Tải bản đầy đủ (.pdf) (7 trang)

Đánh giá tổn thương trên MRI sọ não ở bệnh nhân sa sút trí tuệ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (450.27 KB, 7 trang )

Nghiên cứu Y học 

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014

ĐÁNH GIÁ TỔN THƯƠNG TRÊN MRI SỌ NÃO  
Ở BỆNH NHÂN SA SÚT TRÍ TUỆ 
Vũ Anh Nhị*, Phan Hoàng Phương Khanh* 

TÓM TẮT 
Mở đầu: Sa sút trí tuệ gồm nhiều thể bệnh, do nhiều nguyên nhân gây ra mà triệu chứng lâm sàng của các 
thể này thường trùng lấp, không thể chẩn đoán chính xác nếu chỉ dựa vào lâm sàng. Để góp phần chẩn đoán sa 
sút  trí  tuệ,  chúng  ta  cần  có  thêm  sự  hỗ  trợ  của  khảo  sát  hình  ảnh  học  não,  đặc  biệt  là  MRI  não  (Magnetic 
Resonance Imaging). 
Mục tiêu: mô tả các sang thương trên MRI não ở bệnh nhân sa sút trí tuệ, mô tả đặc điểm các dạng sang 
thương trên MRI não theo từng nguyên nhân sa sút trí tuệ, đồng thời quan sát mối liên quan giữa mức độ tổn 
thương  trên  MRI  não  và  độ  nặng  của  sa  sút  trí  tuệ  thông  qua  điểm  số  MMSE  (Mini  Mental  State 
Examination). 
Phương  pháp: Đây là một nghiên cứu mô tả  hàng loạt ca. Chúng tôi tiến hành khảo sát  MRI  não  trên 
những bệnh nhân sa sút trí tuệ đến khám tại khoa Nội Thần Kinh hay nằm viện tại khoa Nội Tổng Hợp bệnh 
viện Đại Học Y Dược thành phố Hồ Chí Minh từ tháng 11/2012 đến tháng 4/2013. 
Kết quả: Có 61 bệnh nhân sa sút trí tuệ được khảo sát, tuổi trung bình 75,75; nữ chiếm 59%. 100% bệnh 
nhân có bất thường trên MRI não với teo não, tổn thương chất trắng, sang thương mạch máu, giãn não thất. 
Điểm trung bình teo thái dương trong (MTA) không khác biệt giữa nhóm bệnh nhân Alzheimer và nhóm sa sút 
trí tuệ còn lại (2,32±1,2 so với 2,12±0,9, p>0,05), điểm trung bình teo não phía sau (PA) cao hơn ở nhóm bệnh 
nhân  Alzheimer  so  với  nhóm  bệnh  nhân  sa  sút  trí  tuệ  còn  lại  (2,47±0,6  so  với  1,64±0,8,  p<0,001).  Tỉ  lệ  tổn 
thương chất trắng nặng Fazekas>1 cao hơn ở nhóm sa sút trí tuệ mạch máu so với nhóm sa sút trí tuệ còn lại. 
Bệnh mạch máu nhỏ là loại sang thương mạch máu gặp nhiều nhất và chiếm đến 100% trong nhóm sa sút trí tuệ 
mạch máu. Độ nặng của teo thái dương trong, teo não phía sau tương quan thuận với điểm MMSE, tỉ lệ giãn 
não thất cao nhất ở nhóm bệnh nhân có điểm MMSE từ 0 đến 11.  
Kết luận: 100% bệnh nhân sa sút trí tuệ có bất thường trên MRI não. Teo thái dương trong và teo não phía 
sau nặng gặp nhiều nhất ở bệnh Alzheimer (AD‐ Alzheimer disease) nhưng chỉ teo não phía sau giúp phân biệt 


bệnh Alzheimer với nhóm sa sút trí tuệ còn lại. Tổn thương chất trắng và bệnh lý mạch máu nhỏ đóng vai trò rất 
quan trọng trong sa sút trí tuệ mạch máu. Độ nặng của teo não phía sau, teo thái dương trong và sự hiện diện 
của giãn não thất phản ánh độ nặng của sa sút trí tuệ. 
Từ khóa: teo thái dương trong, teo não phía sau, điểm MMSE. 

