Tải bản đầy đủ (.pdf) (5 trang)

Đặc điểm bạch cầu, C ‐ Reactive Protein(CRP), Procalcitonin, Lactate máu trên bệnh nhân nhiễm khuẩn huyết sốc nhiễm khuẩn tại khoa cấp cứu

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (386.22 KB, 5 trang )

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014 

Nghiên cứu Y học

ĐẶC ĐIỂM BẠCH CẦU, C‐ REACTIVE PROTEIN(CRP),  
PROCALCITONIN, LACTATE MÁU TRÊN BỆNH NHÂN  
NHIỄM KHUẨN HUYẾT/SỐC NHIỄM KHUẨN TẠI KHOA CẤP CỨU 
Tôn Thanh Trà*, Bùi Quốc Thắng** 

TÓM TẮT  
Đặt vấn đề : Nhiễm khuẩn huyết và sốc nhiễm khuẩn là bệnh lý thường gặp tại khoa cấp cứu nhất là trong 
điều kiện Việt Nam. Tử vong do nhiễm khuẩn huyết và sốc nhiễm khuẩn vẫn còn rất cao từ 40‐50% ở các nước 
phát triển và 61% ở bệnh viện Chợ Rẫy.. Đặc điểm của bạch cầu, CRP, lactate máu như thế nào khi bệnh nhân 
nhiễm khuẩn huyết, sốc nhiễm khuẩn vào cấp cứu? 
Mục tiêu nghiên cứu: Mô tả đặc điểm bạch cầu, C reactive protein (CRP), procalcitonin (PCT), lactate máu 
ở bệnh nhân nhiễm khuẩn huyết và sốc nhiễm khuẩn tại thời điểm vào khoa cấp cứu.  
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Bệnh nhân vào khoa cấp cứu Bệnh viện Chợ Rẫy được chẩn đoán 
nhiễm khuẩn huyết, sốc nhiễm khuẩn theo tiêu chuẩn của Hiệp hội nhiễm khuẩn huyết thế giới 2001 từ 1/4/2012‐
31/7/2012 sẽ được đưa vào nghiên cứu. 
Phương pháp: Tiến cứu, mô tả hàng loạt ca. 
Kết quả: Có 85 bệnh nhân đủ tiêu chuẩn đưa vào nghiên cứu trong đó có 1 bệnh nhân không theo dõi được 
kết quả, chúng tôi tiến hành mô tả 84 trường hợp còn lại. Tuổi trung bình là 55,45, tỉ lệ nam/ nữ là 1,3, trên 60 
tuổi chiếm 39,3%. Cơ quan nhiễm khuẫn thường gặp nhất là đường tiêu hóa. Tỉ lệ vi khuẩn cấy mọc là 32,1%, vi 
trùng thường gặp là E coli. Tỉ lệ tử vong chung là 54,8%. Bạch cầu, CRP, PCT, lactate máu đều tăng cao trong 
nhóm bệnh nhân nhiễm khuẩn huyết và sốc nhiễm khuẩn, tuy nhiên, nhóm bệnh nhân sốc nhiểm khuẩn và tử 
vong có tỉ lệ PCT và lactate máu cao hơn. 
Kết  luận:  Các  chỉ  số  bạch  cầu,  CRP,  Procalcitonin  và  lactate  máu  đều  tăng  cao  ở  bệnh  nhân  sốc  nhiễm 
khuẩn và nhiễm khuẩn huyết tại thời điểm vào cấp cứu. Procalcitonin máu tăng cao hơn đối với nhóm bệnh nhân 
sốc nhiễm khuẩn so với nhiễm khuẩn huyết và nhóm tử vong so với nhóm sống. Lactate máu không có sự khác 
biệt có nghĩa thống kê giữa nhóm nhiễm khuẩn huyết và sốc nhiễm khuẩn nhưng có sự khác biệt có nghĩa thống 
kê giữa nhóm sống và nhóm tử vong. 


