ở Tây Ban
Nha, kết quả là nữ có yêu cầu điều trị nhiều hơn
nam(12). Kết quả khác nhau giữa các nghiên cứu
có thể do các lứa tuổi nghiên cứu khác nhau. Ở
lứa tuổi 12, mối quan tâm về thẩm mỹ giữa nam
và nữ chưa có sự khác biệt rõ, khi lớn hơn (17- 24
tuổi), nữ đã có sự quan tâm về thẩm mỹ nhiều

hơn nam.
Kết quả của nghiên cứu là không có sự khác
biệt có ý nghĩa về yêu cầu điều trị CHRM học
sinh tại TP TDM tỉnh Bình Dương giữa thành thị
và nông thôn (p>0,05).

Sai khớp cắn và yêu cầu điều trị CHRM của
học sinh
Có sự liên quan có ý nghĩa thống kê giữa yêu
cầu điều trị CHRM của học sinh với các sai khớp
cắn như: cắn chìa >4 mm (p<0,001), cắn chéo
răng trước (p<0,05), cắn phủ >4 mm (p<0,05), sai
lệch vị trí răng >2mm (p<0,001). Đây chính là các

Chuyên Đề Răng Hàm Mặt


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 2 * 2013
đặc điểm sai khớp cắn biểu hiện ở vùng răng
trước, rất dễ nhìn thấy và ảnh hưởng nhiều đến
thẩm mỹ. Điều này, tương tự với kết quả của

Nghiên cứu Y học

Josefsson E (2009) là học sinh có yêu cầu điều trị
CHRM khi có các sai khớp cắn dễ thấyở vùng
răng trước(13).

Bảng 2. Phân tích hồi quy logistic các yếu tố liên quan đến yêu cầu điều trị CHRM của học sinh.
Các yếu tố

Sai lệch vị trí răng
≤2 (mm)
>2 (mm)
DHC-IOTN
Không cần
Cần ñiều trị
AC- IOTN
Không cần
Cần ñiều trị
Nguồn thông tin về CHRM của học sinh
Chưa biết
Biết **
Hài lòng của học sinh
Hài lòng
Không
Yêu cầu của phụ huynh
Không muốn
Muốn

OR chưa hiệu chỉnh
(KTC 95%)

OR hiệu chỉnh (*)
(KTC 95%)

1
8,1 (3,6 – 18,2)

1
4,3 (1,6 –11,8)


<0,01

1
2,8 (1,7 – 4,8)

1
0,5 (0,2 – 1,3)

>0,05

1
3,9 (2,3 – 6,5)

1
1,2 (0,5 – 2,9)

>0,05

1
1,9 (1,1 – 3,2)

1
1,4 (0,7– 3,0)

>0,05

1
0,05 (0,03 – 0,1)


1
8,8 (4,2 – 18,3)

<0,001

1
23,1 (12,5 – 42,7)

1
11,9 (5,8 – 24,7)

<0,001

p

2

Kiểm định χ , hồi quy logistic: (*) OR đã hiệu chỉnh khi xét chung tất cả các yếu tố trong bảng, giới tính của học sinh và vùng
địa dư.

Qua phân tích hồi quy logistic, học sinh có
sai lệch vị trí răng > 2 mm có khuynh hướng
muốn điều trị CHRM gấp 4,3 lần học sinh có sai
lệch vị trí răng ≤2 mm (Bảng 2). Cần phải tăng
cường giáo dục SKRM, nâng cao nhận thức về
hậu quả trầm trọng của các đặc điểm sai khớp
cắn, để người dân biết và có yêu cầu điều trị
CHRM không chỉ khi có răng hô, răng mọc lệch
mà còn khi có cắn chéo răng sau, cắn hở…


