Tải bản đầy đủ (.pdf) (6 trang)

Tỷ lệ và các yếu tố nguy cơ của sa sút trí tuệ sau đột quị não

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (413.11 KB, 6 trang )

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 3 * 2013 

Nghiên cứu Y học

TỶ LỆ VÀ CÁC YẾU TỐ NGUY CƠ CỦA SA SÚT TRÍ TUỆ  
SAU ĐỘT QUỊ NÃO 
Nguyễn Thị Phương Nga*, Phạm Thị Mỹ Dung*, Lê Thị Thúy Uyên*, Trương Thị Trang*, Trương Kim Anh* 

TÓM TẮT 
Mục tiêu: chúng tôi xác định tỷ lệ và các yếu tố nguy cơ của sa sút trí tuệ sau đột quị não. 
Phương pháp nghiên cứu: cắt ngang. 102 bệnh nhân được chẩn đoán đột quị não 3 – 12 tháng trước và 
thỏa tiêu chuẩn chọn bệnh được đưa vào nghiên cứu. 
Kết quả: tỷ lệ sa sút trí tuệ sau đột quị là 35,3%. Không có sự khác biệt về giới tính và tỷ lệ các yếu tố nguy 
cơ mạch máu giữa nhóm có và không có sa sút trí tuệ sau đột quị. Sau khi phân tích đa biến, tuổi ≥ 75, học vấn 
dưới đại học, đột quị tái phát, teo não lan tỏa và tổn thương vùng chiến lược có liên quan độc lập với sa sút trí 
tuệ sau đột quị. 
Kết luận: Suy giảm nhận thức thường gặp sau đột quị não. Nhiều yếu tố độc lập góp phần vào nguy cơ này 
gồm tuổi ≥ 75, học vấn dưới đại học, đột quị tái phát, teo não lan tỏa và tổn thương vùng chiến lược. 
Từ khóa: yếu tố nguy cơ, sa sút trí tuệ, sau đột quỵ não 

ABSTRACT 
THE PREVALENCE AND CLINICAL DETERMINANTS OF POST‐STROKE DEMENTIA 
Nguyen Thi Phuong Nga, Pham Thi My Dung, Le Thi Thuy Uyen, Truong Thi Trang, 
 Truong Kim Anh* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 17 ‐ Supplement of No 3‐ 2013: 141 ‐ 146 
Objective:  The  aim  of  this  study  was  to  determine  the  prevalence  of  post‐stroke  dementia  (PSD)  and  its 
possible risk factors 3 – 12 months after stroke.  
Methods: 102 patients were hospitalized with a diagnosis of stroke 3 – 12 months ago and met the inclusion 
criteria  were  included  in  the  study.  All  patients  underwent  a  detailed  neurological  examination  and  clinical 
interview to determine the sociodemographic features, vascular risk factors and characteristics of cerebrovascular 
disease. Cranial imaging were also conducted. The cognitive status of the patients were evaluated with the Mini 
Mental  State  Examination  (MMSE).  Dementia  at  3  –  12  month  after  stroke  was  diagnosed  according  to  the 


criteria of the Diagnostic and Statistical Manual of Mental Disorders‐IV (DSM‐IV). 
Results: Of the 102 patients included in the study, 36 (35.3%) were diagnosed with post‐stroke dementia. 
There was no difference by sex and vascular risk factors among those with or without post‐stroke dementia. After 
multivariate adjustment, aged over 70 years (0.013), lower level of education (p = 0.007), recurrent stroke (p = 
0.002), brain atrophy (p = 0.007) and strategic infarct (p = 0.03) were significantly associated with post‐stroke 
dementia.  
Conclusion:  Cognitive  decline  is  common  after  stroke.  Our  data  suggest  that  multiple  factors  including 
host characteristics (aged over 70 years, lower level of education), stroke features (brain atrophy, strategic infarct), 
and prior stroke each independently contribute to the risk. 
Keywords: risk factors, post‐stroke dementia 

* Bệnh viện Thống Nhất TP Hồ Chí Minh 
Tác giả liên lạc: BS. Nguyễn Thị Phương Nga  

ĐT: 0908190633  

Hội Nghị Khoa Học Nội Khoa Toàn Quốc năm 2013 

 Email:   

