Tải bản đầy đủ (.pdf) (5 trang)

Hạ phosphat máu ở bệnh nhân thông khí cơ học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (373.44 KB, 5 trang )

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Số 6 * 2013

Nghiên cứu Y học 

HẠ PHOSPHAT MÁU Ở BỆNH NHÂN THÔNG KHÍ CƠ HỌC 
Huỳnh Văn Ân*,  Ngô Văn Thành*, Phan Văn Phong* 

TÓM TẮT 
Mục tiêu nghiên cứu: Khảo sát tỷ lệ hạ phosphat máu ở các bệnh nhân có thông khí cơ học, và sự liên quan 
giữa nồng độ phosphat máu và cai máy thất bại. 
Đối tượng và Phương pháp nghiên cứu: mô tả, cắt ngang, tiến cứu. 30 bệnh nhân có thông khí cơ học tại 
Khoa Hồi sức tích cực‐ Chống độc (ICU Nội khoa), Bệnh viện Nhân Dân Gia Định, Thành phố Hồ Chí Minh – 
từ tháng 01/2013 đến cuối tháng 05/2013, được định lượng phosphat máu vào ngày thứ 1, thứ 3 kể từ khi được 
thông khí cơ học tại Khoa ICU và vào thời điểm cai máy thở. 
Kết quả: 20% (6/30) bệnh nhân có Thông khí cơ học tại ICU Nội Khoa có hạ phosphat máu (<0,80 mmol/L) 
trong ngày đầu và 33,3% (10/30 BN) ở ngày thứ 3 thông khí cơ học. Nồng độ phosphat máu N3 giảm so với N1 
trung bình là 0,26 mmol/L. Ở thời điểm cai máy thành công (n = 15), nồng độ phosphat máu là 1,14 ± 0,28 
mmol/L, trong khi các lần cai máy thất bại (n = 13), nồng độ phosphat máu trung bình là 0,96 ± 0,34 mmol/L (p 
= 0,007).  
Kết luận: Hạ phosphate máu, nếu không được điều chỉnh hoặc cung cấp bổ sung, sẽ gia tăng tỷ lệ mắc và 
mức độ nặng của bệnh kể từ khi bệnh nhân được thông khí cơ học. Ở thời điểm cai máy thở thành công, nồng độ 
phosphat máu cao hơn so với thời điểm cai máy thất bại.  
Từ khóa: Hạ Phosphat máu, Thông khí cơ học  

ABSTRACT 
HYPOPHOSPHATEMIA IN PATIENTS WITH MECHANICAL VENTILATION 
Huynh Van An, Ngo Van Thanh,  Phan Van Phong  
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 17 ‐ No 6 ‐ 2013: 105 ‐ 109 
Purpose:  Explore the ratio of Hypophosphatemia in patients with mechanical ventilation and analyse the 
relation between hypophosphatemia and the unsuccessful withdrawal of mechanical ventilation. 
Materials  and  method:  Descriptive,  cross  sectional  and  prospective  study.  30  patients  with  mechanical 


ventilation in Intensive Care Unit (Medical ICU) of Nhan Dan Gia Dinh Hospital, HCMC from Jan, 2013 until 
end of May, 2013 were quantitative tested the serum Phosphate on the 1st, the 3rd days of ventilation in ICU and 
on the mechanical ventilation withdrawal day. 
Results:  20%  (6/30)  mechanically  ventilated  patients  in  Medical  ICU  got  the  Hypophosphatemia  (<0.80 
mmol/L) on the 1st day and 33.3% (10/30 patients) on the 3rd day of mechanical ventilation. Serum phosphate on 
the 3rd day was lower than that of the 1st day 0.26 mmol/L, averagely. In the successful withdrawals of mechanical 
ventilation (n=15), the serum phosphate were 1.14 ± 0.28 mmol/L  vs  0.96 ± 0.34 mmol/L in failed withdrawal 
cases (n=13) (p = 0.007). 
Conclusion:  Hypophosphatemia,  if  is  not  properly  adjusted,  will  increase  both  of  incidence  and  severity 
when the patients start the mechanical ventilation. The serum phosphate was higher in succesful withdrawal of 
mechanical ventilation than that in unsuscefful withdrawal cases. 
Key words: Hypophosphatemia, Mechanical ventilation. 