Key words: Sốc nhiễm khuẩn, nhiễm khuẩn huyết, khoa cấp cứu 

ABSTRACT 
FEATURES OF LEUCOCYTE, C ‐ REACTIVE PROTEIN (CRP), PROCALCITONIN, LACTATE  
IN SEPSIS AND SEPTIC SHOCK AT EMERGENCY DEPARTMENT ADMISSION 
Ton Thanh Tra, Bui Quoc Thang 
 * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 18 ‐ Supplement of No 1 ‐ 2014: 279 ‐ 283 
Background: Sepsis and septic shock are common conditions to emergency department. The mortality is still 
very  high  40‐50%  in  developed  countries  and  higher  in  developing  countries.  How  to  detect  early  and  what 
investigations should be done in emergency department? Should we do leucocyte, CRP, PCT, lactate in serum as 
routine tests at emergency department? 
Objectives:  Describe  the  features  of  leucocyte,  CRP,  Procalcitonin  and  lactate  in  sepsis  and  septic  shock 
patients to emergency department. 
* Khoa Cấp cứu, bệnh viện Chợ Rẫy  **Bộ môn Hồi sức‐ cấp cứu‐ Chống độc, Đại học y dược TP HCM 
Tác giả liên lạc: ThS. Tôn Thanh Trà  ĐT: 0903673451 
Email:  

Nhiễm

279


Nghiên cứu Y học 

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014

Method and participants: Prospective, case series. 
Result : 85 patients were enrolled, 1 excluded, the average age was 55.45, male to female 1.3/1, The age older 
than 60  was 39.3%, positive  culture  was  32.1%  with  E.  coli  was the  most  common  cause.  The  mortality was 
54.8%.  Leucocyte,  CRP,  PCT  and  lactate  were  higher  than  normal  ranges.  PCT  in  sepsis  12.6ng/dl,  in  septic 

shock 16 ng/dl, in died group 17.9 ng/ dl in survival group 13.28 and Lactate in sepsis 50.4 mg/dl, septic shock 49 
mg/dl, in survival group 28.1 mg/dl and died group 68.2 mg/dl. 
Conclusion  :  Leucocyte,  CRP,  procalcitonin,  lactate  are  higher  than  normal  in  sepsis  and  septic  shock 
patients. The PCT is higher in septic shock to sepsis and the death group to survival group. The lactate is not 
significant difference in sepsis and septic shock but significant difference in survival group and death group. 
Key words: Sepsis, septic shock, emergency department. 
xét nghiệm CRP, PCT và lactate máu. Bệnh nhân 
ĐẶT VẤN ĐỀ 
sẽ  được  thực  hiện  cấy  máu,  kháng  sinh  đồ,  sử 
Nhiễm  khuẩn  huyết  và  sốc  nhiễm  khuẩn  là 
dụng  kháng  sinh  theo  kinh  nghiệm,  đặt  đường 
bệnh  lý  thường  gặp  tại  khoa  cấp  cứu.  Tỉ  lệ  tử 
truyền  tĩnh  mạch  trung  tâm  và  thực  hiện  liệu 
vong  trong  nhiễm  khuẩn  huyết  và  sốc  nhiễm 
pháp hướng đến đạt đích sớm theo hướng dẫn 
khuẩn  rất  cao  từ  40‐50%  ở  các  nước  phát  triển 
của  SSC  2008.  Sau  đó  được  nhập  vào  các  khoa 
như Mỹ(9) và cao hơn ở các nước đang phát triển 
lâm  sàng  và  được  theo  dõi  kết  quả  cuối  cùng 
như  ở  Việt  Nam.  Theo  nghiên  cứu  của  tác  giả 
dựa vào hồ sơ lưu trữ.  
Phạm  Thị  Ngọc  Thảo  năm  2013  tại  Bệnh  viện 
KẾT QUẢ  
Chợ Rẫy, tỉ lệ tử vong là 61% ở bệnh nhân nhiễm 
Có 85 bệnh nhân được đưa vào nghiên cứu, 
khuẩn huyết nặng(8). Việc phát hiện sớm, điều trị 
kháng sinh kịp thời, thực hiện các thủ thuật hồi 
trong  đó  có  1  bệnh  nhân  không  theo  dõi  được 
sức tích cực có tác dụng cải thiện tỉ lệ sống còn. 
kết quả cuối cùng, chúng tôi tổng hợp số liệu của 