141


Nghiên cứu Y học 

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 3 * 2013

ĐẶT VẤN ĐỀ 
Sa  sút  trí  tuệ  mạch  máu  là  một  thể  của  sa 
sút  trí  tuệ,  bao  gồm  sa  sút  trí  tuệ  sau  đột  quị 

não  (poststroke  dementia).  Sa  sút  trí  tuệ  sau 
ĐQ  não  được  định  nghĩa  là  sa  sút  trí  tuệ  3 
tháng sau ĐQ, không phụ thuộc vào thời gian 
xuất hiện của sa sút trí tuệ[2]. Các thể sa sút trí 
tuệ  khác  nhau  có  các  yếu  tố  nguy  cơ  khác 
nhau.  Mặc  dù  có  một  số  nghiên  cứu  trong  và 
ngoài nước nhưng cho đến nay tỷ lệ và các yếu 
tố  tiên  đoán  SSTT  sau  ĐQ  não  vẫn  còn  chưa 
được  thống  nhất.  Do  đó  chúng  tôi  thực  hiện 
nghiên cứu này nhằm các mục tiêu sau:  
1. Xác định tỷ lệ của sa sút trí tuệ sau ĐQ 
não. 

Chức  năng  nhận  thức:  Điểm  MMSE  với 
điểm cắt 24 (< 24 điểm: có suy giảm nhận thức, ≥ 
24 điểm: không suy giảm nhận thức). 
SSTT được chẩn đoán bằng tiêu chuẩn DSM 
–  IV.  SSTT  sau  ĐQ  (poststroke  dementia)  được 
định nghĩa là SSTT 3 tháng sau ĐQ, không phụ 
thuộc vào thời gian xuất hiện của SSTT(7). 
Các biến số khác: tuổi, giới, trình độ học vấn, 
tình trạng làm việc, tình trạng hôn nhân, số lần 
đột quị não, tăng huyết áp, đái tháo đường, rung 
nhĩ,  bệnh  tim  TMCB,  hút  thuốc  lá,  đặc  điểm 
hình ảnh học cắt lớp điện toán/cộng hưởng từ.  

Xử lý và phân tích dữ liệu 

2. Xác định các yếu tố nguy cơ của sa sút trí 
tuệ sau ĐQ não.  


Dữ liệu được xử lý và phân tích bằng phần 
mềm  SPSS  11.5.  Mức  p  có  ý  nghĩa  là  <  0,05. 
Khoảng  tin  cậy  95%  được  xem  là  có  ý  nghĩa 
thống kê khi không chứa 1. 

ĐỐI TƯỢNG ‐ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 

KẾT QUẢ  

Đối tượng nghiên cứu 

Mẫu  nghiên  cứu  gồm  102  bệnh  nhân  ĐQ 
não  trong  vòng  3  ‐  12  tháng  trước  thời  điểm 
được đưa vào nghiên cứu. 

Tiêu chuẩn chọn bệnh 
Các bệnh nhân ĐQ não được chẩn đoán xác 
định trong vòng 3 – 12 tháng trước khi đưa vào 
nghiên cứu. 
Tỉnh táo lúc được đánh giá. 

Tiêu chuẩn loại trừ 
Sa  sút  trí  tuệ  Alzheimer  hoặc  các  nguyên 
nhân khác.  
Trầm cảm hoặc tâm thần phân liệt. 
Không  thể  hợp  tác  nghiên  cứu  (không  thể 
thực hiện các test tâm thần kinh). 

Phương pháp nghiên cứu 

Thiết kế nghiên cứu 
Cắt ngang. 
Mẫu 
Các  bệnh  nhân  ĐQ  não  trong  vòng  3  –  12 
tháng  trước  khi  được  đưa  vào  nghiên  cứu  từ 
tháng 9/2011 – 9/2012. Tổng cộng 102 trường hợp. 

Thu thập dữ liệu 
ĐQ não được chẩn đoán dựa và tiêu chuẩn 
của Tổ chức y tế thế giới.  

142

Tỷ lệ sa sút trí tuệ sau đột quị não là 35,3% 
(36 trong 102 bệnh nhân). 
Tuổi trung bình là 70,8 ± 9,7 (năm), nhỏ nhất 
là 37 tuổi và cao nhất là 91 tuổi. 
Nam chiếm tỉ lệ 76,5%, nữ 23,5%.  
Mẫu nghiên cứu có đặc điểm học vấn cao (≥ 
đại học 54,9%), phần lớn có vợ/chồng (85,3%), và 
không làm việc (87,3%). Thời điểm ĐQ cách thời 
điểm đưa vào nghiên cứu trung bình  6,1  tháng 
(6,1 ± 4,5). Nhồi máu não chiếm tỉ lệ 84,3%, xuất 
huyết não 15,7%. 
Phân tích đơn biến cho thấy tương quan có ý 
nghĩa thống kê giữa SSTT sau ĐQ với tuổi ≥ 70 
(p  <  0,001),  học  vấn  dưới  đại  học  (p  <  0,001), 
sống  cô  đơn  (p  =  0,006),  không  làm  việc  (p  = 
0,03),  ĐQ  não  tái  phát  (p  <  0,001),  teo  não  (p  < 
0,001), và tổn thương vị trí chiến lược (p = 0,019) 