Nguồn thông tin về CHRM và yêu cầu điều
trị CHRM của học sinh
Phần lớn học sinh trong nghiên cứu chưa
biết về CHRM (38,5%). Nguồn cung cấp thông
tin CHRM qua bác sỹ RHM (16%), có 24,5% học
sinh biết qua phương tiện truyền thông, 21% học
sinh biết qua người thân. Tỷ lệ học sinh ở nông
thôn chưa biết về CHRM (51,7%) nhiều hơn ở
thành thị (36,4%), sự khác biệt này có ý nghĩa
thống kê (p<0,05).
Với mức độ tiếp cận về CHRM không nhiều,

Chuyên Đề Răng Hàm Mặt

nguồn cung cấp thông tin CHRM qua bác sỹ
RHM (có giá trị về mặt chuyên môn) quá ít, học
sinh (đặc biệt là ở nông thôn) chưa hiểu rõ về
điều trị CHRM nên tỷ lệ học sinh trong nghiên
cứu muốn điều trị CHRM còn ít.

Sự không hài lòng về hàm răng và yêu cầu
điều trị CHRM của học sinh
Đa số học sinh hài lòng về hàm răng của
mình (70%), không hài lòng về hàm răng (30%),
không có sự khác biệt có ý nghĩa về sự không hài
lòng về hàm răng giữa học sinh nam và nữ giữa
thành thị và nông thôn (p>0,05). Ở lứa tuổi 12,
nhận thức và sự quan tâm về thẩm mỹ giữa nam
và nữ chưa có sự khác biệt nhiều. Điều này góp
phần làm cho không có sự khác biệt có ý nghĩa

về yêu cầu điều trị CHRM của học sinh theo giới,
theo vùng địa dư.
Học sinh không hài lòng về hàm răng của
mình có khuynh hướng muốn điều trị CHRM
gấp 8,8 lần học sinh đã hài lòng (p<0,001) (Bảng

101


Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 2 * 2013

2). Tương tự, nghiên cứu của Badran SA (2010)
cho thấy: yếu tố quan trọng nhất ảnh hưởng yêu
cầu điều trị CHRM là sự không hài lòng về hàm
răng của học sinh(3).
Học sinh ở TP TDM, tỉnh Bình Dương (2012)
không hài lòng về hàm răng của mình do răng
mọc không đều 60%, kế đến là do hô (11,9%),
móm (7,9%). Nghiên cứu của Wang G (1999) cho
thấy khoảng 2/3 trẻ em không hài lòng về hàm
răng của chính mình, nhưng chỉ có 40% trong số
này có yêu cầu điều trị CHRM(27).
Vì sao các học sinh ở TP TDM tỉnh Bình
Dương không muốn điều trị CHRM? Đó là do
học sinh đã hài lòng với hàm răng của mình
(72,8%), do sợ nhổ răng (27,2%).
Nếu học sinh biết về CHRM nhiều hơn, hoặc
được bác sĩ khám và tư vấn sẽ biết lợi ích của

điều trị CHRM (cải thiện thẩm mỹ, chức năng và
tâm lý), hoặc ở lứa tuổi lớn hơn trẻ sẽ chấp nhận
nhổ răng để điều trị cải thiện thẩm mỹ, thì có thể
tỷ lệ học sinh muốn điều trị CHRM sẽ tăng lên.

Yêu cầu điều trị CHRM của phụ huynh cho
con
Có 23,3% phụ huynh ở TP TDM tỉnh Bình
Dương muốn điều trị CHRM cho con, không
muốn điều trị là 76,7%. Tỷ lệ phụ huynh muốn
điều trị CHRM cho con ở TP TDM tỉnh Bình
Dương ít hơn các nghiên cứu thực hiện tại Đồng
Nai (68,6%)(24), TP. Hồ Chí Minh (51,7%)(26), Đà
Nẵng (53,4%)(17).
Kết quả nghiên cứu cho thấy không có sự
khác biệt có ý nghĩa về yêu cầu điều trị CHRM
của phụ huynh theo giới của học sinh, theo vùng
địa dư (p>0,05). Phụ huynh ở vùng nông thôn
chưa biết về CHRM (38,3%) nhiều hơn vùng
thành thị (12,5%). Tỷ lệ phụ huynh chưa biết về
CHRM ở TP TDM, tỉnh Bình Dương (16,2%)
tương đương với phụ huynh học sinh ở Đồng
Nai (16,8%)(24) và nhiều hơn của phụ huynh học
sinh ở TP HCM (7%)(26).
Phụ huynh muốn điều trị CHRM cho con thì
khuynh hướng học sinh có yêu cầu điều trị
CHRM tăng gấp 11,9 lần so với học sinh mà phụ