ABSTRACT 
EVALUATION OF BRAIN MRI LESIONS IN DEMENTIA. 
Vu Anh Nhi, Phan Hoang Phuong Khanh  
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 18 ‐ Supplement of No 1 ‐ 2014: 550 ‐ 556 
Background  :  There  are  many  specific  types  and  causes  of  dementia,  often  showing  slightly  different 
symptoms.  However, symptoms usually  overlap,  and  it  is impossible to  make  a  diagnosis based 
on symptoms alone.  Diagnosis  may  be  aided  by brain  scanning  techniques,  especially  brain  MRI  (Magnetic 
Resonance Imaging).  
* Bộ môn Thần Kinh, ĐH Y Dược TP.HCM 
Tác giả liên lạc: BS. Phan Hoàng Phương Khanh

550

ĐT: 0908482709, email:  

Chuyên Đề Nội Khoa 


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014 

Nghiên cứu Y học

Objective: The aim of this study was to describe the brain MRI lesions in dementia and the patterns of brain 
MRI lesions in each type of dementia. In addition, the study also investigated relationships between severe degree 
of some brain MRI lesion patterns and MMSE (Mini Mental State Examination) score. 

Methods: This was a case‐ series study. We conducted a survey on brain MRI in patients with dementia 
who went for medical examination at the neurological consulting‐ room or were hospitalized in the Department of 
Internal Medicine of University Medical Center in Ho Chi Minh City from November 2012 to April 2013. 
Results: 61 patients could be studied. Mean  age  is  75.75;  female  ratio  is  59%.  All  of  them  had  brain 
MRI  abnormalities,  including  brain  atrophy,  white  matter  lesions,  vascular  lesions  and  ventricular 
dilatation.  Mean  MTA  (Medial  Temporal  Atrophy)  scores  in  Alzheimer  disease  did  not  differ  from  other 
dementias (2.32 ± 1.2 versus 2.12 ± 0.9, p>0.05). Mean scores on the PA (Posterior Atrophy) rating scale 
were higher in Alzheimer disease compared with other dementias (2.47 ± 0.6 versus 1.64±0.8, p <0.001). The 
rate  of  severe  white  matter  lesions  Fazekas>1  was  higher  in  vascular  dementia  compared  with  other 
dementias. Small vessel disease was the vascular lesion which was most frequently seen in vascular dementia 
(100%). Higher ratings of MTA and PA were associated with lower MMSE. Ventricular dilatation rate was 
the highest among patients with MMSE score ranging from 0 to 11.  
Conclusion: 100% of dementia patients in this study have abnormalities on brain MRI. Medial temporal 
atrophy  and  posterior  atrophy  were  most  frequently  seen  in  Alzheimerʹs  patients,  but  only  posterior  atrophy 
distinguished Alzheimerʹs disease from other dementias. White matter lesions and small vascular disease play a 
very  important  role  in  vascular  dementia.  In  addition,  the  study  also  showed  that  severe  degree  of  medial 
temporal atrophy and posterior atrophy and the presence of ventricular dilatation reflected the severe degree of 
dementia.  
Keyword: medial temporal atrophy, posterior atrophy, Mini Mental State Examination. 
thương  não  bằng  MRI  não(1).  Cho  tới  hiện  nay, 
ĐẶT VẤN ĐỀ 
nước ta vẫn chưa có một nghiên cứu nào nhằm 
Sa sút trí tuệ là một bệnh lý gồm nhiều  thể 
mục đích khảo sát các dạng tổn thương não trên 
bệnh,  do  nhiều  nguyên  nhân  khác  nhau,  với 
nhóm bệnh nhân sa sút trí tuệ.  
biểu hiện lâm sàng có nhiều đặc điểm khá trùng 
Chính vì vậy, chúng tôi quyết định tiến hành 
lấp nên khó để chẩn đoán nếu chỉ dựa trên lâm 
nghiên  cứu  “Đánh  giá  tổn  thương  trên  MRI  sọ 