Ngoài các xét nghiệm thường qui cần thực hiện 
84 trường hợp còn lại như sau: 
tại  cấp  cứu,  có  cần  thực  hiện  các  xét  nghiệm 
Đặc điểm dịch tể học, cơ quan tổn thương 
CRP, Proalcitonin, lactate máu tại thời điểm cấp 
và tác nhân gây bệnh  
cứu  hay  không  và  vai  trò  của  nó  như  thế  nào 
Tuổi  trung  bình  55,45  tuổi,  thấp  nhất  là  17, 
trong điều trị và theo dõi. 
cao  nhất  là  95,  tập  trung  nhiều  nhất  ở  lứa  tuổi 
Mục tiêu nghiên cứu 
>60 chiếm 39,3%. 
Mô tả đặc điểm của Bạch cầu, CRP, PCT và 
Bảng 1:Phân bố theo nhóm tuổi như sau  
lactate  máu  tại  thời  điểm  vào  khoa  cấp  cứu  ở 
Tuổi
Số lượng
Tỉ lệ %
17-20
3
3.6
bệnh  nhân  nhiễm  khuẩn  huyết  và  sốc  nhiễm 
21-40
19
22.6
khuẩn . 

ĐỐI TƯỢNG ‐ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
Tiến cứu, mô tả hàng loạt ca. 
Bệnh  nhân  được  chẩn  đoán  nhiễm  khuẩn 

huyết,  sốc  nhiễm  khuẩn  nhập  khoa  Cấp  cứu 
bệnh viện Chợ Rẫy từ 1/4/2012 ‐ 31/7/2013. 
Qui  trình  nghiên  cứu:  Bệnh  nhân  vào  khoa 
cấp  cứu  trong  thời  gian  nghiên  cứu  có  đủ  tiêu 
chuẩn  lựa  chọn  sẽ  được  đưa  vào  nghiên  cứu. 
Tiến  hành  khai  thác  bệnh  sử,  khám  lâm  sàng, 
thực hiện các xét nghiệm thường qui đồng thời 

280

41-60
>60
Tổng

29
33
84

34.5
39.3
100

Tình trạng bệnh nhân khi vào viện  
49/84  (57%)  bệnh  nhân  vào  cấp  cứu  trong 
tình trạng sốc cần phải hồi sức ngay lập tức, có 
27  trường  hợp  đã  được  sử  dụng  vận  mạch  ở 
tuyến trước, không có trường hợp nào được đặt 
catheter tĩnh mạch trung tâm. 
Tỉ  lệ  có  sử  dụng  các  biện  pháp  cấp  cứu  ở 
tuyến trước là 71/84 (84,5%). Trong 71 bệnh nhân 


Chuyên Đề Nội Khoa 


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014 
do tuyến trước chuyển đến có 28/71(39,4%) bệnh 
nhân  trong  tình  trạng  sốc,  chưa  được  hồi  sức 
đúng mức trên đường chuyển viện.  
Bảng 2: Tình trạng bệnh nhân khi vào cấp cứu  
Bệnh nhân

Số lượng

Tỉ lệ

Tự đến
Tuyến trước chuyển đến: sốc
Tuyến trước chuyển đến: ổn
định huyết động
Tổng

13
28

15,5
33,3

43

51,2


84

100

Như vậy, số bệnh nhân tự đến hoặc đến cấp 
cứu  trong  tình  trạng  sốc  cần  phải  được  hồi  sức 
tích cực ngay lập tức còn khá cao mặc dù bệnh 
nhiễm khuẩn huyết hay sốc nhiễm khuẩn là rất 
nặng. 

Tiêu điểm nhiễm trùng 
Hai cơ quan thường gặp nhất là đường tiêu 
hóa và đường hô hấp chiếm 54% trong tổng số 
bệnh nhân nghiên cứu. 
Bảng 3: Tiêu điểm nhiễm khuẩn  
Tiêu điểm nhiễm trùng
Tiêu hóa
Hô hấp
Đường mật
Mô mềm
Không rõ
Đường tiết niệu
Màng não
Tổng

Số lượng
29
25
10

10
5
4
1
84

Tỉ lệ %
34,5
29,8
11,9
11,9
5,9
4, 7
1.1
100

Bệnh lý kèm theo 
33 bệnh nhân (39,3%) có bệnh lý kèm theo 
trong  đó  thường  gặp  là  đái  tháo  đường  (9), 
ung thư  (7), xơ gan (4), suy thận mạn (3), suy 
tim  (2),  bệnh  lý  huyết  học  (1),  tự  miễn  (1), 
nhiễm HIV (1). 
Tỉ lệ cấy mọc vi trùng 
Là 27/84 chiếm 32,1% 
Bảng 4: Các trường hợp cấy, phân lập được vi trùng  
Bệnh phẩm
Máu
Mủ
Đàm
Dịch não tủy