(Bảng 1, 3).  Các  yếu  tố  nguy  cơ  mạch  máu  bao 
gồm  tăng  huyết  áp,  rung  nhĩ,  bệnh  tim  TMCB, 
hút thuốc lá, đái tháo đường không có liên quan 
có ý nghĩa thống kê với SSTT sau ĐQ (bảng 2).  

Hội Nghị Khoa Học Nội Khoa Toàn Quốc năm 2013 


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 3 * 2013 
Phân tích hồi qui đa biến (bảng 4) hiệu chỉnh 
toàn bộ  các biến định tính có ý  nghĩa  khi  phân 
tích đơn biến cho thấy chỉ các biến tuổi ≥ 70, học 
vấn < đại học, ĐQ não tái phát, teo não lan tỏa 
và tổn thương vị trí chiến lược có liên quan độc 
lập với SSTT sau ĐQ. 
Bảng 1: Các yếu tố kinh tế xã hội ở nhóm bệnh nhân 
có và không có SSTT sau ĐQ não: 
SSTT sau Không SSTT
Tổng số
sau ĐQ
ĐQ
(n = 102)
(n = 36)
(n = 66)

P
<
0,001º
<
0,001g

0,217g
<
0,001g
0,006g

Tuổi

76.7 (7.6)

67.6 (9.3)

Tuổi ≥ 70

29 (80,6)

29 (43,9)

58 (56,9)

Giới nữ
Học vấn <
đại học
Sống cô đơn
Không làm
việc

11 (30,6)

13 (19,7)


24 (23,5)

25 (69,4)

21 (31,8)

46 (45,1)

10 (27,8)

05 (7,6)

15 (14,7)

35 (97,2)

54 (81,8)

89 (87,3) 0,03*

Bảng  được  trình  bày  dưới  dạng  trung  bình 
(độ lệch chuẩn), tần suất (tỷ lệ %) 
* Fisher’s Exact test (hai chiều); g χ2; º t – test 

Bảng 2: Các yếu tố nguy cơ mạch ở nhóm bệnh nhân 
có và không có SSTT sau ĐQ não:   
SSTT sau Không SSTT
Tổng số
sau ĐQ
ĐQ

(n = 102)
(n = 36)
(n = 66)
Tăng huyết áp 33 (91,7)

P

55 (83,3)

88 (86,3) 0,368*

02 (5,6)

02 (3,0)

04 (3,9) 0,612*

Bệnh tim TMCB 20 (55,6)

32 (48,5)

52 (51,0) 0,495g

05 (13,9)

19 (28,8)

24 (23,5) 0,09g

Đái tháo đường 13 (36,1)


20 (30,3)

33 (32,4) 0,549g

Rung nhĩ

Hút thuốc lá

Bảng  được  trình  bày  dưới  dạng  trung  bình 
(độ lệch chuẩn), tần suất (tỉ lệ %) 
* Fisher’s Exact test (hai chiều); g χ2 

Bảng 3: Các đặc điểm của đột quị não ở nhóm bệnh 
nhân có và không có SSTT:   
Không Tổng số
SSTT
P
(n =
(n = 66) 102)
17 (47,2) 06 (9,1) 23 (22,5) < 0,001g
SSTT
(n = 36)

Đột quị > 1 lần
Thể ĐQ não
Nhồi máu não

29 (80,6) 57 (86,4)


86

Nghiên cứu Y học
Không Tổng số
SSTT
P
(n =
(n = 66) 102)
07 (19,4) 09 (13,6) 16
0,441g
SSTT
(n = 36)

Xuất huyết não
Bên tổn thương
Phải
Trái
2 bên
Teo não lan tỏa
Tổn thương vùng
một ổ
Tổn thương vùng
nhiều ổ
Tổn thương ≥ 1 ổ vị
trí chiến lược
Lổ khuyết không ở
vùng chiến lược

15 (41,7)
11 (30,6)

10 (27,8)
14 (38,9)

24 (36,4) 39
0,218º
31 (47,0) 42
11 (16,7) 21
04 (6,1) 18 (17,6) < 0,001g

03 (8,3)

