Tải bản đầy đủ (.pdf) (6 trang)

Đặc điểm lâm sàng và điều trị bệnh loạn trương lực cổ: Nhận xét trên 19 trường hợp được điều trị bằng botulinum toxin A

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (485.28 KB, 6 trang )

Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 1 * 2011

ĐẶC ĐIỂM LÂM SÀNG VÀ ĐIỀU TRỊ BỆNH LOẠN TRƯƠNG LỰC CỔ:
NHẬN XÉT TRÊN 19 TRƯỜNG HỢP ĐƯỢC ĐIỀU TRỊ
BẰNG BOTULINUM TOXIN A
Trần Ngọc Tài∗, Lê Minh∗∗

TÓMTẮT
Cơ sở: Loạn trương lực cổ là thể loạn trương lực khu trú khởi phát ở người lớn thường gặp nhất với đặc
điểm là tình trạng co cơ không chủ ý gây co rút hoặc xoắn vặn cổ, tạo tư thế đầu bất thường. Hiện nay, chẩn
đoán vẫn dựa vào lâm sàng và botulinum toxin được xem là lựa chọn đầu tiên trong điều trị loạn trương lực cổ.
Mục tiêu:Xác định đặc điểm lâm sàng và phân tích hiệu quả điều trị bệnh nhân loạn trương lực cổ bằng
botulinum toxin (Dysport®) tại Bệnh viện Đại Học Y Dược TP. Hồ Chí Minh.
Phương pháp và bệnh nhân: Đây là một nghiên cứu mô tả và quan sát không can thiệp quá trình điều trị
với mẫu nghiên cứu gồm tất cả những bệnh nhân loạn trương lực cổ > 18 tuổi được điều trị botulinum toxin
(Dysport®) tại Phân khoa thần kinh, BV Đại Học y Dược TP. Hồ Chí Minh từ tháng 6/2008 đến tháng 6/2010.
Tất cả bệnh nhân trước khi điều trị Dysport® sẽ được khám và ghi nhận các đặc điểm về dân số học, lâm sàng, và
đánh giá mức độ LTL theo thang điểm TWSTRS (Toronto Western Spasmodic Torticollis Rating Scale) trước và
sau điều trị.
Kết quả: Có tổng cộng 19 bệnh nhân thỏa mãn tiêu chuẩn trong thời gian nghiên cứu với 30 lượt chích.
Ghi nhận tuổi trung bình 47±16, thời gian mắc bệnh trung bình 4,7 năm, tiền sử chấn thương đầu cổ 16,7%.
Loạn trương lực cổ phức tạp thường gặp nhất (83,3%), 33,3% trường hợp có LTL ngoài cổ. 16,7% đáp ứng với
điều trị thuốc uống. Chẩn đoán sai tuyến trước là 46,7%. Liều Dysport điều trị trung bình 446 UI. Số lượt điều
trị trung bình trên mỗi bệnh nhân là 3,1. Khoảng thời gian có hiệu quả 14 ± 9tuần. Tỉ lệ bệnh nhân có đáp ứng
điều trị 83,3%. Điều trị Dysport® cải thiện đáng kể triệu chứng của bệnh nhân dựa trên thang điểm TWSTRS
(trước điều trị: 41,97 ± 8,93; sau điều trị: 16,3 ± 10,35; p< 0,0001), độ nặng (trước: 21,13 ± 3,12; Sau: 9,87 ±
5,83; p<0,0001), độ tàn phế (trước: 16,77 ± 4,94; sau: 5,5 ± 4,71; p<0,0001) và điểm đau (trước: 4,07 ±4,56; sau:
0,97 ± 1,3; p<0,0001). Tác dụng phụ thường gặp gồm nuốt khó, nói khó (40%), mỏi cổ, yếu cơ cổ (30%), khô
miệng (10%) nhưng nhẹ và thoáng qua.