Dịch ổ bụng
Tổng

Nhiễm

Số lượng
12
8
5
1
1
27

Tỉ lệ %
44
30
18
4
4
100

Nghiên cứu Y học

Bảng 5: Tên vi khuẩn 
Tên vi khuẩn
E. Coli
Acinetobacter
Pseudomonas
Klebsiella
Streptococcus

Tổng

Số lượng
11
10
3
2
1
27

Tỉ lệ %
41
37
11
7
4
100

Tỉ lệ tử vong chung là 46/84 (54,8%)  
Bảng 6: Kết quả bạch cầu, CRP, PCT, lactate máu  
Xét nghiệm Trung bình
Bạch cầu / ml
17320
CRP mg/l
121,3
14.65
Procalcitonin
(ng/ml)
49.6
Lactate

(mmol/l)

NKH Sốc Sống Tử vong
13060 19930 17630 16950
130,8 114,4 150 134,4
12,6
16 13,28 17,9
50.4

49

28,1

68,2

Bảng 7: So sánh PCT và lactate máu giữa nhóm 
NKH và SNK  
Biến
PCT
Lactate

Nhiễm khuẩn
huyết
12,6
49,6

Sốc nhiễm
khuẩn
16
50,4


P
<0,01
0,085

Bảng 8: So sánh PCT và lactate máu giữa nhóm sống 
và nhóm tử vong  
Biến
PCT
Lactate

Sống
13,28
28,1

Tử vong
17,9
68,2

P
<0,01
<0,01

BÀN LUẬN 
Nhiễm  khuẩn  huyết  và  sốc  nhiễm  khuẩn  là 
một bệnh lý nặng, tỉ lệ tử vong vẫn còn khá cao 
kể cả ở những nước phát triển. Tỉ lệ này khoảng 
40‐50% ở Mỹ và khoảng 60‐70% ở các nước đang 
phát triển(11). Mặc dù có nhiều tiến bộ trong điều 
trị,  kháng  sinh,  liệu  pháp  hướng  đến  đạt  đích 

sớm  nhưng  việc  cải  thiện  tỉ  lệ  tử  vong  ở  nhóm 
bệnh  nhân  này  vẫn  còn  hạn  chế.  Tỉ  lệ  tử  vong 
chung trong nhóm nghiên cứu của chúng tôi là 
54,8% cũng tương tự với tác giả Phạm Thị Ngọc 
Thảo  61%  trên  109  bệnh  nhân  nhiễm  khuẩn 
huyết nặng hoặc các nghiên cứu khác ở các nước 
đang phát triển. Phần lớn các bệnh nhân nhiễm 
khuẩn  huyết  và  sốc  nhiễm  khuẩn  vào  cấp  cứu 
trong tình trạng nặng và đã được sử dụng kháng 
sinh từ tuyến trước nên tỉ lệ cấy mọc vi trùng chỉ 
đạt  32,1%  và  vi  trùng  chủ  yếu  vẫn  là  E  coli  đề 

281


Nghiên cứu Y học 

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014

kháng  với  nhiều  loại  kháng  sinh.  Cơ  quan 
thường gặp vẫn là đường tiêu hóa. Ngoài ra, tỉ lệ 
có  các  bệnh  lý  kèm  theo  rất  cao  và  tập  trung  ở 
nhóm  tuổi  lớn  hơn  60  chiếm  39,3%  là  những 
thách thức cho quá trình điều trị(3) 
Với những dữ liệu về vi khuẩn và tiêu điểm 
nhiễm khuẩn trong nghiên cứu của chúng tôi thì 
việc sử dụng kháng sinh theo kinh nghiệm ban 
đầu  tại  cấp  cứu  cần  tập  trung  vào  nhóm  vi 
khuẩn  Gram  âm  và  áp  dụng  liệu  pháp  xuống 
thang  hợp  lý.  Kết  quả  này  cũng  phù  hợp  với 

