Nghiên cứu Y học
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014
ĐÁNH GIÁ TỔN THƯƠNG TRÊN MRI SỌ NÃO
Ở BỆNH NHÂN SA SÚT TRÍ TUỆ
Vũ Anh Nhị*, Phan Hoàng Phương Khanh*
TÓM TẮT
Mở đầu: Sa sút trí tuệ gồm nhiều thể bệnh, do nhiều nguyên nhân gây ra mà triệu chứng lâm sàng của các
thể này thường trùng lấp, không thể chẩn đoán chính xác nếu chỉ dựa vào lâm sàng. Để góp phần chẩn đoán sa
sút trí tuệ, chúng ta cần có thêm sự hỗ trợ của khảo sát hình ảnh học não, đặc biệt là MRI não (Magnetic
Resonance Imaging).
Mục tiêu: mô tả các sang thương trên MRI não ở bệnh nhân sa sút trí tuệ, mô tả đặc điểm các dạng sang
thương trên MRI não theo từng nguyên nhân sa sút trí tuệ, đồng thời quan sát mối liên quan giữa mức độ tổn
thương trên MRI não và độ nặng của sa sút trí tuệ thông qua điểm số MMSE (Mini Mental State
Examination).
Phương pháp: Đây là một nghiên cứu mô tả hàng loạt ca. Chúng tôi tiến hành khảo sát MRI não trên
những bệnh nhân sa sút trí tuệ đến khám tại khoa Nội Thần Kinh hay nằm viện tại khoa Nội Tổng Hợp bệnh
viện Đại Học Y Dược thành phố Hồ Chí Minh từ tháng 11/2012 đến tháng 4/2013.
Kết quả: Có 61 bệnh nhân sa sút trí tuệ được khảo sát, tuổi trung bình 75,75; nữ chiếm 59%. 100% bệnh
nhân có bất thường trên MRI não với teo não, tổn thương chất trắng, sang thương mạch máu, giãn não thất.
Điểm trung bình teo thái dương trong (MTA) không khác biệt giữa nhóm bệnh nhân Alzheimer và nhóm sa sút
trí tuệ còn lại (2,32±1,2 so với 2,12±0,9, p>0,05), điểm trung bình teo não phía sau (PA) cao hơn ở nhóm bệnh
nhân Alzheimer so với nhóm bệnh nhân sa sút trí tuệ còn lại (2,47±0,6 so với 1,64±0,8, p<0,001). Tỉ lệ tổn
thương chất trắng nặng Fazekas>1 cao hơn ở nhóm sa sút trí tuệ mạch máu so với nhóm sa sút trí tuệ còn lại.
Bệnh mạch máu nhỏ là loại sang thương mạch máu gặp nhiều nhất và chiếm đến 100% trong nhóm sa sút trí tuệ
mạch máu. Độ nặng của teo thái dương trong, teo não phía sau tương quan thuận với điểm MMSE, tỉ lệ giãn
não thất cao nhất ở nhóm bệnh nhân có điểm MMSE từ 0 đến 11.
Kết luận: 100% bệnh nhân sa sút trí tuệ có bất thường trên MRI não. Teo thái dương trong và teo não phía
sau nặng gặp nhiều nhất ở bệnh Alzheimer (AD‐ Alzheimer disease) nhưng chỉ teo não phía sau giúp phân biệt
bệnh Alzheimer với nhóm sa sút trí tuệ còn lại. Tổn thương chất trắng và bệnh lý mạch máu nhỏ đóng vai trò rất
quan trọng trong sa sút trí tuệ mạch máu. Độ nặng của teo não phía sau, teo thái dương trong và sự hiện diện
của giãn não thất phản ánh độ nặng của sa sút trí tuệ.
Từ khóa: teo thái dương trong, teo não phía sau, điểm MMSE.
ABSTRACT
EVALUATION OF BRAIN MRI LESIONS IN DEMENTIA.
Vu Anh Nhi, Phan Hoang Phuong Khanh
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 18 ‐ Supplement of No 1 ‐ 2014: 550 ‐ 556
Background : There are many specific types and causes of dementia, often showing slightly different
symptoms. However, symptoms usually overlap, and it is impossible to make a diagnosis based
on symptoms alone. Diagnosis may be aided by brain scanning techniques, especially brain MRI (Magnetic
Resonance Imaging).