Kết luận: Chẩn đoán loạn trương lực cổ chủ yếu dựa vào lâm sàng nên tỉ lệ chẩn đoán sai còn cao. Bệnh có
thể kèm theo loạn trương lực ở những nơi khác của cơ thể. Dysport® đã được chứng minh là phương thức điều
trị hữu hiệu bệnh loạn trương lực cổ nên cần được ứng dụng rộng rãi trong điều trị loại bệnh này.
Từ khóa: loạn trương lực, loạn trương lực cổ, đặc điểm lâm sàng, botulinum toxin.

ABSTRACT
CLINICAL FEATURES AND THERAPEUTICAL ASPECTS OF CERVICAL DYSTONIA: A STUDY
ON 19 PATIENTS TREATED WITH BOTULINUM TOXIN A
Tran Ngoc Tai, Le Minh
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 15 - Supplement of No 1 - 2011: 674 - 679
Background: Cervical dystonia is the most common form of adult-onset focal dystonia characterized by
* Phân Khoa Thần Kinh, Bệnh viện Đại Học Y Dược TP. Hồ Chí Minh
**Bộ môn Thần Kinh, Đại Học Y Dược TP. Hồ Chí Minh
Tác giả liên lạc: BS Trần Ngọc Tài
ĐT: 01913190606
Email:

674

Chuyên Đề Nội Khoa


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 1 * 2011

Nghiên cứu Y học

sustained involuntary muscle contraction resulting in twisting and turning of the neck and abnormal head
posture. The diagnosis of cervical dystonia is chiefly based on clinical assessment and botulinum toxin is
now recommended as the first line treatment for this type of movement disorder.
Objectives: To identify clinical features and to analyze the effectiveness of botulinum toxin A (Dysport®)

in the treatment of cervical dystonia A at the HCMC University Medical Center.
Method: This is a desciptive and non-intervention study including all cervical dystonia patients over 18
years old treated with botulinum toxin (Dysport®) at the neurology department during the period between
6/2008 and 6/2010. We collected demographic and clinical features and assessed TWSTRS before and after
treatment.
Results: All 19 patients were included with 30 injections. Average age was 47± 16 and duration of the
disease was 4.7 years. Previous head-neck trauma was present in 16.7% of the cases. Complex cervical dystonia
was the most common clinical form (83.3%). 33.3% of cases were associated with other focal dystonia. 16.7% of
patients improved at the early stage of the disorder with oral medications. Previous misdiagnosis was 46.7%. The
average dose of Dysport was 446 UI. Each patient received 3.1 injections. Duration of injection efficacy was 14 ±
9 weeks. 83.3% of patients responded to the treatment. According to TWSTRS, the patients’ symptoms improved
significantly after Dysport® injections (before treatment: 41.97 ± 8.93; after treatment: 16.3 ± 10.35; p< 0.0001),
there were obvious recessions of the severity of cervical dystonia (before: 21.13 ± 3.12; after: 9.87 ± 5.83;
p<0.0001), of the disability (before: 16.77 ± 4.94; after: 5.5 ± 4.71; p<0.0001) and of the pain (before: 4.07 ±4.56;
after: 0.97 ± 1.3; p<0.0001). Most common found but mild and transitory side effects included dysphagia and
dyarthria (40%), neck fatigue and weakness (30%), and dry mouth (10%).
Conclusion: Misdiagnosis of cervical dystonia was still high in the medical practice. Cervical dystonia can
be associated with dystonia of other body regions. Botulinum toxin A, Dysport® included, is an obvious efficient
mean for the treatment of cervical dystonia.
Key words: Dystonia, cervical dystonia, clinical features, botulinum toxin.
hiệu quả điều trị thường kém. Từ năm 2000,
ĐẶT VẤN ĐỀ
Hiệp hội thuốc và dược phẩm Mỹ (FDA) đã
Loạn trương lực cổ là thể loạn trương lực
khuyến cáo botulinum toxin trong điều trị loạn
khu trú khởi phát ở người lớn thường gặp nhất
trương lực cổ. Và hiện nay, botulinum toxin
với đặc điểm là tình trạng co cơ không chủ ý gây
được xem là lựa chọn đầu tiên trong điều trị
co rút hoặc xoắn vặn cổ, tạo tư thế đầu bất