hướng dẫn của SSC 2012 về việc lựa chọn kháng 
sinh  ban đầu  tập trung vào  vi  khuẩn Gram âm 
đường ruột. Theo khuyến cáo của SSC 2012, cần 
phồi hợp các loại kháng sinh phổ rộng trong 3‐5 
ngày  sau  đó  đánh  giá  lại  và sử  dụng  liệu  pháp 
xuống thang. Thời gian sử dụng kháng sinh kéo 
dài  từ  7‐10  ngày  ngoại  trừ  các  trường  hợp  tác 
nhân  là  tụ  cầu  vàng  hoặc  trên  cơ  địa  suy  giảm 
miễn  dịch  hoặc  giảm  bạch  cầu  hạt.  Do  đặc 
điểm  bệnh  viện  Chợ  Rẫy  là  tuyến  cuối  nên 
nhận  các  bệnh  nhân  đã  được  điều  trị  kháng 
sinh  từ  tuyến  trước  vì  vậy,  tỉ  lệ  vi  trùng  cấy 
mọc  không  cao  và  thường  đề  kháng  với  các 
kháng sinh thông thường. 
Liệu pháp hướng đến đạt đích sớm được áp 
dụng ngay tại thời điểm bệnh nhân vào cấp cứu 
đã  cải  thiện  được  tỉ  lệ  tử  vong,  thời  gian  nằm 
viện,  chi  phí  cũng  như  thời  gian  phải  nằm  hồi 
sức(7).  Trong  các  tiêu  chí  này  thì  lactate  máu  là 
một  thông  số  cần  đạt  được  và  để  theo  dõi  đáp 
ứng điều trị. 
Bạch cầu là một xét nghiệm thường qui cho 
các bệnh nhân nhiễm khuẩn huyết và sốc nhiễm 
khuẩn vì đó là kết quả có chung trong công thức 
máu để xác định cả hồng cầu và tiểu cầu. CRP là 
protein C phản ứng tăng cao trong các phản ứng 
nhiễm khuẩn nhưng không đặc hiệu và thường 
ít có giá trị trong theo dõi và tiên lượng(4). Trong 
nhóm nghiên cứu của chúng tôi, CRP tăng cao ở 
những  bệnh  nhân  nhiễm  khuẩn  huyết,  sốc 

nhiễm khuẩn nhưng không có sự khác biệt có ý 
nghĩa  thống  kê  giữa  nhóm  nhiễm  khuẩn  huyết 
và sốc nhiễm khuẩn, giữa nhóm sống và nhóm 

282

tử  vong  và  trong  các  tiêu  chuẩn  chẩn  đoán 
nhiễm  khuẩn  huyết  và  sốc  nhiễm  khuẩn  của 
Châu Âu hoặc Quốc  tế không sử dụng CRP để 
chẩn đoán hoặc theo dõi đáp ứng điều trị, vì vậy, 
xét  nghiệm  này  không  cần  thiết  phải  thực  hiện 
một cách thường qui khi bệnh nhân vào cấp cứu. 
Procalcitonin  là  tiền  chất  của  hormon 
calcitonin  được  bài  tiết  bởi  tế  bào  C  của  tuyến 
giáp.  Procalcitonin  bình  thường  trong  huyết 
thanh  <0,1  ng/  ml  và  tăng  trong  bệnh  cảnh 
nhiễm  khuẩn  nhất  là  bệnh  cảnh  nhiễm  khuẩn 
nặng. Thời gian bán hủy của procalcitonin là 24 
giờ  vì  vậy  được  xem  là  một  dấu  chỉ  điểm  theo 
dõi đáp ứng điều trị. Nghiên cứu của Savibri và 
cộng  sự  cho  thấy  trong  các  bệnh  cảnh  nhiễm 
khuẩn  nặng,  PCT  tăng  sau  4  giờ  đầu,  đạt  đỉnh 
sau 8‐24 giờ và giảm xuống nhanh trong 24 giờ 
nếu bệnh nhân đáp ứng với liệu pháp điều trị(10). 
Vì vậy, PCT được xem là xét nghiệm giúp chẩn 
đoán, theo dõi điều trị và góp phần quyết định 
việc  thay  đổi  hoặc  ngưng  kháng sinh  điều  trị(5). 
Trong  nghiên  cứu  của  chúng  tôi,  nồng  độ  PCT 
tăng  cao  trong  cả  4  nhóm,  trung  bình  là  14,65 
ng/ml  chứng  tỏ  phần  lớn  bệnh  nhân  có  tình 