sàng.  Do  đó,  việc  khảo  sát  thêm  hình  ảnh  học 
não ở bệnh nhân sa sút trí tuệ”. Mục tiêu cụ thể 
não góp phần khá quan trọng trong  chẩn  đoán 
của  nghiên  cứu  là:  mô  tả  các  sang  thương  trên 
sa sút trí tuệ. Trên thế giới, có khá nhiều nghiên 
MRI  não  ở  bệnh  nhân  sa  sút  trí  tuệ,  mô  tả  đặc 
cứu về hình ảnh học não trong sa sút trí tuệ đã 
điểm  các  dạng  sang  thương  trên  MRI  não  theo 
được  tiến  hành.  Bên  cạnh  khảo  sát  về  cấu  trúc 
từng nguyên nhân sa sút trí tuệ, đồng thời đưa 
não  như  CT  (Computed  tomography  scanner) 
ra quan sát ban đầu mối liên quan giữa mức độ 
hay MRI (Magnetic Resonance Imaging), còn có 
tổn thương trên MRI não và độ nặng của sa sút 
các  phương  thức  khảo  sát  mới  như  PET 
trí  tuệ  thông  qua  điểm  số  MMSE  (Mini  Mental 
(Positron emission tomography), SPECT (single‐ 
State Examination). 
photon  emission  computed  tomography),  cộng 
ĐỐI TƯỢNG ‐ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
hưởng từ chức năng(11). Tuy nhiên, MRI não vẫn 
là phương thức khảo sát hình ảnh được sử dụng 
Đối tượng nghiên cứu 
rộng rãi nhất trong sa sút trí tuệ. Nước ta có rất 
Là  những  bệnh  nhân  đến  khám  tại  phòng 
ít  nghiên  cứu  liên  quan  đến  vấn  đề  này.  Năm 
khám  Nội  thần  kinh  hay  đang  nằm  viện  tại 
2012, tác giả Diệp Trọng Khải đã tiến hành một 
khoa Nội tổng hợp bệnh viện Đại Học Y Dược 
nghiên cứu đánh giá suy giảm nhận thức và tổn 

thành  phố  Hồ  Chí  Minh  từ  01/11/2012  đến 

Thần Kinh 

551


Nghiên cứu Y học 

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014

30/4/2013  thỏa  tiêu  chuẩn  chọn  vào  là:  được 
chẩn  đoán  sa  sút  trí  tuệ  theo  tiêu  chuẩn  chẩn 
đoán sa sút trí tuệ của DSM‐IV; tiêu chuẩn loại 
trừ là: các bệnh nhân đang có rối loạn về thức 
tỉnh, các bệnh nhân khiếm thính, giảm thị  lực 
nặng  gây  cản  trở  quá  trình  thăm  khám  và 
đánh giá. 

Nguyên nhân của sa sút trí tuệ 

Phương pháp nghiên cứu 

Alzheimer,  20  bệnh  nhân  SSTT  mạch  máu,  18 

Thiết kế nghiên cứu là mô tả hàng loạt ca. 
Các  bước  tiến  hành  như  sau:  Các  bệnh  nhân 
đến  khám  bệnh  hay  đang  nằm  viện  đã  được 
chẩn  đoán  sa  sút  trí  tuệ  qua  hỏi  bệnh  sử  và 
thăm khám lâm sàng được chúng tôi tiến hành 

hỏi và thăm khám,  điền  đầy  đủ  thông  tin  thu 
được vào bảng thu thập số liệu của chúng tôi, 
từ đó xác định lại chẩn đoán sa sút trí tuệ theo 
DSM‐  IV.  Tiếp  đó,  chúng  tôi  tiến  hành  đánh 
giá  các  thang  điểm  IADLs  (the  Lawton 
Instrumental  Activities  of  daily  Living  scale), 
MMSE  và  Hachinski.  Đồng  thời,  các  bệnh 
nhân  trên  cũng  được  khảo  sát  một  số  xét 
nghiệm  và  được  chụp  MRI  não  với  máy  MRI 
1,5  tesla,  khảo  sát  các  chuỗi  xung  T1  axial,  T2 
axial  FLAIR,  Diffusion,  T2‐gradient,  T1 
sagittal. Hình MRI não được phân tích bởi các 
bác  sĩ  khoa  Chẩn  Đoán  Hình  Ảnh  bệnh  viện 
Đại Học Y Dược thành phố Hồ Chí Minh. Sau 
đó, chúng tôi tiến hành xử  lí số  liệu thu được 
như  sau:  các  biến  định  tính  được  phân  tích 
bằng  phép  kiểm  Chi  bình  phương  và  test 
chính  xác  Fisher;  các  biến  định  lượng  được 
phân tích bằng phép so sánh các trung bình T‐
test hay ANOVA; khảo sát các mối tương quan 
bằng hồi qui tuyến tính. 

bệnh nhân SSTT hỗn hợp và 4 bệnh nhân thuộc 

KẾT QUẢ 
Đặc điểm mẫu nghiên cứu 
Mẫu  nghiên  cứu  61  bệnh  nhân,  có  36  nữ 
(59%),  tuổi  trung  bình  75,75  ±  10,17,  trong  đó 
bệnh  nhân  nhỏ  nhất  51  tuổi,  lớn  nhất  93  tuổi. 
Nhóm bệnh nhân có trình độ học vấn là học tới 

cấp 1‐2 chiếm tỉ lệ cao nhất (73,8%).  