102


huynh không muốn điều trị CHRM cho con
(Bảng 2). Theo Marque LS (2009) yêu cầu điều trị
CHRM của phụ huynh cho con, sai lệch vị trí
răng >2mm là các yếu tố liên quan có ý nghĩa
đến yêu cầu điều trị CHRM của học sinh(15). Ở trẻ
12 tuổi, nhận thức và sự quan tâm về thẩm mỹ
chưa cao, các yêu cầu của trẻ còn phụ thuộc
nhiều vào cha mẹ. Mong muốn điều trị CHRM
cho con của phụ huynh có ảnh hưởng rất lớn
đến điều trị CHRM của học sinh.
Phụ huynh muốn điều trị CHRM cho con
chủ yếu vì lý do thẩm mỹ ( để con đẹp hơn
61,8%), vì lý do chức năng có ít hơn (để con ăn
nhai tốt hơn 20,6 %), kế đến là để dễ chãi răng
(13,7 %), (lý do khác là 3,9%). Mong muốn cải
thiện thẩm mỹ là động cơ chủ yếu, là sự quan
tâm lớn nhất để bệnh nhân muốn được điều trị
CHRM(19). Nhận thức về thẩm mỹ phụ thuộc vào
từng dân tộc và từng giai đoạn lịch sử. Đối với
người Việt, nét mặt nhìn nghiêng hơi nhô hoặc
răng mọc lệch vẫn chấp nhận được. Do đó, phụ
huynh và học sinh chỉ đến khám khi các sai lệch
của trẻ quá trầm trọng. Một số người không
nhận ra vấn đề cần điều trị, một số khác cảm
thấy cần điều trị nhưng không đủ khả năng cho
chi phí điều trị(19).

Liên quan nhu cầu và yêu cầu điều trị
CHRM
Kết quả nghiên cứu có sự liên quan có ý

nghĩa giữa nhu cầu và yêu cầu điều trị CHRM
của học sinh (p<0,001). Tuy nhiên, qua phân tích
hồi quy logistic đa biến, nhu cầu điều trị CHRM
về sức khỏe răng (DHC-IOTN) và thẩm mỹ răng
(AC-IOTN) không là yếu tố có ý nghĩa dự báo
yêu cầu điều trị CHRM của học sinh (Bảng 2).
Do đó, để thiết lập chương trình về CHRM
không những phải ước lượng nhu cầu mà còn
phải ước lượng yêu cầu điều trị CHRM.
Nhu cầu điều trị CHRM theo IOTN cao hơn
yêu cầu điều trị CHRM của học sinh ở TP TDM
tỉnh Bình Dương năm 2012. Có sự khác biệt có ý
nghĩa giữa tỷ lệ nhu cầu và yêu cầu điều trị
CHRM tương tự như kết quả của các nghiên cứu

Chuyên Đề Răng Hàm Mặt


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 2 * 2013
trong nước tại TP HCM (26), Đồng Nai (24), TP Đà
Nẵng (17) và nước ngoài tại Pêru (4), Jordan(11),
Thụy Điển(13), Senegan (16). Sự khác biệt này là do
các bác sĩ RHM đánh giá nhu cầu điều trị CHRM
chủ yếu dựa vào các sai khớp cắn và chức năng,
có tính khách quan nhất định. Trong khi, yêu cầu
điều trị CHRM có tính chủ quan, phụ thuộc vào
điều kiện kinh tế, nhận thức thẩm mỹ của từng
cá nhân, văn hóa, chủng tộc, giới tính, tuổi…
Chỉ số Kappa giữa yêu cầu điều trị CHRM
của học sinh ở TP TDM tỉnh Bình Dương và nhu