* Bộ môn Thần Kinh, ĐH Y Dược TP.HCM
Tác giả liên lạc: BS. Phan Hoàng Phương Khanh
550
ĐT: 0908482709, email:
Chuyên Đề Nội Khoa
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014
Nghiên cứu Y học
Objective: The aim of this study was to describe the brain MRI lesions in dementia and the patterns of brain
MRI lesions in each type of dementia. In addition, the study also investigated relationships between severe degree
of some brain MRI lesion patterns and MMSE (Mini Mental State Examination) score.
Methods: This was a case‐ series study. We conducted a survey on brain MRI in patients with dementia
who went for medical examination at the neurological consulting‐ room or were hospitalized in the Department of
Internal Medicine of University Medical Center in Ho Chi Minh City from November 2012 to April 2013.
Results: 61 patients could be studied. Mean age is 75.75; female ratio is 59%. All of them had brain
MRI abnormalities, including brain atrophy, white matter lesions, vascular lesions and ventricular
dilatation. Mean MTA (Medial Temporal Atrophy) scores in Alzheimer disease did not differ from other
dementias (2.32 ± 1.2 versus 2.12 ± 0.9, p>0.05). Mean scores on the PA (Posterior Atrophy) rating scale
were higher in Alzheimer disease compared with other dementias (2.47 ± 0.6 versus 1.64±0.8, p <0.001). The
rate of severe white matter lesions Fazekas>1 was higher in vascular dementia compared with other
dementias. Small vessel disease was the vascular lesion which was most frequently seen in vascular dementia
(100%). Higher ratings of MTA and PA were associated with lower MMSE. Ventricular dilatation rate was
the highest among patients with MMSE score ranging from 0 to 11.
Conclusion: 100% of dementia patients in this study have abnormalities on brain MRI. Medial temporal
atrophy and posterior atrophy were most frequently seen in Alzheimerʹs patients, but only posterior atrophy
distinguished Alzheimerʹs disease from other dementias. White matter lesions and small vascular disease play a
very important role in vascular dementia. In addition, the study also showed that severe degree of medial
temporal atrophy and posterior atrophy and the presence of ventricular dilatation reflected the severe degree of
dementia.
Keyword: medial temporal atrophy, posterior atrophy, Mini Mental State Examination.
thương não bằng MRI não(1). Cho tới hiện nay,
ĐẶT VẤN ĐỀ
nước ta vẫn chưa có một nghiên cứu nào nhằm
Sa sút trí tuệ là một bệnh lý gồm nhiều thể
mục đích khảo sát các dạng tổn thương não trên
bệnh, do nhiều nguyên nhân khác nhau, với
nhóm bệnh nhân sa sút trí tuệ.
biểu hiện lâm sàng có nhiều đặc điểm khá trùng
Chính vì vậy, chúng tôi quyết định tiến hành
lấp nên khó để chẩn đoán nếu chỉ dựa trên lâm
nghiên cứu “Đánh giá tổn thương trên MRI sọ
sàng. Do đó, việc khảo sát thêm hình ảnh học
não ở bệnh nhân sa sút trí tuệ”. Mục tiêu cụ thể
não góp phần khá quan trọng trong chẩn đoán
của nghiên cứu là: mô tả các sang thương trên
sa sút trí tuệ. Trên thế giới, có khá nhiều nghiên
MRI não ở bệnh nhân sa sút trí tuệ, mô tả đặc
cứu về hình ảnh học não trong sa sút trí tuệ đã
điểm các dạng sang thương trên MRI não theo
được tiến hành. Bên cạnh khảo sát về cấu trúc
từng nguyên nhân sa sút trí tuệ, đồng thời đưa
não như CT (Computed tomography scanner)
ra quan sát ban đầu mối liên quan giữa mức độ
hay MRI (Magnetic Resonance Imaging), còn có
tổn thương trên MRI não và độ nặng của sa sút
các phương thức khảo sát mới như PET
trí tuệ thông qua điểm số MMSE (Mini Mental
(Positron emission tomography), SPECT (single‐
State Examination).