02 (3,0) 05 (4,9)

0,342*

04 (11,1) 02 (3.0) 06 (5,9)

0,181*

12 (33,3) 09 (13,6) 21 (20,6) 0,019g
13 (36,1) 40 (60,6) 53 (52,0) 0,018g

Bảng  được  trình  bày  dưới  dạng  trung  bình 
(độ lệch chuẩn), tần suất (tỉ lệ %) 
* Fisher’s Exact test (hai chiều); g χ2; º Oneway Anova 

Bảng 4: Các yếu tố nguy cơ của SSTT sau ĐQ qua 
hồi qui logistic: 
Yếu tố nguy cơ OR hiệu chỉnh *
Tuổi ≥ 70

6,1
Học vấn < đại học
0,16
Cô đơn
2,1
Không làm việc
9,7
ĐQ não tái phát
9,5
Teo não lan tỏa
8,9
Tổn thương vị trí
5,1
chiến lược

(KTC 95%)
1,5 – 25,9
0,0 – 0,6
0,4 – 10,4
0,1 – 658,3
2,3 – 38,5
1,8 – 43,2

p
0,013
0,007
0,345
0,290
0,002
0,007


1,2 – 22,5

0,03

* hiệu chỉnh tuổi ≥ 70, học vấn < đại học, tình trạng cô đơn, 
không làm việc, ĐQ não tái phát, teo não lan tỏa và tổn 
thương vị trí chiến lược. 

BÀN LUẬN 
Tỷ lệ sa sút trí tuệ sau ĐQ  
Tỷ lệ SSTT tại thời điểm 3 ‐ 12 tháng sau ĐQ 
trong  nghiên  cứu  của  chúng  tôi  là  35,3%.  Sự 
khác  biệt  giữa  các  nghiên  cứu  về  tiêu  chuẩn 
chẩn đoán (DSM‐IIIR, DSM‐IV, ICD‐10, NINDS‐
AIREN,  ADDTC),  cách  chọn  mẫu  (từ  dân  số 
cộng đồng hay bệnh viện), các thang điểm đánh 
giá tình trạng nhận thức, và thời điểm đánh giá 
tình trạng nhận thức sau ĐQ làm cho tỷ lệ SSTT 
sau  ĐQ  của  các  nghiên  cứu  không  hoàn  toàn 
giống nhau (Bảng 5).  

Hội Nghị Khoa Học Nội Khoa Toàn Quốc năm 2013 

143


Nghiên cứu Y học 

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 3 * 2013


Bảng 5: Tỷ lệ sa sút trí tuệ sau ĐQ của các nghiên cứu theo dữ liệu bệnh viện 
Nghiên cứu

Chúng L.Ng N Tín Ng Mỹ Hạnh Pohjasvaara T.
tôi
Cỡ mẫu
102
218
74
337
Tiêu chuẩn chẩn đoán DSM-IV
DSM-IV
DSM-IV
DSM-III
Thang điểm
MMSE
MMSE
MMSE
WAIS-R
IADL
IADL
Tần suất %
35,3
40,4
27
31,8

Pendlebury S. T. và cs (2009) nhận thấy tỷ lệ 
SSTT  sau  ĐQ  của  nghiên  cứu  từ  dữ  liệu  bệnh 

viện cao hơn tỷ lệ từ dữ liệu cộng đồng [5]. Theo 
Rasquin  S.  M.  và  cs  (2005)  tỷ  lệ  SSTT  sau  ĐQ 
tương đối thống nhất giữa các nghiên cứu ngoại 
trừ  các  nghiên  cứu  dùng  tiêu  chuẩn  ICD‐10  và 
ADDTC(8). 
Tỷ  lệ  của  chúng  tôi  ở  giới  hạn  trên  của 
khoảng tỷ lệ bệnh theo báo cáo từ y văn (5,9% ‐ 
32%)(3). Tỷ lệ này tương đương tỷ lệ của các tác 
giả  Lê  Nguyễn  Nhựt  Tín  (40,4%),  Nguyễn  Mỹ 
Hạnh  (27%),  Pohjasvaara  T.  (31,8%),  Tamam  B. 
(30,2%)  vốn  có  tiêu  chuẩn  chẩn  đoán  và  các 
thang  điểm  đánh  giá  nhận  thức  giống  hoặc 
tương đương nhau(6,7,10,12). Tỷ lệ SSTT sau ĐQ của 
chúng tôi cao hơn của tác giả Khedr E. M. và cs 
(35,3% so với 21%); điều này có thể do mẫu của 
Khedr E. M chỉ gồm bệnh nhân ĐQ lần đầu và 
điểm  cắt  xác  định  suy  giảm  nhận  thức  theo 
thang  điểm  MMSE  thấp  hơn  của  chúng  tôi  (21 
so với 24)(2).  