 Khoa Hồi sức tích cực – Chống độc BV. Nhân Dân Gia Định 
Tác giả liên hệ: ThS.BS. Huỳnh Văn Ân,       ĐT: 0918674258 
      Email:  

106

Hội Nghị Khoa Học Công Nghệ BV. Nhân Dân Gia Định năm 2013  


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Số 6 * 2013 
ĐẶT VẤN ĐỀ 
Hàm  lượng  phosphat  hoặc  phospho  máu  ở 
người  trưởng  thành,  bình  thường  từ  2,5  ‐  4,5 
mg/dL  (0,81  ‐  1,45  mmol/L).  Duy  trì  nồng  độ 
phosphat máu bình thường là vấn  đề  sống  còn 
đối với chức năng tế bào(2).  

Dù hiếm gặp ở cộng đồng, hạ phosphat máu 
thường gặp ở bệnh nhân khoa Hồi sức tích cực ‐ 
Chống  độc  (ICU)  như  nhiễm  trùng,  bệnh  phổi 
tắc nghẽn mạn tính  
Hạ phosphat máu xảy ra ở khoảng 2,2 ‐ 3,1% 
bệnh  nhân  nhập  viện  và  28  ‐  33%  bệnh  nhân 
nhập  ICU(4,13).  Nghiên  cứu  của  Hoffmann  tại 
Nam  Phi  (2008)  cho  thấy  rằng  45%  các  trường 
hợp  hạ  phosphat  máu  trong  bệnh  viện  xảy  ra 
trên bệnh nhân ICU(10). 
Tại Bệnh viện Nhân Dân Gia Định chúng tôi 
(2013),  tần  suất  hạ  phosphat  máu  ở  các  bệnh 
nhân ICU Nội khoa là 31,97%(11).  

Nghiên cứu Y học
ĐỐI TƯỢNG VÀ THIẾT KẾ NGHIÊN CỨU 
Nghiên cứu mô tả, cắt ngang, tiến cứu. 

Tiêu chuẩn chọn bệnh 
Các bệnh nhân có thông khí cơ học điều trị 
tại Khoa Hồi sức tích cực ‐ Chống độc, Bệnh viện 
Nhân  dân  Gia  Định  thời  gian  từ  đầu  tháng 
01/2013 đến cuối tháng 5/2013 (5 tháng). 

Tiêu chuẩn loại trừ  
Bệnh  nhân  có  suy  thận  mạn  hoặc  bệnh  lý 
tuyến cận giáp. 

Tiến hành 
Bệnh  nhân  được  định  lượng  phosphat  máu 

vào ngày N1 và N3 từ khi thông khí cơ học và ở 
thời điểm cai máy thở. 
Ghi  nhận  các  bệnh  lý  gây  suy  hô  hấp  phải 
thông khí cơ học của bệnh nhân. 
Ghi  nhận  tỷ  lệ  và  mức  độ  nặng  của  hạ 
phosphat máu ở bệnh nhân có thông khí cơ học. 

Hạ  phosphat  máu  có  thể  gây  suy  hô  hấp(2). 
Hạ  phosphat  máu  cũng  làm  suy  yếu  sức  co  cơ 
hoành  trong  lúc  suy  hô  hấp(2,3).  Tuy  vậy,  hạ 
phosphat  máu  lại  ít  được  quan  tâm  chẩn  đoán 
và  điều  trị,  trong  bối  cảnh  bệnh  nhân  có  nhiều 
bệnh nặng, phối hợp, đặc biệt là các bệnh nhân 
có thông khí cơ học. 

Tìm  hiểu  sự  liên  quan  giữa  nồng  độ 
phosphat máu và cai máy thành công hoặc thất 
bại. 

Hạ  phosphat  máu  gặp  trong  21,5%  các 
trường  hợp  suy  hô  hấp;  mức  độ  hạ  phosphat 
máu không tương ứng với mức độ nặng của suy 
hô hấp(2,6). 