photon emission computed tomography), cộng
ĐỐI TƯỢNG ‐ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
hưởng từ chức năng(11). Tuy nhiên, MRI não vẫn
là phương thức khảo sát hình ảnh được sử dụng
Đối tượng nghiên cứu
rộng rãi nhất trong sa sút trí tuệ. Nước ta có rất
Là những bệnh nhân đến khám tại phòng
ít nghiên cứu liên quan đến vấn đề này. Năm
khám Nội thần kinh hay đang nằm viện tại
2012, tác giả Diệp Trọng Khải đã tiến hành một
khoa Nội tổng hợp bệnh viện Đại Học Y Dược
nghiên cứu đánh giá suy giảm nhận thức và tổn
thành phố Hồ Chí Minh từ 01/11/2012 đến
Thần Kinh
551
Nghiên cứu Y học
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014
30/4/2013 thỏa tiêu chuẩn chọn vào là: được
chẩn đoán sa sút trí tuệ theo tiêu chuẩn chẩn
đoán sa sút trí tuệ của DSM‐IV; tiêu chuẩn loại
trừ là: các bệnh nhân đang có rối loạn về thức
tỉnh, các bệnh nhân khiếm thính, giảm thị lực
nặng gây cản trở quá trình thăm khám và
đánh giá.
Nguyên nhân của sa sút trí tuệ
Phương pháp nghiên cứu
Alzheimer, 20 bệnh nhân SSTT mạch máu, 18
Thiết kế nghiên cứu là mô tả hàng loạt ca.
Các bước tiến hành như sau: Các bệnh nhân
đến khám bệnh hay đang nằm viện đã được
chẩn đoán sa sút trí tuệ qua hỏi bệnh sử và
thăm khám lâm sàng được chúng tôi tiến hành
hỏi và thăm khám, điền đầy đủ thông tin thu
được vào bảng thu thập số liệu của chúng tôi,
từ đó xác định lại chẩn đoán sa sút trí tuệ theo
DSM‐ IV. Tiếp đó, chúng tôi tiến hành đánh
giá các thang điểm IADLs (the Lawton
Instrumental Activities of daily Living scale),
MMSE và Hachinski. Đồng thời, các bệnh
nhân trên cũng được khảo sát một số xét
nghiệm và được chụp MRI não với máy MRI
1,5 tesla, khảo sát các chuỗi xung T1 axial, T2
axial FLAIR, Diffusion, T2‐gradient, T1
sagittal. Hình MRI não được phân tích bởi các
bác sĩ khoa Chẩn Đoán Hình Ảnh bệnh viện
Đại Học Y Dược thành phố Hồ Chí Minh. Sau
đó, chúng tôi tiến hành xử lí số liệu thu được
như sau: các biến định tính được phân tích
bằng phép kiểm Chi bình phương và test
chính xác Fisher; các biến định lượng được
phân tích bằng phép so sánh các trung bình T‐
test hay ANOVA; khảo sát các mối tương quan
bằng hồi qui tuyến tính.
bệnh nhân SSTT hỗn hợp và 4 bệnh nhân thuộc
KẾT QUẢ
Đặc điểm mẫu nghiên cứu
Mẫu nghiên cứu 61 bệnh nhân, có 36 nữ
(59%), tuổi trung bình 75,75 ± 10,17, trong đó
bệnh nhân nhỏ nhất 51 tuổi, lớn nhất 93 tuổi.
Nhóm bệnh nhân có trình độ học vấn là học tới
cấp 1‐2 chiếm tỉ lệ cao nhất (73,8%).
552
Khi chỉ dựa trên lâm sàng, chúng tôi ghi
nhận có 27 bệnh nhân Alzheimer, 18 bệnh nhân
SSTT mạch máu, 12 bệnh nhân SSTT hỗn hợp, 4
bệnh nhân nguyên nhân khác. Sau khi đã phối
hợp thêm MRI não, chúng tôi có: 19 bệnh nhân
nhóm nguyên nhân SSTT khác.
Đặc điểm lâm sàng
100% số bệnh nhân có giảm trí nhớ và có rối
loạn chức năng điều hành. 11 triệu chứng
thường gặp khác trong mẫu nghiên cứu là: yếu/
liệt (29,5%), rối loạn giấc ngủ (26,2%), thờ ơ
(24,6%), mất thực dụng (21,3%), dấu thùy trán
(19,7%), rối loạn sự thèm ăn uống (18%), trầm
cảm (16,4%), dấu tháp (14,8%), mất ngôn ngữ
(14,8%), kích động (14,8%), kích thích (14,8%).