Các yếu tố nguy cơ của SSTT sau ĐQ não 
Các nghiên cứu cho đến nay cũng như y văn 
đều cho thấy tuổi là yếu tố nguy cơ quan trọng 
của  SSTT  sau  ĐQ  não  cũng  như  bệnh 
Alzheimer(,2,4,6,7,8,9,10,11).  Trong  nghiên  cứu  của 
chúng  tôi,  tuổi  trung  bình  của  nhóm  SSTT  sau 
ĐQ cao hơn có có ý nghĩa thống kê so với nhóm 
không có SSTT sau ĐQ (76,7 so với 67,6 với p = 
0,001); và ≥ 70 tuổi có liên quan độc lập với SSTT 
sau ĐQ khi phân tích đa biến (p = 0,013). Tuổi là 

yếu  tố  nguy  cơ  quan  trọng  nhất  của  bệnh 
Alzheimer cũng như của đột quị não(12). Các yếu 
tố nguy cơ của bệnh mạch máu não thường gặp 
ở các bệnh nhân Alzheimer, và nhiều bệnh nhân 
được chẩn đoán SSTT sau ĐQ có suy giảm nhận 
thức trước đột quị(11). Điều này gợi ý rằng bệnh 

144

Tamam B.

Inzitari D.

Censori B.

106
DSM-IV
MMSE

339
ICD-10
MMSE

110
NINDS-AIREN
MMSE

30,2

16,8


24,6

học  của  bệnh  mạch  máu  não  và  bệnh  học  kiểu 
Alzheimer  có  thể  cùng  biểu  hiện  trên  một  tỉ  lệ 
nhất định các bệnh nhân SSTT sau ĐQ. Hay nói 
cách khác bệnh nhân lớn tuổi hơn bị ĐQ não thì 
có nguy cơ SSTT cao hơn.   
Trình độ học vấn được ghi nhận có liên quan 
với bệnh Alzheimer(3,12). Chúng tôi nhận thấy tỷ 
lệ bệnh nhân có học vấn dưới đại học ở nhóm có 
và không có SSTT sau ĐQ có sự  khác biệt  có  ý 
nghĩa  thống  kê  (69,4%  so  với  31,8%,  p  <  0,001); 
và  đây  là  tương  quan  độc  lập  khi  phân  tích  đa 
biến (p = 0,007). Các nghiên cứu khác cũng nhận 
thấy  học  vấn  thấp  hơn  có  liên  quan  SSTT  sau 
ĐQ(2,4,6,7,8). Dường như các bệnh nhân có trình độ 
học vấn cao hơn được trang bị nhiều kiến thức 
hơn  nên  có  thể  bù  đắp  cho  sự  suy  giảm  nhận 
thức.  
Chúng tôi nhận thấy giới tính không có liên 
quan có ý nghĩa thống kê với SSTT sau ĐQ (p = 
0,217). Kết quả này phù hợp với y văn và nhận 
định của Phan Mỹ Hạnh (2006), Khedr E. M và 
cs  (2009),  Pohjasvaara  T  và  cs  (1998),  Tamam  B 
và  cs  (2008)(2,6,7,10).  Trong  nghiên  cứu  của  chúng 
tôi,  sống  cô  đơn  (độc  thân  hoặc  góa  bụa)  và 
không  làm  việc  (thất  nghiệp  hoặc  hưu)  có  liên 
quan  với  SSTT  sau  ĐQ  khi  phân  tích  đơn  biến 
nhưng  không  có  tương  quan  độc  lập  khi  phân 

tích  đa  biến  (p  lần  lượt  là  0,345  và  0,290).  Cho 
đến nay, các nghiên cứu trên bệnh nhân đột quị 
não  cho  kết  quả  không  thống  nhất(1,7,10).  Hơn 
nữa, sống cô đơn và không làm việc có thể là hệ 
quả  của  tuổi  tác  cao  vốn  có  liên  quan  đã  được 
chứng minh với SSTT sau ĐQ.  
Dữ liệu từ y văn về tương quan giữa các yếu 
tố  nguy  cơ  mạch  máu  với  SSTT  sau  ĐQ  không 
thống  nhất(,2,4,6,7,9,11).  Chúng  tôi  không  thấy  liên 
quan  có  ý  nghĩa  thống  kê  giữa  tăng  huyết  áp, 