Đặc tính dân số học. 

Vì vậy chúng tôi tiến hành nghiên cứu đoàn 
hệ  tiền  cứu  nhằm  đánh  giá  tỷ  lệ  hạ  phosphat 
máu ở các bệnh nhân có thông khí cơ học điều 
trị tại Khoa Hồi sức tích cực ‐ Chống độc và sự 

liên  quan  giữa  nồng  độ  phosphat  máu  và  cai 
máy thất bại.  

Mục tiêu nghiên cứu. 
Khảo sát tỷ lệ hạ phosphat máu ở các bệnh 
nhân có thông khí cơ học điều trị tại Khoa Hồi 
sức  tích  cực  ‐  Chống  độc  và  sự  liên  quan  giữa 
nồng độ phosphat máu và cai máy thất bại.  

KẾT QUẢ 
Sau 5 tháng nghiên cứu, chúng tôi thu thập 
được 30 bệnh nhân (BN), gồm 12 nam, 18 nữ.  
Tuổi  trung  bình  của  nhóm  bệnh  nhân 
nghiên cứu là 71,3 ±  18,9.  Trẻ  nhất  là  23  và  lớn 
tuổi nhất là 96. Tỷ lệ nam:nữ là 1:1,5. 

Đặc điểm bệnh học 
Chỉ định thông khí cơ học 
Bảng 1: Chỉ định thông khí cơ học 
Viêm phổi
Ngừng tim
Bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính (COPD)
Nhiễm khuẩn huyết

N = 30 (100%)
20 (66,7%)
5 (16,7%)
4 (13,3%)
1 (3,3%)


Chỉ  định  thông  khí  cơ  học  do  viêm  phổi 
chiếm tỷ lệ 66,7% (20/30 BN). 
Nồng  độ  phosphat  máu  trong  24  giờ  đầu 
thông khí cơ học (N1) là 1,33 ± 0,71 mmol/L. 

Hội Nghị Khoa Học Công Nghệ BV. Nhân Dân Gia Định năm 2013  

107


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Số 6 * 2013

Nghiên cứu Y học 
Tỷ  lệ  hạ  phosphat  máu  trong  24  giờ  đầu 
thông khí cơ học là 20% (6/30 BN). 
Bảng 2: Mức độ hạ phosphat máu trong 24 giờ đầu 
thông khí cơ học 
Hạ Phosphat máu N1
Mức độ nhẹ: 0,65 - < 0,80 mmol/L
Mức độ vừa: 0,32 - < 0,65 mmol/L
Mức độ nặng: < 0,32 mmol/L

N=6
2
4
0

Tỷ lệ
33,3%
66,7%

0%

Hạ  Phosphat  máu  trong  24  giờ  đầu  Thông 
khí cơ học ở mức độ vừa (66,7%) và nhẹ (33,3%). 
Nồng độ Phosphat máu ở ngày thứ 3 Thông 
khí cơ học (N3) là 1,07 ± 0,58 mmol/L. 
Tỷ lệ Hạ Phosphat máu ở ngày thứ 3 Thông 
khí cơ học là 33,3% (10/30 BN) 
Bảng 3: Mức độ hạ phosphat máu ở ngày thứ 3 
thông khí cơ học 
Hạ Phosphat máu N3
Mức độ nhẹ: 0,65 - < 0,80 mmol/L
Mức độ vừa: 0,32 - < 0,65 mmol/L
Mức độ nặng: < 0,32 mmol/L

N = 10
4
5
1

Tỷ lệ
40%
50%
10%

Hạ phosphat máu ở ngày thứ 3 Thông khí cơ 
học đa số mức độ vừa (50%) và nhẹ (40%). Có 1 
trường hợp hạ phosphat máu nặng. 