Đặc điểm lâm sàng theo từng nguyên nhân
sa sút trí tuệ
Triệu chứng yếu liệt gặp nhiều nhất ở SSTT
mạch máu. Các triệu chứng rối loạn tâm thần
như: thờ ơ, rối loạn giấc ngủ, rối loạn sự thèm ăn
uống, trầm cảm gặp trong tất cả các nguyên
nhân SSTT. Các đặc điểm được thể hiện trong
bảng sau:
Bảng 1. Đặc điểm lâm sàng theo từng nguyên nhân
sa sút trí tuệ
Thể SSTT
Giảm trí nhớ (%)
RL chức năng thi hành
(%)
Yếu/ liệt (%)
Rối loạn giấc ngủ (%)
Thờ ơ (%)
Mất thực dụng (%)
Dấu thùy trán (%)
Rối loạn sự thèm ăn
uống (%)
Trầm cảm (%)
Dấu tháp (%)
Mất ngôn ngữ (%)
AD Mạch máu Hỗn hợp Khác
100
100
100
100
100
100
100
100
10,5
10,5
21,1
21,1
5,3
60
25
30
30
35
22,2
38,9
22,2
11,1
22,2
0
50
25
25
0
10,5
15
27,8
25
15,8
0
10,5
15
35
30
16,7
11,1
0
25
0
25
Chuyên Đề Nội Khoa
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014
Đặc điểm MRI não
100% bệnh nhân có bất thường trên MRI
não, chủ yếu với các dạng sang thương: teo não,
tổn thương chất trắng, các sang thương mạch
máu, giãn não thất.
Đặc điểm MRI não theo từng nguyên
nhân SSTT
Bảng 2. Đặc điểm MRI não theo từng nguyên
nhân SSTT
Thể SSTT
AD
Teo vỏ não toàn bộ (GCA>1)
5,3
(%)
Mạch
máu
Nghiên cứu Y học
Điểm trung bình Điểm trung bình Điểm trung bình
MTA
GCA
PA
AD
Khác
AD
Khác
AD
Khác
2,32±1,2 2,12±0,9 0,95±0,4 1,1±0,5 2,47±0,6 1,64±0,8
Không có khác biệt trung bình điểm số GCA
(Global cortical atrophy) ở nhóm bệnh nhân AD
và nhóm bệnh nhân còn lại (phép kiểm T‐test,
p>0,05); không có khác biệt trung bình điểm
MTA ở nhóm bệnh Alzheimer so với nhóm bệnh
nhân còn lại (phép kiểm T‐test, p>0,05); điểm PA
Hỗn
Khác
hợp
ở nhóm bệnh Alzheimer cao hơn so với nhóm
25
11,1
0
bệnh nhân còn lại (phép kiểm T‐test, t=‐4,056,
df=59, p<0,001).
Teo thái dương trong
(MTA>1)(%)
78,9
73
100
50
Teo vỏ não phía sau
(PA>1)(%)
94,7
65
72,2
25
Teo não khu trú khác (%)
0
Tổn thương chất trắng (%)
0
Bệnh mạch máu nhỏ (%) 31,6
Bệnh mạch máu nhỏ thỏa tiêu
0
chuẩn* (%)
Sang thương vùng chiến lược
0
(%)
0
45
100
0
33,3
94,4
25
0
25
55
33,3
0
45
38,9
0
(78,9% so với 83,3%, phép kiểm chính xác
Nhồi máu não nhiều ổ (%)
0
Xuất huyết não nhiều ổ (%)
0
Tụ máu dưới màng cứng (%) 0
Giãn não thất (%)
21,1
15
5
5
75
27,8
0
0
44,4
0
0
0
25
Fisher, p>0,05), tỉ lệ teo não phía sau PA>1 cao
Tỉ lệ teo não toàn bộ nặng GCA>1 (GCA=2)
*
: >2 lỗ khuyết chất trắng thùy trán, >2 lỗ khuyết hạch nền;
hay lỗ khuyết đồi thị hai bên; hay tổn thương chất trắng
lan rộng >25%.