loạn trương lực cổ(9).
thường(8). Tỉ lệ hiện mắc ước tính khoảng
Có tất cả 7 loại botulinum toxin (A, B, C, D,
9/100.000, tỉ lệ mới mắc là 1,1/100000 dân mỗi
E, F và G) nhưng chỉ có 2 loại A và B dùng trong
năm(8). Có rất nhiều tư thế đầu bất thường được
điều trị. Giữa các loại botulinum toxin có những
mô tả, có thể tạo ra tư thế xoay đầu (torticollis),
đặc tính dược lý và hiệu lực tác dụng khác nhau,
nghiêng sang bên (laterocollis) hoặc cúi đầu
liều lượng không tương đương nhau kể cả trong
(anterocollis), ngửa đầu (retrocollis), hoặc phối
cùng một nhóm. Ví dụ: cùng một nhóm
hợp các tư thế này. Ở hầu hết bệnh nhân, một tư
botulinum toxin -A nhưng Botox® (của công ty
thế bất thường hiện diện >75% thời gian, nhưng
Allergan) và Dyport® (của công ty Ipsen) có liều
nó có thể thay đổi đáng kể trong suốt diễn tiến
sử dụng khác nhau. Do đó, chúng tôi chủ ý
của bệnh.
dùng tên thương mại trong nghiên cứu này.
Cho đến nay, chẩn đoán vẫn dựa vào lâm
Tại Bệnh viện Đại học Y Dược Thành Phố
sàng và chưa có một tiêu chuẩn chẩn đoán
Hồ Chí Minh, chúng tôi đã bắt đầu điều trị
thống nhất nào(11). Trước đây, điều trị loạn
những bệnh nhân loạn trương lực bằng
trương lực cổ chủ yếu dựa vào thuốc, tuy nhiên

Chuyên Đề Nội Khoa


675


Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 1 * 2011

botulinum toxin (Dysport®) từ năm 2003.
Chúng tôi đã báo cáo kết quả điều trị botulinum
toxin trên những bệnh nhân co thắt nửa mặt vào
năm 2008. Mục tiêu nghiên cứu này nhằm chia
sẽ những kinh nghiệm mà chúng tôi đã thực
hiện điều trị botulinum toxin (Dysport®) trên
những bệnh nhân loạn trương lực cổ.

Mục tiêu
Xác định đặc điểm lâm sàng và phân tích
hiệu quả điều trị bệnh nhân loạn trương lực cổ
bằng botulinum toxin (Dysport®) tại Bệnh viện
Đại Học Y Dược TP. Hồ Chí Minh.

ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN C ỨU
Đây là một nghiên cứu mô tả và quan sát
không can thiệp quá trình điều trị với mẫu
nghiên cứu gồm tất cả những bệnh nhân loạn
trương lực cổ > 18 tuổi tự nguyện đến điều trị
botulinum toxin (Dysport®) tại Phân khoa thần
kinh, Bệnh Viện Đại Học y Dược TP. Hồ Chí
Minh từ tháng 6/2008 đến tháng 6/2010.

Tất cả bệnh nhân trước khi điều trị
Dysport® sẽ được khám và ghi nhận các đặc
điểm về dân số học, lâm sàng, đánh giá mức độ
loạn trương lực cổ theo thang điểm TWSTRS
(Toronto Western Spasmodic Torticollis Rating
Scale)(3) với cả ba thành phần: độ nặng, độ tàn
phế và mức độ đau. Bệnh nhân sẽ được ghi
nhận liều thuốc Dysport®, theo dõi và đánh giá
lại thang điểm TWSTRS sau 4-6 tuần, mức độ
hiệu quả theo chủ quan của bệnh nhân và tác
dụng phụ sau điều trị. Bệnh nhân sẽ được gọi
điện thoại để ghi nhận thời gian hiệu quả của
thuốc sau 4-6 tháng điều trị.
Bệnh nhân được xem là có đáp ứng với
thuốc khi TWSTRS giảm ≥ 30% so với giá trị
trước khi điều trị.
Số liệu được xử lý dựa trên phần mềm SPSS
phiên bản 16.0 for window.