So sánh kết quả phosphat máu ở thời điểm 

N1 và N3 
Bảng 4: So sánh kết quả phosphat máu ở thời điểm 
N1 và N3 của từng bệnh nhân 
N = 30
Phosphat N1 <
Phosphat N3
Phosphat N1 >
Phosphat N3

Sự khác biệt
tối thiểu trung bình tối đa

9

-1,07

-0,31

-0,02

21

0,08

0,50

1,6

30


-1,07

0,26

1,6

70%  bệnh  nhân  (21/30  BN)  có  nồng  độ 
phosphat  máu  N3  so  với  N1  Thông  khí  cơ  học 
giảm trung bình 0,5 mmol/L.  
Nồng  độ  phosphat  máu  N3  của  cả  nhóm 
nghiên  cứu  giảm  so  với  N1  Thông  khí  cơ  học 
trung bình là 0,26 mmol/L. 

Nồng  độ  phosphat  máu  ở  thời  điểm  cai 
máy thở. 
Trong  nghiên  cứu,  có  15  lần  cai  máy  thành 
công và 13 lần thất bại.  

108

Bảng 5: Nồng độ phosphat máu ở thời điểm cai máy 
thở 
Cai máy thành công
Cai máy thất bại

n
15
13

Nồng độ Phosphat máu

1,14 ± 0,28 mmol/L *
0,96 ± 0,34 mmol/L *

*  p = 0,007 

BÀN LUẬN 
Hạ phosphat máu được định nghĩa là nhẹ (2 
‐ < 2,5 mg/dL, hoặc 0,65 ‐ < 0,81 mmol/L), vừa (1 
‐ < 2 mg/dL, hoặc 0,32 ‐ < 0,65 mmol/L), nặng (< 1 
mg/dL, hoặc < 0,32 mmol/L)(7,8,10,12,13). 
Hạ phosphat máu có thể gây suy hô hấp. Ở 
hầu  hết  bệnh  nhân  có  hạ  phosphat  máu,  phát 
hiện  có  tình  trạng  yếu  cơ  hô  hấp  (được  định 
nghĩa như áp lực hít vào tối đa thấp hoặc áp lực 
thở ra tối đa thấp), mà tình trạng này không có ở 
bệnh  nhân  có  phosphat  máu  bình  thường.  Sức 
mạnh của cơ hô hấp cải thiện sau bù phosphat(2). 
Có sự liên quan giữa giảm áp lực hít vào tối đa 
và  mức  độ  nặng  của  hạ  phosphat  máu(2,9).  Hạ 
phosphat  máu  cũng  làm  suy  yếu  sức  co  cơ 
hoành trong lúc suy hô hấp(2,3). 
Hạ  phosphat  máu  gặp  trong  21,5%  các 
trường  hợp  suy  hô  hấp;  mức  độ  hạ  phosphat 
máu không tương ứng với mức độ nặng của suy 
hô hấp(2,6).  
Viêm  phổi  là  nguyên  nhân  chủ  yếu  để 
chúng  tôi  chỉ  định  thông  khí  cơ  học  với  tỷ  lệ 
66,7% (20/30 bệnh nhân), kế đến là ngừng tim 
16,7%  (5/30  bệnh  nhân),  bệnh  phổi  tắc  nghẽn 
mạn  tính  13,3%  (4/30  bệnh  nhân).  Trong 

nghiên cứu của Alsumrain, chỉ định thông khí 
cơ  học  là  nhiễm  trùng  huyết  (21‐25%),  bảo  vệ 
đường thở (13‐21%), viêm phổi (12‐14%), bệnh 
phổi tắc nghẽn mạn tính (10‐14%), suy tim (7‐
15%), ngừng tim (2‐14%)(1). 
Trong  nghiên  cứu  trước  đây,  nhóm  bệnh 
nhân hạ phosphat máu tại Khoa ICU Bệnh viện 
Nhân dân Gia Định chúng tôi có tỷ lệ thông khí 
cơ  học  là  53,74%,  tình  trạng  nhiễm  trùng  có  ở 
70,75%  bệnh  nhân,  trong  đó  chủ  yếu  là  nhiễm 
trùng hô hấp(11). 
Tỷ  lệ  hạ  phosphat  máu  trong  24  giờ  đầu 