Hội Nghị Khoa Học Nội Khoa Toàn Quốc năm 2013 


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 3 * 2013 
bệnh  tim  TMCB,  đái  tháo  đường,  hút  thuốc  lá, 
rung  nhĩ  với  SSTT  sau  ĐQ.  Liên  quan  giữa  các 
yếu tố nguy cơ mạch máu với SSTT sau ĐQ chỉ 
được  phân  tích  đơn  biến  trong  hầu  hết  các 
nghiên  cứu  cho  kết  quả  dương  tính(2,4,6,10). 
Pohjasvaara T (1998), Barba R. (2002), Sachdev P. 
S  (2006),  Tamam  B.  (2008)  không  chứng  minh 
được liên quan giữa SSTT sau ĐQ với các yếu tố 
nguy cơ mạch máu(,7,9). Như vậy, các yếu tố nguy 
cơ mạch máu là yếu tố nguy cơ của ĐQ hơn là 
của SSTT sau ĐQ và tác động lên nhận thức nếu 
có là thông qua cơ chế gây tổn thương mô não 
do ĐQ. 
Chúng  tôi  nhận  thấy  tỷ  lệ  ĐQ  não  tái  phát 
(ĐQ  >  1  lần)  trong  nhóm  có  SSTT  sau  ĐQ  là 

47,2% so với trong nhóm không SSTT sau ĐQ là 
9,1% (p < 0,001). ĐQ não tái phát có tương quan 
độc lập với SSTT sau ĐQ khi phân tích đa biến 
(p = 0,002). Một phân tích gộp của Pendlebury S. 
T  (2009)  cho  tỷ  lệ  SSTT  sau  ĐQ  não  lần  đầu  là 
23,0%,  SSTT  sau  ĐQ  não  tái  phát  là  41,3%(5). 
Kokmen E. và cs (1996) cho rằng ĐQ não lần thứ 
hai  là  yếu  tố  tiên  đoán  độc  lập  của  SSTT  sau 
ĐQ(10). Các kết quả trên gợi ý rằng sự tích lũy các 
tổn thương do bệnh lý mạch máu não có thể gây 
suy giảm nhận thức không hồi phục.  
Chúng tôi nhận thấy tỷ lệ nhồi máu não và 
xuất  huyết  não  trong  nhóm  SSTT  sau  ĐQ  và 
không SSTT sau ĐQ không có sự khác biệt có ý 
nghĩa thống kê (p = 0,441). Lê Nguyễn Nhựt Tín 
(2008),  Barba  R  và  cs  (2002),  Tamam  B.  và  cs 
(2008)  cũng  kết  luận  SSTT  sau  ĐQ  dường  như 
không phụ thuộc vào thể ĐQ nhồi máu não hay 
xuất huyết não(4,10).  
Y  văn  nhận  thấy  tổn  thương  bán  cầu  trái 
(thường là bán cầu ưu thế) có thể gây SSTT  do 
ảnh hưởng các chức năng ngôn ngữ, trí nhớ và 
nhận  thức  chung,  vốn  là  những  biểu  hiện  thiết 
yếu của SSTT(1,4,6,7). Chúng tôi phân tích post‐hoc 
so sánh tỷ lệ tổn thương bên trái, bên phải và hai 
bên nhận thấy không có sự khác biệt có ý nghĩa 
thống  kê  giữa  hai  nhóm  có  và  không  có  SSTT 
sau ĐQ (p = 0,218). Các tác giả Rasquin S. M. C 