Teo thái dương trong MTA>1 chiếm tỉ lệ
cao nhất ở SSTT hỗn hợp (100%), kế đến là
bệnh Alzheimer cũng với tỉ lệ khá cao (78,9%).
Teo não phía sau PA>1 gặp nhiều nhất ở bệnh
nhân Alzheimer (94,7%), kế đến là SSTT hỗn
hợp (72,2%).
Bệnh mạch máu nhỏ là sang thương mạch
máu gặp nhiều nhất trong tất cả các thể SSTT,
nhưng có tỉ lệ cao nhất ở SSTT mạch máu
(100%), kế đến là SSTT hỗn hợp (94,4%). SSTT
mạch máu nhỏ đơn thuần là 8 bệnh nhân (40%),
nhồi máu não vùng chiến lược không kèm SSTT
mạch máu nhỏ là 6 bệnh nhân (30%).
ở bệnh nhân AD và ở nhóm bệnh nhân còn lại
không có khác biệt (5,3% so với 16,7%,phép
kiểm chính xác Fisher, p>0,05), tỉ lệ teo thái
dương trong MTA>1 ở bệnh nhân AD và ở
nhóm bệnh nhân còn lại không có khác biệt
hơn ở bệnh nhân AD so với nhóm bệnh nhân
còn lại (94,7%so với 64,3%, phép kiểm chính
xác Fisher với p <0,05).
Tổn thương chất trắng
Bảng 4. Tổn thương chất trắng nặng (Fazekas: 2‐3).
Thể SSTT
Tần số
Tỉ lệ%
Mạch máu
9
45
Khác
6
14,6
Khác biệt này có ý nghĩa thống kê (phép
kiểm chính xác Fisher, p<0,05).
Giãn não thất
Bảng 5. Giãn não thất theo điểm số MMSE.
Điểm MMSE
Giãn não thất (%)
0-11
64,7
12-19
30
20-24
21,4
Tỉ lệ giãn não thất càng cao ở nhóm điểm
MMSE càng thấp (phép kiểm Chi bình phương,
p<0,05).
Bảng 3. Điểm trung bình MTA, GCA, PA theo
nguyên nhân sa sút trí tuệ
Thần Kinh
553
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014
Nghiên cứu Y học
Mối liên quan giữa độ nặng của teo não
với điểm MMSE
Phân tích hồi qui đơn biến có kết quả sau:
điểm MTA và điểm PA đều tương quan nghịch
với điểm MMSE (B=‐0,078 (SE=0,022), p<0,05 và
B=‐0,062(SE=0,019), p<0,05).
BÀN LUẬN
Nguyên nhân sa sút trí tuệ trí tuệ
Bảng 6. Tỉ lệ SSTT Alzheimer và tỉ số AD/ SSTT
mạch máu.
Chúng tôi (2013)
31,1
Tỉ số AD/SSTT
mạch máu
0,95
Diệp Trọng Khải (2012)(1)
48
1,09
Báo cáo 2012/ Hiệp hội
Alzheimer Anh(7)
62
3,65
63,5
4,12
Nghiên cứu
AD%
(10)
Ama- cho (2008)
Tỉ số AD/SSTT mạch máu ở nghiên cứu của
chúng tôi và tác giả Diệp Trọng Khải thấp hơn
nhiều so với nghiên cứu Ama‐ cho (2008) và báo
cáo năm 2012 của Hiệp Hội Alzheimer Anh,
nguyên nhân có thể do: khuynh hướng phân bố
nguyên nhân SSTT ở nước ta đã có thay đổi, tỉ lệ
bệnh mạch máu não đang có xu hướng ngày
càng tăng cao mà chưa có nghiên cứu quy mô
nào để kiểm chứng.