552

Khi  chỉ  dựa  trên  lâm  sàng,  chúng  tôi  ghi 
nhận có 27 bệnh nhân Alzheimer, 18 bệnh nhân 
SSTT mạch máu, 12 bệnh nhân SSTT hỗn hợp, 4 
bệnh  nhân  nguyên  nhân  khác.  Sau  khi  đã  phối 
hợp thêm MRI não, chúng tôi có: 19 bệnh nhân 

nhóm nguyên nhân SSTT khác. 

Đặc điểm lâm sàng 
100% số bệnh nhân có giảm trí nhớ và có rối 
loạn  chức  năng  điều  hành.  11  triệu  chứng 
thường gặp khác trong mẫu nghiên cứu là: yếu/ 
liệt  (29,5%),  rối  loạn  giấc  ngủ  (26,2%),  thờ  ơ 
(24,6%),  mất  thực  dụng  (21,3%),  dấu  thùy  trán 
(19,7%),  rối  loạn  sự  thèm  ăn  uống  (18%),  trầm 
cảm  (16,4%),  dấu  tháp  (14,8%),  mất  ngôn  ngữ 
(14,8%), kích động (14,8%), kích thích (14,8%). 

Đặc điểm lâm sàng theo từng nguyên nhân 
sa sút trí tuệ 
Triệu chứng yếu liệt gặp nhiều nhất ở SSTT 
mạch  máu.  Các  triệu  chứng  rối  loạn  tâm  thần 
như: thờ ơ, rối loạn giấc ngủ, rối loạn sự thèm ăn 
uống,  trầm  cảm  gặp  trong  tất  cả  các  nguyên 
nhân  SSTT.  Các  đặc  điểm  được  thể  hiện  trong 
bảng sau: 

Bảng 1. Đặc điểm lâm sàng theo từng nguyên nhân 
sa sút trí tuệ 
Thể SSTT
Giảm trí nhớ (%)
RL chức năng thi hành
(%)
Yếu/ liệt (%)
Rối loạn giấc ngủ (%)
Thờ ơ (%)
Mất thực dụng (%)
Dấu thùy trán (%)
Rối loạn sự thèm ăn
uống (%)
Trầm cảm (%)
Dấu tháp (%)
Mất ngôn ngữ (%)

AD Mạch máu Hỗn hợp Khác
100
100
100
100
100

100

100

100


10,5
10,5
21,1
21,1
5,3

60
25
30
30
35

22,2
38,9
22,2
11,1
22,2

0
50
25
25
0

10,5

15

27,8


25

15,8
0
10,5

15
35
30

16,7
11,1
0

25
0
25

Chuyên Đề Nội Khoa 


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014 
Đặc điểm MRI não 
100%  bệnh  nhân  có  bất  thường  trên  MRI 
não, chủ yếu với các dạng sang thương: teo não, 
tổn  thương  chất  trắng,  các  sang  thương  mạch 
máu, giãn não thất. 

Đặc  điểm  MRI  não  theo  từng  nguyên 
nhân SSTT 

Bảng 2. Đặc điểm MRI não theo từng nguyên 
nhân SSTT 
Thể SSTT

AD

Teo vỏ não toàn bộ (GCA>1)
5,3
(%)

Mạch
máu

Nghiên cứu Y học

Điểm trung bình Điểm trung bình Điểm trung bình
MTA
GCA
PA
AD
Khác
AD
Khác
AD
Khác
2,32±1,2 2,12±0,9 0,95±0,4 1,1±0,5 2,47±0,6 1,64±0,8

Không có khác biệt trung bình điểm số GCA 
(Global cortical atrophy) ở nhóm bệnh nhân AD 
và  nhóm  bệnh  nhân  còn  lại  (phép  kiểm  T‐test, 

p>0,05);  không  có  khác  biệt  trung  bình  điểm 
MTA ở nhóm bệnh Alzheimer so với nhóm bệnh 
nhân còn lại (phép kiểm T‐test, p>0,05); điểm PA 

Hỗn
Khác
hợp

ở  nhóm  bệnh  Alzheimer  cao  hơn  so  với  nhóm 

25

11,1

0

bệnh  nhân  còn  lại  (phép  kiểm  T‐test,  t=‐4,056, 
df=59, p<0,001).  