Nghiên cứu Y học


và cs (2004), Sachdev P. S và cs (2006), Tamam B 
và cs (2008) cho kết quả tương tự(9,10,11).  
Trong  nghiên  cứu  của  chúng  tôi,  tỷ  lệ  teo 
não lan tỏa trong nhóm có và không có SSTT sau 
ĐQ lần lượt là 38,9% và 6,1% (p < 0,001). Teo não 
lan tỏa có liên quan độc lập với SSTT sau ĐQ khi 
phân tích đa biến (p = 0,007). Các nghiên cứu của 
Hénon  H.  (2002),  Vinters  H.  V.  và  cs  (2006), 
Rasquin S. M. C và cs (2004), Sachdev P. S và cs 
(2006)  cho  kết  quả  không  thống  nhất(1,8,10).  Điều 
này có thể do các nghiên cứu khác nhau về cách 
đánh  giá  (định  tính  hay  định  lượng),  phương 
tiện  đánh  giá  với  độ  nhạy  khác  nhau  (CT  hay 
MRI)  và  mẫu  nghiên  cứu(8,9).  Ngoài  ra,  teo  não 
toàn  bộ  không  đặc  trưng  riêng  cho  quá  trình 
thoái  hóa  kiểu  Alzheimer  hoặc  bệnh  lý  mạch 
máu não mà có thể là do sự kết hợp của cả hai 
quá trình vốn thường gặp trên bệnh nhân SSTT 
sau ĐQ.  
Nhồi  máu  vùng  (đường  kính  >  15  mm)  do 
bệnh  lý  mạch  máu  lớn,  nhồi  máu  lổ  khuyết 
(đường  kính  <  15  mm)  tương  ứng  với  bệnh  lý 
mạch  máu  nhỏ.  Vị  trí  “chiến  lược”  là  những 
vùng ở vỏ não hay dưới vỏ có chức năng quan 
trọng bao gồm đồi thị, chất trắng thùy trán, hạch 
nền,  hồi  góc,  vùng  phân  bố  động  mạch  não 
trước,  não  giữa,  não  sau.  Những  vùng  chiến 
lược  này  có  thể  tổn  thương  do  nhồi  máu  vùng 
hay  lổ  khuyết.  Chúng  tôi  so  sánh  tổn  thương 

vùng  và  lổ  khuyết  ở  vị  trí  chiến  lược  giữa  2 
nhóm  có  và  không  có  SSTT  sau  ĐQ  và  nhận 
thấy  có  tương  quan  có  ý  nghĩa  thống  kê  khi 
phân  tích  đơn  biến  (p  =  0,019)  và  đa  biến  (p  = 
0,03).  Nguyễn  Mỹ  Hạnh  (2006)  nhận  thấy  tỷ  lệ 
tổn thương vùng chiến lược 2 nhóm bệnh nhân 
có và không có SSTT sau ĐQ lần lượt là 54% và 
16,2%(6). Y văn ghi nhận rằng nhồi máu ở những 
vùng nhất định như đồi thị, bao trong, nhân nền 
có  vai  trò  quan  trọng  gây  SSTT  sau  ĐQ(11). 
Nguyên  nhân  là  do  những  vùng  chiến  lược  về 
chức  năng  này  cũng  là  những  vùng  đảm  trách 
chức năng nhận thức của não.  
Tổn thương vùng một ổ và nhiều ổ không ở 
vị  trí  chiến  lược  về  chức  năng  không  có  liên 

Hội Nghị Khoa Học Nội Khoa Toàn Quốc năm 2013 

145


Nghiên cứu Y học 

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 3 * 2013

quan  có  ý  nghĩa  thống  kê  với  SSTT  sau  ĐQ  (p 
lần lượt là 0,342 và 0,181). Các tác giả Rasquin S. 
M. C và cs (2004), Hénon H. và cs (2002) cũng có 
cùng  nhận  định(1,8).  Chúng  tôi  nhận  thấy  nhồi 
máu lổ khuyết không ở vị trí chiến lược không là 

yếu tố nguy cơ của SSTT sau ĐQ (p = 0,018). Kết 
quả  này  phù  hợp  với  một  số  quan  điểm  cho 
rằng  lổ  khuyết  ở  những  vùng  nhất  định  như 
chất xám trung tâm (đồi thị, hạch nền), là vị trí 
“chiến lược” mà chúng tôi đã đề  cập, có thể có 
vai trò quan trọng hơn các lổ khuyết ở vị trí khác 
trong việc gây SSTT(11).  
Nghiên  cứu  của  chúng  tôi  và  Rasquin  S.  M 
(2005) không cho thấy tổn thương chất trắng có 
liên  quan  có  ý  nghĩa  thống  kê  với  SSTT  sau 
ĐQ(8). Dấu hiệu này thường gặp ở người có chức 
năng nhận thức bình thường cũng như ở những 
bệnh nhân Alzheimer(11). 
Nghiên cứu của chúng tôi có một số hạn chế. 
Thứ  nhất,  đây  là  một  nghiên  cứu  cắt  ngang  và 
các bệnh nhân được đánh giá sau ĐQ nên không 
thể  loại  trừ  hoàn  toàn  các  bệnh  nhân  có  suy 
giảm  nhận  thức  nhẹ  kiểu  bệnh  học  Alzheimer 
trước  ĐQ  vào  trong  mẫu  nghiên  cứu.  Thứ  hai, 
do  bệnh  viện  Thống  Nhất  chủ  yếu  điều  trị  cán 
bộ  trung  cao  cấp  nên  mẫu  nghiên  cứu  có  đặc 
điểm  là  tuổi  cao  và  trình  độ  học  vấn  cao  nên 
không  hoàn  toàn  đại  diện  cho  cộng  đồng.  Thứ 
ba,  không  phải  tất  cả  bệnh  nhân  của  chúng  tôi 
đều  được  làm  MRI,  do  đó  khả  năng  phát  hiện 
các thông số hình ảnh học giảm. 