Hội Nghị Khoa Học Công Nghệ BV. Nhân Dân Gia Định năm 2013  


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Số 6 * 2013 

Nghiên cứu Y học

thông khí cơ học trong nghiên cứu là 20%, tỷ lệ 
này là 33,3% vào ngày thứ 3 được thông khí hổ 
trợ.  Trong  khi  đó,  tại  Vellore  (Ấn  Độ),  nghiên 
cứu 28 bệnh nhân được thông khí cơ học trong 
vòng 24‐36 giờ tại ICU ghi nhận 43% bệnh nhân 
có  hạ  phosphat  máu,  những  bệnh  nhân  này  có 
tình trạng hạ thấp ngưỡng thận đối với phospho 
(p = 0,005) và tiểu phosphat không thích hợp(16).  

khí cơ học, số trường hợp hạ phosphat máu mức 

độ vừa và nhẹ ở ngày thứ 3 gia tăng hơn ngày 
đầu  thông  khí.  Ghi  nhận  1  trường  hợp  hạ 
phosphat máu mức độ nặng (phosphat máu 0,18 
mmol/L) sau 3 ngày thông khí, trường hợp này 
khi mới bắt đầu thông khí có phosphat máu 0,64 
mmol/L, tuy ở mức độ vừa nhưng giáp ranh với 
mức độ nhẹ. 

Chúng tôi ghi nhận nồng độ phosphat máu 
giảm theo thời gian thông khí cơ học. Nồng độ 
phosphat máu trong 24 giờ đầu thông khí cơ học 
(N1) là 1,33 ± 0,71 mmol/L, ở ngày thứ 3 thông 
khí cơ học (N3) là 1,07 ± 0,58 mmol/L. 70% bệnh 
nhân  (21/30  BN)  có  nồng  độ  phosphat  máu  N3 
giảm trung bình 0,5 mmol/L so với ngày 1 thông 
khí  cơ  học.  Nồng  độ  phosphat  máu  N3  của 
nhóm 30 bệnh nhân nghiên cứu giảm so với N1 
trung bình là 0,26 mmol/L. 

Laaban  và  cộng  sự  (Pháp)  nghiên  cứu  14 
bệnh nhân COPD có thông khí cơ học, ghi nhận 
phosphat  máu  giảm  có  ý  nghĩa  (p  <  0,001)  khi 
thông khí cơ học ở giờ thứ 1, 4, 7, 12 và 24. Hạ 
phosphat máu có ở tất cả bệnh nhân  thông  khí 
cơ học, nhưng giảm nặng (< 0,3 mmol/L) chỉ ở 2 
bệnh nhân. Có sự liên quan có ý nghĩa (r = 0,56; 
p  <  0,01)  giảm  phosphat  và  tăng  pH  khi  thông 
khí  cơ  học(14).  Makhoul  và  cộng  sự  (Israel) 
nghiên cứu 48 bệnh nhân COPD có thông khí cơ 
học, 10% có phosphat máu thấp từ nhẹ tới vừa, 

8% có phosphat máu rất thấp. Suy hô hấp có ở 
76,5%  bệnh  nhân  có  phosphat  máu  thấp  và  ở 
15,6% bệnh nhân có phosphat máu bình thường; 
nguy cơ suy hô hấp cao gấp 5 lần ở bệnh nhân 
có  phosphat  máu  thấp.  Nồng  độ  phospho  máu 
thấp  góp  phần  làm  gia  tăng  mức  độ  nặng  của 
đợt cấp COPD và cần phải thông khí hổ trợ(15). 