trạng nhiễm khuẩn nặng và đến bệnh viện Chợ 
Rẫy khá muộn hoặc không đáp ứng với điều trị 
ban đầu ở tuyến trước. Điều đó góp phần lý giải 
tỉ lệ tử vong trong nhóm nghiên cứu của chúng 
tôi cao 54,8%. Nồng độ PCT có sự khác biệt có ý 
nghĩa  thống  kê  giữa  nhóm  nhiễm  khuẩn  huyết 
và sốc nhiễm khuẩn, giữa nhóm sống và nhóm 
tử vong. Điều đó chứng tỏ PCT góp phần đánh 
giá mức độ nặng cũng như tiên lượng sống còn 
ở  bệnh  nhân  nhiễm  khuẩn  huyết  và  sốc  nhiễm 
khuẩn.  Ngoài  ra,  nghiên  cứu  của  Azevedo  và 
cộng  sự  năm  2012  cho  thấy  độ  thanh  thải 
procalcitonin trong 24 giờ đầu là một yếu tố tiên 
lượng  sống  còn  độc  lập  ở  bệnh  nhân  nhiễm 
khuẩn huyết nặng và sốc nhiễm khuẩn(2). Chính 
vì  lẽ  đó,  procalcitonin  là  một  xét  nghiệm  cần 
thực  hiện  ngay  tại  thời  điểm  bệnh  nhân  vào 
khoa cấp cứu để giúp đánh giá mức độ nặng và 
theo  dõi  đáp  ứng  điều  trị  ở  bệnh  nhân  nhiễm 
khuẩn huyết và sốc nhiễm khuẩn. 

Chuyên Đề Nội Khoa 


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014 
Lactate  là  sản  phẩm  của  quá  trình  chuyển 
hóa kỵ khí khi tế bào thiếu oxy vì vậy, nồng độ 
lactate máu phản ảnh tình trạng giảm tưới máu 
mô(6). Theo hướng dẫn của SSC 2012 khi nồng độ 
lactate máu >4 mmol/l được xem như bệnh nhân 

đang  ở  trong  tình  trạng  sốc  và  phải  được  đưa 
liệu pháp hướng đền đạt đích sớm vào điều trị 
cho  dù  huyết  áp  vẫn  còn  trong  giới  hạn  bình 
thường(7). Trong nhóm nghiên cứu của chúng tôi, 
nồng độ lactate cao, trung bình 49,6 mmol/l một 
lần nữa chứng tỏ bệnh nhân vào cấp cứu trong 
tình  trạng  rất  nặng.  Bên  cạnh  đó,  do  chúng  tôi 
không đưa tiêu chí lactate máu >4 mmol/l được 
xem  là  sốc  nhiễm  khuẩn  nên  nồng  độ  lactate 
máu  giữa  hai  nhóm  nhiễm  khuẩn  huyết  và  sốc 
nhiễm  khuẩn  không  có  sự  khác  biệt  có  ý  nghĩa 
thống kê. Việc tăng nồng độ lactate máu thể hiện 
mức độ nặng của bệnh còn việc thải trừ nồng độ 
lactate máu (lactate clearance) phản ánh đáp ứng 
điều trị. Trong hướng dẫn của SSC 2012 thì mục 
tiêu trong 6 giờ  đầu  là Lactate  clearance (+)  khi 
đạt được >10%(11). Vì vậy việc xét nghiệm lactate 
máu  ngay  thời  điểm  bệnh  nhân  vào  cấp  cứu 
giúp xác định chẩn đoán, đánh giá mức độ nặng 
và  làm  nền  tảng  để  theo  dõi  đáp  ứng  và  tiên 
lượng bệnh nhân. Trong điều kiện thực tiễn của 
chúng ta, khi mà bệnh nhân phải lưu lại tại cấp 
cứu trong nhiều giờ do sự quá tải thường xuyên 
của  các  khoa  lâm  sàng  thì  lactate máu  cần  phải 
được  thực  hiện  nhiều  lần  hơn  nếu  bệnh  nhân 
còn lưu lại tại cấp cứu hơn 6 giờ để đánh giá đáp 
ứng với trị liệu ban đầu. 