2. Các yếu tố nguy cơ của SSTT sau ĐQ gồm: 
tuổi, trình độ học vấn thấp hơn, ĐQ tái phát, teo 
não lan tỏa và tổn thương vùng chiến lược trên 

hình ảnh học. 
3.  Việc  điều  trị  dự  phòng  ĐQ  tái  phát  có  ý 
nghĩa quan trọng làm giảm gánh nặng của sa sút 
trí tuệ sau ĐQ cho gia đình và xã hội. 

TÀI LIỆU THAM KHẢO  
1.
2.

3.
4.

5.

6.
7.
8.

9.

10.

11.

KẾT LUẬN 

12.

Chúng  tôi  nhận  thấy  SSTT  sau  ĐQ  là  một 
biến chứng thường gặp của ĐQ não.  


 

1.  Tỷ  lệ  SSTT  sau  ĐQ  tại  thời  điểm  3  –  12 
tháng sau ĐQ não là 35,3%.  

Hénon  H.  (2002).  Neuroimaging  predictors  of  dementia  in 
stroke patients. Clin Exp Hypertens.;24(7‐8):677‐86. 
Khedr E. M., Hamed S. A., et al (2009). Cognitive impairment 
after  cerebrovascular  stroke:  relationship  to  vascular  risk 
factors. Neuropsychiatric Disease and Treatment;5: 103–116. 
Lê  Minh.  Sa  sút  trí  tuệ  (2004).  Thần kinh học lâm sàng.  Trang 
524‐543. 
Lê Nguyễn Nhựt Tín, Vũ Anh Nhị (2008). Tần suất và yếu tố 
nguy cơ của sa sút trí tuệ sau đột quị: khảo sát tiền cứu 218 
bệnh nhân tại khoa Thần kinh bệnh viện Chợ Rẫy. Y học TP. 
Hồ Chí Minh; 12(1): 336‐311. 
Pendlebury  S.  T.  (2009).  Stroke‐related  dementia:  Rates,  risk 
factors  and  implications  for  future  research.  Maturitas. 
Volume 64, Issue 3, Pages 165–17. 
Phan Mỹ Hạnh, Phan Công Tân (2006). Sa sút trí tuệ sau nhồi 
máu não: tần suất và yếu tố nguy cơ. Thankinhhoc.com. 
Pohjasvaara  T.,  Erkinjuntti  T.,  et  al  (1998).  Clinical 
Determinants of Poststroke Dementia. Stroke;29;75‐81. 
Rasquin  S.  M.  C.,  Verhey  F.  R.  J.,  et  al  (2004).  Demographic 
and  CT  scan  features  related  to  cognitive  impairment  in  the 
first  year  after  stroke.  J  Neurol  Neurosurg  Psychiatry;75:1562–
1567. 
Sachdev P. S., Brodaty H., et al (2006). Clinical Determinants 
of  Dementia  and  Mild  Cognitive  Impairment  following 

Ischaemic  Stroke:  The  Sydney  Stroke  Study.  Dement  Geriatr 
Cogn Disord;21:275–283. 
Tamam  B.,  Taşdemir  N.,  et  al  (2008).  The  Prevalence  of 
Dementia  Three  Months  after  Stroke  and  its  Risk  Factors. 
Turkish Journal of Psychiatry; 19(1):1‐9. 
Vinters  H.  V.  and  Selnes  O.  A.  (2006).  Vascular  cognitive 
impairment.  Nature  clinical  practice  Neurology.  Vol  2  No  10: 
538‐548. 
Vũ Anh Nhị (2007). Sa sút trí tuệ. Sổ tay lâm sàng thần kinh sau 
đại học. Trang 41‐57. 

Ngày nhận bài báo   
 
   
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 
Ngày bài báo được đăng: 

 

 

01‐7‐2013 
10‐7‐2013 
01‐8‐2013 

 

146

Hội Nghị Khoa Học Nội Khoa Toàn Quốc năm 2013 




×