Sự khác biệt trong chẩn đoán nguyên nhân
SSTT khi chỉ dựa vào lâm sàng và khi kết
hợp MRI não
Có 6 bệnh nhân được chẩn đoán “có lẽ”
bệnh Alzheimer trên lâm sàng theo tiêu chuẩn
NINCDS‐ADRDA, nhưng sau khi khảo sát MRI
não thì được xếp vào nhóm SSTT hỗn hợp; 2
bệnh nhân được chẩn đoán “có thể” bệnh
Alzheimer trên lâm sàng, nhưng MRI não cho
thấy hình ảnh phù hợp SSTT nguyên nhân mạch
máu và cả 2 bệnh nhân đều không có teo thái
dương trong (MTA=1) hay teo não phía sau
(PA=0), cuối cùng được chẩn đoán SSTT mạch
máu. Như vậy, MRI não đã giúp phát hiện bệnh
lý mạch máu não đi kèm SSTT, đặc biệt đối với
những bệnh nhân không có tiền căn tai biến
554
mạch máu não hay triệu chứng lâm sàng của
bệnh lý mạch máu não không thể hiện rõ.
Đặc điểm lâm sàng
Triệu chứng giảm trí nhớ hiện diện ở 100%
các bệnh nhân là rất phù hợp vì đây là một trong
các tiêu chuẩn để chẩn đoán SSTT. Các triệu
chứng rối loạn tâm thần có thể hiện diện trong
tất cả các nhóm nguyên nhân SSTT và tất cả các
giai đoạn của SSTT từ nhẹ đến nặng, và nghiên
cứu của chúng tôi cũng cho thấy được đặc điểm
đó. Triệu chứng yếu liệt là triệu chứng rất
thường gặp trong SSTT mạch máu. Nghiên cứu
của chúng tôi cũng ghi nhận tới 60% bệnh nhân
SSTT mạch máu có yếu/ liệt trên lâm sàng.
Đặc điểm MRI não
Trên cơ sở bệnh học của mỗi nguyên nhân
SSTT, MRI não của bệnh nhân sa sút trí tuệ cũng
có những dạng sang thương tương ứng. Bệnh
Alzheimer đặc trưng bệnh học là các mảng
amyloid và các búi sợi thần kinh gây mất
neuron, mất synapse dẫn đến teo não(2), nên
hình ảnh MRI đặc trưng của AD là teo não, chủ
yếu ở thái dương trong, thùy đỉnh, hồi chêm
(vùng vỏ não phía sau). Kết quả của chúng tôi
phù hợp với điều này, ghi nhận 78,9% bệnh
nhân AD teo thái dương trong MTA>1, 94,7%
bệnh nhân AD teo não phía sau PA>1. Sa sút trí
tuệ hỗn hợp có đặc điểm bệnh học vừa của
Alzheimer, vừa có SSTT mạch máu nên MRI não
cũng vừa có hình ảnh teo não giống bệnh
Alzheimer, vừa kèm sang thương mạch máu
phù hợp SSTT mạch máu (100% teo thái dương
trong MTA>1, 72,2% teo não phía sau, 94,4%
bệnh mạch máu nhỏ, 38,9% nhồi máu vùng
chiến lược).
Bệnh lý mạch máu nhỏ là dạng sang thương
mạch máu chiếm tỉ lệ cao nhất, đặc biệt trong
SSTT mạch máu, kết quả này phù hợp với kết
quả của Guermazi (2007)(5). Theo tác giả Salka S.
Staekenborg và cộng sự, tỉ lệ SSTT mạch máu
nhỏ đơn thuần là 74%(8), cao hơn so với chúng
tôi (40%). Cũng theo tác giả Salka S.
Staekenborg(8), tỉ lệ SSTT mạch máu lớn (có MRI
não là nhồi máu lớn hoặc nhồi máu vùng chiến
Chuyên Đề Nội Khoa
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014
lược) là 18%. Như vậy, tỉ lệ nhồi máu não vùng
chiến lược chúng tôi ghi nhận được là cao hơn
(30%). Thông thường, những bệnh nhân có suy
giảm trí nhớ, nhận thức nhưng không có đột quị
rõ (do bệnh lý mạch máu nhỏ) thường ít đi
khám bệnh hơn những bệnh nhân có tiền sử đột
quị. Nghiên cứu của chúng tôi tiến hành tại
bệnh viện, còn nghiên cứu của Salka S.
Staekenborg và cộng sự tiến hành trên một dân
số rộng lớn 706 bệnh nhân SSTT mạch máu, nên
tỉ lệ SSTT mạch máu nhỏ của chúng tôi thấp hơn
là có thể lí giải được.