Thông  khí  dài  ngày  nếu  không  bù 
phosphat thì nồng độ phosphat của bệnh nhân 
giảm  dần,  dẫn  đến  tỷ  lệ  hạ  phosphate  máu  ở 
ngày thứ 1 từ 20% tăng lên 33,3% ở ngày thứ 3 
thông khí cơ học.  
Trong  nghiên  cứu  của  chúng  tôi,  hạ 
phosphat  máu  trong  24  giờ  đầu  thông  khí  cơ 
học chỉ ở mức độ vừa (66,7%) và nhẹ (33,3%). 
Đến ngày thứ 3 thông khí cơ học, hạ phosphat 
máu  thường  ở  mức  độ  vừa  (50%)  và  nhẹ 
(40%),  nhưng  có  1  trường  hợp  hạ  phosphat 
máu nặng (10%).  
Hạ  phosphat  máu  mức  độ  từ  nhẹ  tới  vừa 
thường  không  có  triệu  chứng.  Những  bất 
thường  lâm  sàng  nghiêm  trọng  thường  chỉ  xảy 
ra trong hạ phosphat máu nặng(8). Ở nhóm bệnh 
nhân nhập viện, tần suất hạ phosphat máu mức 
độ vừa từ 2,2 đến 3,1%, và tần suất hạ phosphat 
máu  mức  độ  nặng  là  0,2  đến  0,4%(5).  Trong 
nghiên cứu của chúng tôi trước đây (2013) trên 
bệnh  nhân  ICU  Nội  khoa  thì  phần  lớn  là  hạ 
phosphat  máu  mức  độ  từ  vừa  (61,70%)  tới  nhẹ 

(31,17%),  chỉ  ghi  nhận  1  trường  hợp  hạ 
phosphate máu mức độ nặng (2,13%)(11).  
Chúng  tôi  ghi  nhận  mức  độ  nặng  của  hạ 
phosphat  máu  cũng  tăng  theo  thời  gian  thông 

Trong  nghiên  cứu  của  chúng  tôi,  nồng  độ 
phosphat máu ở thời điểm cai máy thành  công 
(n  =  15)  là  1,14  ±  0,28  mmol/L  so  với  nồng  độ 
phosphat máu ở thời điểm cai máy thất bại (n = 
13) là 0,96 ± 0,34 mmol/L (p = 0,007). 
Nghiên  cứu  của  Alsumrain  và  cộng  sự  tại 
New Jersey (Mỹ, 2010) khảo sát sự kết hợp giữa 
hạ  phosphat  máu  và  cai  máy  thở  thất  bại  ở  2 
Khoa ICU Nội khoa với 66 bệnh nhân và 193 lần 
cai  máy  thở  ở  những  bệnh  nhân  này,  mà  cuối 
cùng tất cả đều cai máy thành công. Ở thời điểm 
cai máy thành công (n = 66), nồng độ phosphat 
máu  là  1,18  ±  0,27  mmol/L,  trong  khi  tất  cả  các 
lần cai máy thất bại (n = 127), nồng độ phosphat 
máu trung bình là 1,06 ± 0,31 mmol/L (p = 0,008). 
Bệnh  nhân  có  nồng  độ  phosphat  máu  thấp  (< 
0,80  mmol/L)  có  nguy  cơ  cai  máy  thở  thất  bại 
cao  hơn  bệnh  nhân  có  nồng  độ  phosphat  máu 

Hội Nghị Khoa Học Công Nghệ BV. Nhân Dân Gia Định năm 2013  

109


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Số 6 * 2013


Nghiên cứu Y học 
bình thường hoặc cao (RR = 1,18; 95% CI = 1,06 ‐ 
1,32;  p  =  0,01).  Nghiên  cứu  này  cho  thấy  có  sự 
kết hợp giữa hạ phosphat máu và cai‐máy‐thất‐
bại ở bệnh nhân ICU có thông khí hổ trợ(1). 

8.

9.

KẾT LUẬN 
Hạ  phosphate  máu,  nếu  không  được  điều 
chỉnh hoặc cung cấp bổ sung, sẽ gia tăng về tỷ lệ 
mắc  và  mức  độ  nặng  của  bệnh  kể  từ  khi  bệnh 
nhân được thông khí cơ học. 
Ở  thời  điểm  cai  máy  thở  thành  công,  nồng 
độ  phosphat  máu  cao  hơn  so  với  thời  điểm  cai 
máy thất bại. 

10.

11.

12.
13.

TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1.


2.

3.

4.

5.
6.

7.