KẾT QUẢ
Có tổng cộng 19 bệnh nhân thỏa mãn tiêu
chuẩn trong thời gian nghiên cứu với 30 lượt

676

chích. Các đặc điểm về dân số học, triệu chứng
lâm sàng được ghi nhận trong (bảng 1).
Bảng 1: Đặc điểm dân số và lâm sàng của 19 trường
hợp loạn trương lực cổ
Đặc điểm

Tuổi
Nam : Nữ
Thời gian mắc bệnh (năm)
Loạn Trương lực ngoài cổ, nơi khác (%)
Thuyên giảm buổi sáng (%)
Thời gian thuyên giảm (phút)
Đáp ứng với điều trị bằng thuốc uống (%)
Tiền sử dùng thuốc chống loạn thần (%)
Tiền sử chấn thương vùng đầu cổ (%)
Thể loạn trương lực cổ (%)
- Xoay
- Ngửa
- Phức tạp
Phì đại vùng cổ (%)
Nhạy đau khi sờ (%)
Giảm khi kích thích cảm giác (%)

Kết quả
47 ± 16
3:2
4,7 ± 7
33,3
73,3
24 ± 25
16,7
3,3
16,7
13,3
3,3
83,3

96,7
86,3
93,3

Tất cả bệnh nhân tham gia điều trị Dysport
đều được điều trị thuốc uống trước đó và ghi
nhận tỉ lệ đáp ứng thuốc là 16,7%. Đánh giá
thang điểm TWSTRS trước và sau điều trị ghi
nhận hiệu quả điều trị Dysport® trên bệnh nhân
loạn trương lực cổ là có ý nghĩa. Bảng 2 và bảng
3 cho thấy kết quả điều trị loạn trương lực cổ
bằng botulinum toxin A (Dysport).
Bảng 2: Hiệu quả của điều trị loạn trương lực cổ
bằng botulinum toxin A (Dysport)
Đánh giá
điều trị
Dysport

Trước điều
Sau điều trị
trị

TWTRS

41,97±8,93 16,3±10,35

Độ nặng

21,13±3,12


Độ tàn phế

16,77±4,94

Điểm đau

4,07±4,56

Giá trị P

<0,0001 (CI 95%;
20,61 -30,71)
<0,0001 (CI95%;
9,87±5,83
9,01 – 13,52)
< 0,0001 (CI95%;
5,5±4,71
8,78 – 13,75)
<0,0001 (CI95%;
0,97±1,3
1,7 – 4,5)

Bảng 3: Khoảng thời gian có hiệu lực và tác dụng
phụ của botulinum toxin A (Dysport)
Hiệu quả và tác dụng phụ

Kết quả

Liều Dysport điều trị (UI)
Số lượt điều trị trên mỗi bệnh nhân

Khởi đầu có hiệu quả (ngày)

446 ± 60
3,1 ± 2,94
10,6 ± 4,3

Chuyên Đề Nội Khoa


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 1 * 2011
Hiệu quả và tác dụng phụ
Khoảng thời gian có hiệu quả (tuần)
Tỉ lệ thuyên giảm (%):
Theo chủ quan bệnh nhân
Theo TWTRS
Tỉ lệ bệnh nhân đáp ứng (%)
Nuốt khó, nói khó (%)
Mỏi cổ, yếu cơ cổ (%)
Khô miệng (%)
Tác dụng phụ khác (%)