cầu điều trị (DHC-IOTN) là 0,15; (AC-IOTN) là
0,25. Như vậy, có sự nhất trí tương đối thấp giữa
nhu cầu và yêu cầu điều trị CHRM. Rõ ràng, có
các học sinh cần phải điều trị CHRM nhưng học
sinh và phụ huynh đều chưa quan tâm, chưa
nhận ra vấn đề cần phải điều trị, chưa biết về
CHRM nên không có yêu cầu điều trị CHRM.
Do đó, cần phổ biến cho người dân về hậu quả
trầm trọng của các sai khớp cắn và lợi ích của
CHRM phòng ngừa. Đây chính là biện pháp
hiệu quả và kinh tế trong chăm sóc sức khỏe
răng miệng.

KẾT LUẬN
Đặc điểm sai khớp cắn của học sinh 12 tuổi ở
TP TDM tỉnh Bình Dương có tỷ lệ cao nhất là sai
lệch vị trí răng >2mm (61,7 %), kế đến là cắn chìa
>4mm (13,8%), cắn phủ >4mm (12,6%), cắn chéo
răng trước (10,2%), cắn chéo răng sau (6,4%).
Nhu cầu điều trị CHRM khá cao và cao hơn
yêu cầu điều trị CHRM của học sinh. Học sinh
cần điều trị CHRM về sức khỏe răng là 48,3%, về
thẩm mỹ răng là 25,5%, có yêu cầu điều trị
CHRM là 18,3. Không có sự khác biệt có ý nghĩa
về nhu cầu, yêu cầu điều trị CHRM giữa học
sinh nam và nữ, giữa thành thị và nông thôn.
Các yếu tố có ý nghĩa dự báo yêu cầu điều trị
CHRM của học sinh là: sai lệch vị trí răng >2mm,
sự không hài lòng của học sinh về hàm răng, yêu
cầu điều trị CHRM của phụ huynh cho con.


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.

Abdullah MS, Rock WP (2001). Assessment of orthodontic
treatment need in 5.112 Malaysian children using the IOTN

Chuyên Đề Răng Hàm Mặt

2.

3.

4.

5.

6.
7.

8.

9.

10.

11.

12.


13.

14.

15.

16.

17.

18.

19.
20.

Nghiên cứu Y học

and DAI indices. Community Dent Health, 18(4):242-248.
Al-Azemi R, Artun J (2010). Orthodontic treatment need in
adolescent Kuwaitis: prevalence, severity and manpower
requirements. Med Princ Pract, 19(5):348-354.
Badran SA (2010). The effect of malocclusion and selfperceived aesthetics on the self-esteem of a sample of
Jordanian adolescents. Eur J Orthod 32(6): 638-644.
Bernabé E, Flores-Mir C (2006). Normative and self-perceived
orthodontic treatment need of a Peruvian university
population. Head Face Med, 2: 22.
Borzabadi-Farahani A (2011). An insight into four orthodontic
treatment need indices. Progress in Orthodontics, 12(2):132142.
Brook PH, Shaw WC (1989). The development of an index of
orthodontic treatment priority. Eur J Orthod, 20:20-309.