Alsumrain  MH,  Jawad  SA,  Imran  NB,  Riar  S,  DeBari  VA, 
Adelman  M  (2010).  Association  of  hypophosphatemia  with 
failure‐to‐wean  from  mechanical  ventilation.  Ann  Clin  Lab  Sci. 
2010 Spring;40(2):144‐8. 
Amanzadeh  J,  Reilly  RF,  Jr  (2006).  Hypophosphatemia:  an 
evidence‐based  approach  to  its  clinical  consequences  and 
management. Nat Clin Pract Nephrol 2006;2:136‐48. 
Aubier  M  et  al  (1985).  Effect  of  hypophosphatemia  on 
diaphragmatic  contractility  in  patients  with  acute  respiratory 
failure. N Engl J Med 313: 420‐4. 
Brunelli  SM,  Goldfarb  S  (2007).  Hypophosphatemia:  Clinical 
Consequences  and  Management.  J  Am  Soc  Nephrol  2007, 
18:1999‐2003. 
Camp  MA,  Allon  M  (1990).  Severe  hypophosphatemia  in 
hospitalized patients. Miner Electrolyte Metab 1990, 16:365‐8. 
Fiaccadori  E  et  al  (1994).  Hypophosphatemia  and  phosphorus 
depletion in respiratory and peripheral muscles of patients with 
respiratory failure due to COPD. Chest 105: 1392‐8. 
Gaasbeek  A,  Meinders  AE  (2005).  Hypophosphatemia:  an 

 

110

14.

15.

16.

update on its etiology and treatment. Am J Med 2005; 118:1094‐
101. 
Geerse  DA,  Bindels  AJ,  Kuiper  MA,  Roos  AN,  Spronk  PE, 
Schultz,  MJ  (2010).  Treatment  of  hypophosphatemia  in  the 
intensive care unit: a review. Critical Care 2010, 14:R147. 
Gravelyn  TR  et  al  (1988).  Hypophosphatemia‐associated 
respiratory muscle weakness in a general inpatient population. 
Am J Med 84: 870‐6. 
Hoffmann  M,  Zemlin  AE,  Meyer  WP,  Erasmus  RT  (2008). 
Hypophosphataemia  at  a  large  academic  hospital  in  South 
Africa. J Clin Pathol 2008, 61:1104‐7. 
Huỳnh Văn Ân, Phan Văn Phong, Phạm Thái Thiện (2013). Hạ 
Phosphat máu ở bệnh nhân ICU Nội khoa. Hội Nghị Khoa Học 
Kỹ Thuật Đại Học Y Dược TP. HCM lần thứ 30 ‐ 11/01/2013. Y 
Học TP. Hồ Chí Minh, Tập 17, Phụ bản của Số 1, 2013, 268‐70. 
Knochel JP (1985). The clinical status of hypophosphatemia: an 
update. N Engl J Med 1985; 313:447‐9. 
Kruse  JA,  Al‐Douahji  M,  Carlson  RW  (1992). 
Hypophosphatemia  in  critically  ill  patients:  incidence  and 
associations. Crit Care Med 1992, 20:S104. 

Laaban  JP,  Grateau  G,  Psychoyos  I,  Laromiguière  M,  Vuong 
TK,  Rochemaure  J  (1989).  Hypophosphatemia  induced  by 
mechanical  ventilation  in  patients  with  chronic  obstructive 
pulmonary disease. Crit Care Med. 1989 Nov;17(11):1115‐20. 
Makhoul N, R Farah, L Jacobson (2011). Hypophosphatemia as 
a prognostic value in acute exacerbation of COPD. Presented at 
31st  International  Symposium  on  Intensive  Care  and  Emergency 
Medicine  ISICEM  2011,  20‐23  Mar  2011,  P369.  F1000  Posters 
2011, 2: 284 (poster) 
Srinivasagam D, Seshadri MS, Peter JV, Cherian AM, Charles D, 
Kanagasabapathy  AS  (1992).  Prevalence  &  pathogenesis  of 
hypophosphatemia in ventilated patients. Indian J Med Res. 1992 
Apr;96:87‐90.
 

Ngày nhận bài báo: 15/8/2013 
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 19/8/2013 
Ngày bài báo được đăng: 10/12/2013 

Hội Nghị Khoa Học Công Nghệ BV. Nhân Dân Gia Định năm 2013  



×