Kết quả
14 ± 9
62,5±27,91
59,1±25,12
83,33
40
30
10
3


BÀN LUẬN
Hầu hết các trường hợp loạn trương lực cổ
không có nguyên nhân rõ ràng từ bệnh sử lâm
sàng. Vai trò của yếu tố gene được xem là có
liên quan thông qua một số nghiên cứu dịch tễ
và phả hệ cho nên điều trị khỏi bệnh vẫn còn
là một thử thách(9). Một số yếu tố được xem là
có liên quan đến loại loạn trương lực này.
Trong một nghiên cứu, 11% trường hợp loạn
trương lực cổ có liên quan với chấn thương
đầu, cổ hoặc vai (7). Trong nhóm bệnh nhân của
chúng tôi, tỉ lệ này là 16,7%. Trường hợp khởi
bệnh trễ sau chấn thương (3-12 tháng), biểu
hiện lâm sàng thường khó phân biệt với loạn
trương lực cổ nguyên phát. Trường hợp khởi
bệnh sớm sau chấn thương (trong vòng 4
tuần), triệu chứng dễ phân biệt hơn như hạn
chế cử động cổ, tư thế dai dẳng, đau nhiều,
không đáp ứng với kích thích cảm giác và đáp
ứng rất kém với Botulinum toxin(9).
Loạn trương lực cổ thường gặp ở người lớn
tuổi, thường gặp nhất là 50 tuổi với 40-60 tuổi
chiếm 70-90%(11). Nghiên cứu chúng tôi ghi nhận
tuổi trung bình là 47.
Người bệnh thường đến điều trị muộn,
chúng tôi ghi nhận trung bình sau 4,7 năm. Một
trong nhiều lý do để giải thích sự chậm trể này
là chẩn đoán ban đầu không đúng (46,7%
trường hợp được chẩn đoán sai trước khi đến

với chúng tôi).
Trước đây, thuật ngữ vẹo cổ (torticollis) hàm
ý nói lên tình trạng xoay cổ mà hướng xoay là
hướng xoay cằm. Tuy nhiên, ngoài xoay cổ còn
có các tư thế cổ bất thường khác như gập cổ

Chuyên Đề Nội Khoa

Nghiên cứu Y học

(anterocollis), ngửa cổ (retrocollis), nghiêng cổ
(laterocollis) và tư thế cổ phức tạp (phối hợp các
thể khác). Trong đó, tư thế cổ phức tạp là
thường gặp nhất. Theo Jankovic và csv(7), tư thế
cổ phức tạp chiếm đến 66%. Trong nghiên cứu
của chúng tôi là 83,3%. Do đó, thuật ngữ loạn
trương lực cổ được xem là thích hợp hơn trong
thể bệnh này(14).
Khoảng 20% trường hợp loạn trương lực
thường lan ra khỏi vùng cổ nhưng hiếm khi toàn
thể, thường gặp nhất là loạn trương lực hàm
miệng, co thắt mi mắt, loạn trương lực khu trú
bàn tay người viết, loạn trương lực trục thân(7).
Chúng tôi ghi nhận 33% trường hợp loạn trương
lực cổ có kèm loạn trương lực ở những nơi khác.
Một số yếu tố giúp thuyên giảm triệu chứng
thường được ghi nhận rõ. Vai trò của cơ chế cảm
giác được phản ánh qua việc bệnh nhân sử dụng
kích thích cảm giác (sensory tricks) để giảm co
cơ do loạn trương lực. Khởi đầu sờ cằm, mặt,

hoặc đầu có thể hiệu quả. Mặc dù các kích thích
này có thể rất hữu ích đối với nhiều bệnh nhân ở
giai đoạn sớm của bệnh, nhưng chúng mất hiệu
quả dần khi bệnh tiến triển. Trong nghiên cứu
chúng tôi, 93,3% trường hợp đáp ứng với kích
thích cảm giác. Cơ chế của kích thích cảm giác
vẫn chưa rõ, nhưng gợi ý một yếu tố cảm giác có
khả năng là cơ chế của rối loạn vận động này.
Ngoài ra, triệu chứng cải thiện sau khi thức: gặp
73,3% trường hợp, thường kéo dài < 1 giờ.
Tàn phế thường gặp trong loạn trương lực
cổ dao động từ nhẹ như khó chịu chủ quan đến
nặng có thể ảnh hưởng công việc và hoạt động
xã hội, người bệnh có thể giảm năng suất công
việc, có thể bị đuổi việc hoặc ngừng các hoạt
động xã hội. Ngoài ra, loạn trương lực cổ có thể
gây ra các biến chứng như thoái hóa cột sống cổ,
chèn ép rễ, tủy, chèn ép thần kinh trụ do dùng
tay làm kích thích cảm giác, hay trầm cảm…
Trong nhóm bệnh nhân của chúng tôi, 53,3%
bệnh nhân có biến chứng, trong đó trầm cảm là
thường gặp nhất.
Cho đến nay, chưa có phương pháp chữa
lành bệnh, việc điều trị chỉ giúp thuyên giảm