Theo tác giả Van der Flier W. M(9), tỉ lệ vi
xuất huyết trong SSTT mạch máu là từ 35%‐
85%, cao hơn của chúng tôi (5%), có thể do nhiều
Nghiên cứu Y học
trường hợp bệnh nhân có vi xuất huyết và có sa
sút trí tuệ nhưng không có thiếu sót thần kinh
khác nên không đi khám để được khảo sát MRI
não. Vi xuất huyết não là một vấn đề cần được
chú ý, quan tâm nhiều hơn vì nó ảnh hưởng
nhiều đến tiến triển, đến tỉ lệ tàn phế và tử vong
của SSTT mạch máu(9).
Tổn thương chất trắng (Fazekas>1) ở SSTT
mạch máu cao hơn nhóm bệnh nhân còn lại
(45% so với 14,6%), điều này phù hợp với kết
luận của tác giả R. Barber và cộng sự (1999)(3).
Tác giả này kết luận rằng: tổn thương tăng tín
hiệu chất trắng và hạch nền gặp nhiều ở SSTT
mạch máu hơn AD, SSTT với thể Lewy và
nhóm chứng.
Điểm trung bình MTA, GCA, PA theo nguyên nhân SSTT.
Bảng 7. Điểm trung bình MTA, GCA, PA theo nguyên nhân SSTT.
Nghiên cứu
Chúng tôi (2013)
Koedam (2011)(6)
Điểm trung bình MTA
AD
Khác
2,32±1,2
2,12±0,9
1,3±1,0
1,2±1,0
Điểm trung bình GCA của AD và nhóm
SSTT khác là có khác biệt (p<0,01) trong nghiên
cứu của Esther L. G. E. Koedam, còn trong
nghiên cứu của chúng tôi thì khác biệt này
không có ý nghĩa thống kê. Cũng theo tác giả
này, điểm trung bình MTA của AD và nhóm
SSTT khác là không khác biệt. Kết quả này là
phù hợp với nghiên cứu của chúng tôi. Điểm
trung bình PA của nhóm bệnh nhân AD và
nhóm SSTT khác trong nghiên cứu của Esther L.
G. E. Koedam và cả trong nghiên cứu của chúng
tôi đều có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê (lần
lượt với p<0,01 và p<0,001).
Như vậy, cả nghiên cứu của chúng tôi lẫn
nghiên cứu của Esther L. G. E. Koedam đều đi
đến nhận xét rằng: teo não phía sau đặc trưng
cho bệnh AD hơn teo thái dương trong, giúp
phân biệt bệnh Alzheimer với các nguyên nhân
SSTT khác.
Mối liên quan giữa teo thái dương trong,
teo não phía sau với điểm MMSE.
Từ các phân tích hồi qui tuyến tính, chúng
tôi đưa ra các nhận xét: độ nặng của teo thái
Thần Kinh
Điểm trung bình GCA
AD
Khác
0,95±0,4
1,1±0,5
1,1±0,7
0,7±0,7
Điểm trung bình PA
AD
Khác
2,47±0,6
1,64±0,8
1,6±0,9
0,8±0,8
dương trong và độ nặng của teo não phía sau
đều càng giảm khi điểm MMSE càng cao. Kết
quả trên phù hợp với kết quả nghiên cứu của tác
giả Esther L. G. E. Koedam (2011).
Giãn não thất
Tỉ lệ giãn não thất càng cao ở nhóm bệnh
nhân điểm MMSE càng thấp (thường ứng với
SSTT giai đoạn nặng hơn dù chưa thể phản ánh
thật chính xác). Năm 1994, tác giả Breteler MM
và cộng sự(4) cũng đã có kết luận rằng mức độ
giãn não thất tương quan với mức độ nặng của
điểm số MMSE.
KẾT LUẬN
Qua nghiên cứu, chúng tôi rút ra 3 kết luận
sau:
Thứ nhất, 100% bệnh nhân SSTT có bất
thường trên MRI não với các dạng sang thương
thường gặp nhất là teo não thái dương trong, teo
não phía sau và các dạng sang thương mạch
máu não.
Thứ hai, mỗi nhóm nguyên nhân SSTT khác
nhau có những đặc điểm MRI não đặc trưng.