KẾT LUẬN  
Các chỉ số bạch cầu, CRP, Procalcitonin và 

lactate  máu  đều  tăng  cao  ở  bệnh  nhân  sốc 
nhiễm  khuẩn  và  nhiễm  khuẩn  huyết  tại  thời 
điểm vào cấp cứu. Procalcitonin máu tăng cao 
hơn đối với nhóm bệnh nhân sốc nhiễm khuẩn 
so với nhiễm khuẩn huyết và nhóm tử vong so 
với nhóm sống. Lactate máu không có sự khác 
biệt  có  nghĩa  thống  kê  giữa  nhóm  nhiễm 
khuẩn huyết và sốc nhiễm khuẩn nhưng có sự 
khác biệt có nghĩa thống kê giữa nhóm sống và 
nhóm tử vong. Điều này chứng tỏ lactate máu 

Nhiễm

Nghiên cứu Y học

và  procalcitonin  tại  thời  điểm  vào  cấp  cứu  là 
những yếu tố góp phần tiên lượng sống còn ở 
những  bệnh  nhân  nhiễm  khuẩn  huyết  và  sốc 
nhiễm khuẩn. 

KIẾN NGHỊ  
Ngoài  các  xét  nghiện  thường  qui  thực  hiện 
tại  cấp  cứu,  procalcitonin  và  lactate  máu  là  hai 
xét  nghiệm  cần  thực  hiện  ở  bệnh  nhân  nhiễm 
khuẩn  huyết  và  sốc  nhiễm  khuẩn  để  góp  phần 
chẩn đoán, theo dõi diễn tiến và tiên lượng bệnh.  

TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1.


Azevedo JR, Torres OJ, Czecko NG (2012), ʺProcalcitonin as 
a  prognostic  biomarker  of  sepsis  and  septic  shockʺ.  Rev Col 
Bras cir 39(6), 455‐461. 
2. Bracht  B,  Hanggi  M,  Leker  B  (2007),  ʺIncidence  of  low 
central  venous  oxygen  saturation  during  unplanned 
admission  in  multidiscriplinary  intensive  care  unit  ‐  An 
observational studyʺ. Critical care 2, 331‐337. 
3. Dellinger PR, Levy MM, Rhodes A (2013), ʺSurviving Sepsis 
Campaign:  International  Guidelines  for  Management  of 
Severe Sepsis and Septic Shock: 2012ʺ. Critical Care Medicine, 
41(2), 580‐637. 
4. Jimene  A  J,  Ryes  M  J  P  D  L,  Diaz  R  O  (2009),  ʺUtility  of 
procalcitonin  and  C  reactive  protein  in  the  septic  patient  in 
the  emergency  department,  Emergencias  2009,  21,  23‐27ʺ. 
emergencias, 21, 23‐27. 
5. Kiba S, Adam K, Bartin G (2011), ʺDiagnostic and prognostic 
biomarker  of  sepsis  in  critical  careʺ.  Critical  care  medicine 
66(3), 33‐40. 
MM, 
Fink 
MP, 
Marshall 
JC 
(2003), 
6. Levy 
ʺSCCM/ESICM/ACCP/ATS/SIS 
International 
Sepsis 
Definitions Cʺ. Crit Care Med 31(4): 1250 – 1256. 
7. Marik  PE  (2013),  ʺSurviving  sepsis:  going  beyond  the 

guidelinesʺ. Marik Annals of Intensive Care 1(17). 
8. Marty  P,  Roquilly  A,  Vallée  F  (2013),  ʺLactate  clearance  as 
death predictor in severe sepsis and septic shock during the 
first  24  hours  in  ICU.  An  observational  study  ʺ.  Annals  of 
Intensive Care, 3(3). 
9. Phạm Thị Ngọc Thảo (2013), ʺNghiên cứu lâm sàng, cận lâm 
sàng và giá trị tiên lượng của một số cytokin trên bệnh nhân 
nhiễm khuẩn huyết nặngʺ. Luận án tiến sĩ y học chuyên ngành 
Hồi sức‐Cấp cứu, Đại học y dược TP Hồ Chí Minh. 
10. Phua  J,  Koay  E  S  C,  Lee  K  H  (2008),  ʺLactate,  procalcitonin 
and amino‐terminal pro‐B‐ Type natriuretic versus cytokine 
measurements  and  clinical  severity  scores  for 
prognostication in septic shockʺ. shock 29(3), 328‐333. 
11. Schmit  GA,  Mandel  J  (2013),  ʺSevere  septic  shock 
management ʺ. Up to date, Sep. 

 
Ngày nhận bài báo: 01/11/2013 
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 26/11/2013 
Ngày bài báo được đăng: 05/01/2014 

283



×