677


Nghiên cứu Y học


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 1 * 2011

triệu chứng. Do đó, nên hướng người bệnh đến
những mục tiêu cần đạt được cho việc điều trị.
Giảm đau thường là mục tiêu đầu tiên, ngoài ra
điều trị giúp giảm tàn phế, cải thiện các hoạt
động hàng ngày và giảm bất thường tư thế (12).
Trước thời kỳ sử dụng botulinum toxin,
thuốc uống được xem là điều trị đầu tay cho
những bệnh nhân loạn trương lực cổ (1). Theo ghi
nhận của chúng tôi, tất cả bệnh nhân đều đã
được điều trị bằng thuốc uống trước khi điều trị
botulinum toxin. Theo bác sĩ điều trị, lý do của
việc sử dụng thuốc uống đầu tiên vì thuốc tương
đối rẻ tiền. Chúng tôi ghi nhận chỉ có 16,7%
bệnh nhân có đáp ứng thuốc uống, các thuốc
uống thường được bác sĩ kê toa là
trihexyphenidyl,
baclofen,
clonazepam,
haloperidol. Tuy nhiên phần lớn các trường hợp
có đáp ứng với thuốc uống rất kém nên bệnh
nhân mới quyết định chọn lựa phương pháp
điều trị bằng botulinum toxin.
Trong nhiều nghiên cứu, điều trị bằng
botulinum toxin có hiệu quả ở 70-90% bệnh
nhân (15-30% trường hợp không đáp ứng với
botulinum toxin)(2,4). Trong nhóm bệnh nhân
chúng tôi, 83,3% trường hợp đáp ứng với điều
trị Dysport®. Hiệu quả điều trị được ghi nhận

trên cả đánh giá chủ quan của bệnh nhân và
khách quan qua thang điểm TWSTRS. Trong các
phân nhóm của thang điểm TWSTRS, độ nặng,
độ tàn phế và độ đau đều có sự thuyên giảm có
ý nghĩa so với trước điều trị (p<0,0001). Hiệu
quả điều trị loạn trương lực cổ bằng Dysport®
cũng đã được chứng minh trong những nghiên
cứu đối chứng ngẫu nhiên gần đây(13).
Chúng tôi ghi nhận 16,7% không đáp ứng
với điều trị Dysport® (đáp ứng < 30%). Các
nghiên cứu cũng ghi nhận tỉ lệ không đáp ứng
dao động 15-30%(4). Tuy nhiên, con số này có thể
cao hơn thực tế do người bệnh không đáp ứng
với lần chích đầu tiên thường liên quan đến
chọn liều không thích hợp, chọn cơ không thích
hợp hoặc do các cơ trước sống khó tiêm vào, hơn

678

là do kháng thuốc tiên phát. Nếu chúng tôi loại
bỏ những bệnh nhân chích lần đầu trong nghiên
của mình thì tỉ lệ lượt bệnh nhân không đáp ứng
là 1/18 (5,6%).
Thời gian có hiệu quả trung bình 14 tuần
trong nhóm bệnh nhân của chúng tôi. Theo
Duaer và csv(5), thời gian hiệu quả sau lần tiêm
đầu tiên là 8-16 tuần. Chúng tôi ghi nhận có
trường hợp bệnh nhân đáp ứng điều trị lên đến
2 năm. Theo một nghiên cứu kéo dài đến 10 năm
ghi nhận Dyport vẫn hiệu quả và an toàn đến

60% bệnh nhân(6).
Tác dụng phụ thường nhẹ và tự giới hạn.
Trong số bệnh nhân chúng tôi, bệnh nhân
thường than phiền nuốt khó, mỏi cổ, tuy nhiên
không có trường hợp nào nặng phải nuôi ăn qua
ống thông, nuôi ăn tĩnh mạch. Một số bệnh nhân
yếu cổ cần mang nẹp cổ vài ngày rồi thoái lui.