Burden DJ, Holmes A (1994). The need for orthodontic
treatment in the child population of the United Kingdom. Eur
J Orthod,16:395-399.
Cardoso CF, Drummond AF, Pretti H, Ferreira EF (2011). The
Dental Aesthetic Index and Dental Health Component of the
Index of Orthodontic Treatment Need as Tools in
Epidemiological Studies. Int J Environ Res Public Health, 8(8):
3277-3286.
Chu CH, Choy BH, Lo EC (2009). Occlusion and orthodontic
treatment demand among Chinese young adults in Hong
Kong. Oral Health Prev Dent, 7(1):83-91.
Đống Khắc Thẩm, Hoàng Tử Hùng (2001). Khảo sát tình
trạng khớp cắn ở người Việt trong độ tuổi 17-27. Tập san Hội
hình thái học Việt Nam, 11(2): 22-31.
Hamdan AM (2004). The relationship between patient, parent
and clinician perceived need and normative orthodontic
treatment need. Eur J Orthod, 26(3): 265-271.
Hassan AH (2006). Orthodontic treatment needs in the
western region of Saudi Arabia: a research report. Head Face
Med 18(2): 2.
Josefsson E, Bjerklin K, Lindsten R (2009). Factors determining
perceived orthodontic treatment need in adolescents of
Swedish and immigrant background. Eur J Orthod, 31(1):95102.
Lima RB, Paiva AC, Farias AC, Lima KC (2010). An analysis
of reproducibility of DAI and IOTN indexes in a Brazilian
scene. Cien Saude Colet, 15(3):785-792.
Marques LS, Pordeus IA, Ramos-Jorge ML, Pereira LJ, Paiva
SM (2009). Factors associated with the desire for orthodontic
treatment among Brazilian adolescents and their parents.
BMC Oral Health,9: 34.

Ngom PI, Diagne F, Dieye F, Diop-Ba K, Thiam F (2007).
Orthodontic Treatment Need and Demand in Senegalese
School Children Aged 12–13 Years. An Appraisal Using IOTN
and ICON. Angle Orthod, 77(2): 323-330.
Nguyễn Thị Ngân Hà (2002). Ước lượng nhu cầu điều trị
chỉnh hình răng mặt qua điều tra trên học sinh 12 tuổi thành
phố Đà Nẵng. Luận văn Thạc sỹ Y học. Đại học Y Dược TP.
Hồ Chí Minh: 49, 54, 58-60, 63-64.
Nobile CG, Pavia M, Fortunato L, Angelillo IF (2007).
Prevalence and factors related to malocclusion and
orthodontic treatment need in children and adolescents in
Italy. Eur J Public Health,17(6):637-641.
Proffit WR, Henry W, Fields JR (2007). Contemporary
Orthodontics. Chapter 1,5. Mosby. 3-23, 130-161.
Puertes-Fernández N, Montiel-Company JM, Almerich-Silla

103


Nghiên cứu Y học

21.

22.

23.

104

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 2 * 2013


JM, Manzanera D (2011). Orthodontic treatment need in a 12year-old population in the Western Sahara. Eur J Orthod,
(33):377-380.
Sarah HAG, Sundralingam S. (1995) A comparison of the
everity of malocclusion between two centres in the United
Kingdom and Malaysia: A preliminary investigation. Annals
Dent. Univ. Malaysia, 2:15-19.
Sharma JN (2009). Epidemiology of malocclusions and
assessment of orthodontic treatment need for the population
of eastern Nepal. World J Orthod, 10(4):311-316.
Souames M, Bassigny F, Zenati N, Riordan PJ, Boy-Lefevre
ML (2006).Orthodontic treatment need in French
schoolchildren: an epidemiological study using the Index of
Orthodontic Treatment Need. Eur J Orthod, 28(6):605-609.

24.

25.

26.

27.

Trần Thị Bích Hà (2010). Đánh giá nhu cầu và yêu cầu điều trị
chỉnh hình răng mặt của học sinh từ 9 đến 11 tuổi tại huyện
Thống Nhất, tỉnh Đồng Nai. Luận văn Thạc sỹ Y học. Đại học
Y Dược TP. Hồ Chí Minh: 103-104.
Uçüncü N (2001).The use of the Index of Orthodontic
Treatment need (IOTN) in a school population and referred
population. J Orthod, 28(1):45-52.

Vũ Thị Mai Anh (2006). Ước lượng nhu cầu và yêu cầu điều
trị chỉnh hình răng mặt của học sinh 11 tuổi tại thành phố Hồ
Chí Minh. Luận văn Thạc sỹ Y học. Đại học Y Dược TP. Hồ
Chí Minh: 45, 49.
Wang G, Hagg U, Ling J (1999). The orthodontic treatment
need and demand of Hong Kong Chinese children. Chin J
Dent Res, 2(3-4):84-92.

Chuyên Đề Răng Hàm Mặt



×