555
Nghiên cứu Y học
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014
Teo não thái dương trong và teo não phía sau
gặp nhiều nhất và ở mức độ nặng trên bệnh
nhân SSTT Alzheimer nhưng teo não phía sau
thì đặc trưng hơn, không bị ảnh hưởng bởi tuổi
và có thể giúp phân biệt Alzheimer với SSTT
khác. Các dạng sang thương mạch máu não gặp
nhiều trên bệnh nhân SSTT hỗn hợp và SSTT
mạch máu. Sang thương mạch máu nhỏ là
thường gặp nhất.
Kết luận cuối cùng từ nghiên cứu của chúng
tôi là: quan sát ban đầu cho thấy mức độ teo não
phía sau, teo thái dương trong và sự hiện diện
của giãn não thất trên MRI não giúp phản ánh
độ nặng của SSTT.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.
2.
3.
Diệp Trọng Khải(2012), ʺĐánh giá suy giảm nhận thức và tổn
thương não bằng cộng hưởng từ ở người lớn tuổiʺ, Luận văn
chuyên khoa cấp II, Đại học Y Dược thành phố Hồ Chí Minh.
Vũ Anh Nhị(2009). Sa sút trí tuệ. Bộ môn Nội Thần Kinh. Đại
học Y Dược thành phố Hồ Chí Minh.
Barber R Fau ‐ Scheltens P., Scheltens P Fau ‐ Gholkar A.,
Gholkar A Fau ‐ Ballard C., Ballard C Fau ‐ McKeith I., McKeith
I Fau ‐ Ince P., Ince P Fau ‐ Perry R., Perry R Fau ‐ OʹBrien J.,
OʹBrien J. (1999). ʺWhite matter lesions on magnetic resonance
imaging in dementia with Lewy bodies, Alzheimerʹs disease,
vascular dementia, and normal agingʺ. (0022‐3050 (Print)).
4.
Breteler M. M., van Amerongen N. M., van Swieten J. C., Claus
J. J., Grobbee D. E., van Gijn J., Hofman A., van Harskamp F.
(1994). ʺCognitive correlates of ventricular enlargement and
cerebral white matter lesions on magnetic resonance imaging.
The Rotterdam Studyʺ. Stroke, 25(6), pp. 1109‐15.
5. Guermazi A., Miaux Y., Rovira‐Canellas A., Suhy J., Pauls J.,
Lopez R., Posner H. (2007). ʺNeuroradiological findings in
vascular dementiaʺ. Neuroradiology, 49(1), pp. 1‐22.
6. Koedam E. L., Lehmann M., van der Flier W. M., Scheltens P.,
Pijnenburg Y. A., Fox N., Barkhof F., Wattjes M. P. (2011).
ʺVisual assessment of posterior atrophy development of a MRI
rating scaleʺ. Eur Radiol, 21(12), pp. 2618‐25.
7. Lakey Louise, Chandaria Karishma, Quince Chris, Kane
Martina, Saunders Tess (2012). ʺDementia 2012: A national
challengeʺ. Alzheimerʹs Society Dementia 2012 Report.
8. Staekenborg S. S., van der Flier W. M., van Straaten E. C., Lane
R., Barkhof F., Scheltens P. (2008). ʺNeurological signs in
relation to type of cerebrovascular disease in vascular
dementiaʺ. Stroke, 39(2), pp. 317‐22.
9. Van der Flier W. M.,Cordonnier C. (2012). ʺMicrobleeds in
vascular dementia: clinical aspectsʺ. Exp Gerontol, 47(11), pp.
853‐7.
10. Wada‐Isoe K., Uemura Y., Suto Y., Doi K., Imamura K., Hayashi
A., Kitayama M., Watanabe Y., Adachi Y., Nakashima K. (2009).
ʺPrevalence of dementia in the rural island town of Ama‐cho,
Japanʺ. Neuroepidemiology, 32(2), pp. 101‐6.
11. Whitwell Jennifer L.,Jack Clifford R. (2007). Neuroimaging in
dementia. Department of Radiology, Mayo Clinic, 200 1st Street
SW, Rochester, MN 55905, USA.
Ngày nhận bài báo: 01/11/2013
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 30/11/2013
Ngày bài báo được đăng: 05/01/2014
556
Chuyên Đề Nội Khoa