KẾT LUẬN
Loạn trương lực cổ là thể loạn trương lực
khu trú thường gặp nhất ở người lớn. Người
bệnh có thể kèm theo loạn trương lực ở những
nơi khác của cơ thể. Bệnh có thể gây tàn phế
nặng, ảnh hưởng đến chất lượng sống. Việc
chẩn đoán chính xác để hướng dẫn người bệnh
đi khám bác sĩ chuyên khoa còn thấp.
Điều trị bằng botulinum toxin A được xem
như một cuộc cách mạng trong điều trị loạn
trương lực cổ. Hiện nay, botulinum toxin được
xem là thuốc điều trị đầu tay cho bệnh nhân
loạn trương lực cổ và giúp giảm triệu chứng ở
đến 83,3% bệnh nhân. Tuy không là một nghiên
cứu can thiệp ngẩu nhiên đối chứng, nhưng
kinh nghiệm từ nghiên cứu này đã bổ sung
thêm chứng cứ về hiệu quả của điều trị Dysport
trên bệnh nhân loạn trương lực cổ ở Việt Nam.
Tác dụng phụ thường nhẹ và thoáng qua. Thuốc
cần được ứng dụng rộng rãi trong điều trị loạn
trương lực cổ nhưng trở ngại chính hiện nay đối
với nhiều người bệnh Việt Nam là chi phí khá

cao so với thu nhập của mỗi người.

Chuyên Đề Nội Khoa


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 1 * 2011
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.

2.

3.

4.
5.

6.

7.

Adler CH, Kumar R (2000). Pharmacological and surgical
options for treatment of cervical dystonia. Neurology, 55(5): S914.
Comella CL, Jankovic J, Brin ME (2000). Use of botulinum
toxin type A in the treatment of cervical dystonia. Neurology,
55(5): S15-21.
Comella CL, Stebbins CT, Goetz CG, Chmura TA, Bressman
SB and Lang AE (1997). Teaching Tape for the Motor Section
of the Toronto Western Spasmodic Torticollis Scale. Mov
Disord, 12(4): 570-5.
Comella CL, Thompson PD (2006). Treatment of cervical

dystonia with botulinum toxins. Eur J Neurol, 13(1): 16-20.
Dauer WT, Burke RE, Greene P, Fahn S (1998). Current
concepts on the clinical features, aetiology and management
of idiopathic cervical dystonia. Brain,121: 547-60.
Haussermann P, Marczoch S, et al (2004). Long term followup of cervical dystonia petients treated with Botulinum toxin
A. Mov disord, 19: 303-8.
Jankovic J, Leder S, Warner D, Schwartz K (1991). Cervical
dystonia: clinical findings and associated movement
disorders. Neurology,41: 1088-91.

Chuyên Đề Nội Khoa

8.

9.

10.
11.
12.

13.

14.

Nghiên cứu Y học

Nutt JG, Muenter MD, Aronson A, Kurland LT, Melton LJ
(1988). Epidemiology of focal and generalized dystonia in
Rochester, Minnesota. Mov Disord, 3: 188–94.
Simpson DM, Blitzer A, Brashear A, Comella C, Dubinsky R,

Hallett M, et al (2008). Assessment: botulinum neurotoxin for
the treatment of movement disorders (an evidence-based
review): report of the Therapeutics and Technology
Assessment Subcommittee of the American Academy of
Neurology. Neurology,70: 1699-706.
Singer C, Velickovic M (2008). Cervical Dystonia: Etiology
and Pathophysiology. Neurologic clinics, supp 1: 9-22.
Stacy M.(2008). Epidemiology, clinical presentation, and
diagnosis of cervical dystonia. Neurologic clinics, supp 1: 23-42.
Swopc D, Barbano R (2008). Treatment Recommendations
and Practical Applications of Botulinum Toxin Treatment of
Cervical Dystonia. Neurologic clinics, supp 1: 54-65.
Truong D, Duane DD, Jankovic J, et al (2005). Efficacy and
safety of Botulinum type A toxin (Dysport) in cervical
dystonia: a prospective, randomized, double-blind, placebocontrolled study. Mov disord, 20: 783-91.
Velickovic M, Benabou R, Brin MF (2001). Cervical dystonia
pathophysiology and treatment options. Drug, 61: 1921-43.

679



×