Teo thái dương trong
(MTA>1)(%)

78,9

73

100

50


Teo vỏ não phía sau
(PA>1)(%)

94,7

65

72,2

25

Teo não khu trú khác (%)
0
Tổn thương chất trắng (%)
0
Bệnh mạch máu nhỏ (%) 31,6
Bệnh mạch máu nhỏ thỏa tiêu
0
chuẩn* (%)
Sang thương vùng chiến lược
0
(%)

0
45
100

0
33,3
94,4


25
0
25

55

33,3

0

45

38,9

0

(78,9%  so  với  83,3%,  phép  kiểm  chính  xác 

Nhồi máu não nhiều ổ (%)
0
Xuất huyết não nhiều ổ (%)
0
Tụ máu dưới màng cứng (%) 0
Giãn não thất (%)
21,1

15
5
5

75

27,8
0
0
44,4

0
0
0
25

Fisher, p>0,05), tỉ lệ teo não phía sau PA>1 cao 

Tỉ lệ teo não toàn bộ nặng GCA>1 (GCA=2) 

*

: >2 lỗ khuyết chất trắng thùy trán, >2 lỗ khuyết hạch nền; 
hay lỗ khuyết đồi thị hai bên; hay tổn thương chất trắng 
lan rộng >25%. 

Teo  thái  dương  trong  MTA>1  chiếm  tỉ  lệ 
cao  nhất  ở  SSTT  hỗn  hợp  (100%),  kế  đến  là 
bệnh Alzheimer cũng với tỉ lệ khá cao (78,9%). 
Teo não phía sau PA>1 gặp nhiều nhất ở bệnh 
nhân  Alzheimer  (94,7%),  kế  đến  là  SSTT  hỗn 
hợp (72,2%).  
Bệnh  mạch  máu  nhỏ  là  sang  thương  mạch 
máu  gặp  nhiều  nhất  trong  tất  cả  các  thể  SSTT, 

nhưng  có  tỉ  lệ  cao  nhất  ở  SSTT  mạch  máu 
(100%),  kế  đến  là  SSTT  hỗn  hợp  (94,4%).  SSTT 
mạch máu nhỏ đơn thuần là 8 bệnh nhân (40%), 
nhồi máu não vùng chiến lược không kèm SSTT 
mạch máu nhỏ là 6 bệnh nhân (30%). 

ở bệnh nhân AD và ở nhóm bệnh nhân còn lại 
không  có  khác  biệt  (5,3%  so  với  16,7%,phép 
kiểm  chính  xác  Fisher,  p>0,05),  tỉ  lệ  teo  thái 
dương  trong  MTA>1  ở  bệnh  nhân  AD  và  ở 
nhóm  bệnh  nhân  còn  lại  không  có  khác  biệt 

hơn ở bệnh nhân AD so với nhóm bệnh nhân 
còn  lại  (94,7%so  với  64,3%,  phép  kiểm  chính 
xác Fisher với p <0,05). 

Tổn thương chất trắng 
Bảng 4. Tổn thương chất trắng nặng (Fazekas: 2‐3). 
Thể SSTT
Tần số
Tỉ lệ%

Mạch máu
9
45

Khác
6
14,6


Khác  biệt  này  có  ý  nghĩa  thống  kê  (phép 
kiểm chính xác Fisher, p<0,05). 

Giãn não thất  
Bảng 5. Giãn não thất theo điểm số MMSE. 
Điểm MMSE
Giãn não thất (%)

0-11
64,7

12-19
30

20-24
21,4

Tỉ  lệ  giãn  não  thất  càng  cao  ở  nhóm  điểm 
MMSE càng thấp (phép kiểm Chi bình phương, 
p<0,05). 

Bảng 3. Điểm trung bình MTA, GCA, PA theo 
nguyên nhân sa sút trí tuệ 

Thần Kinh 

553


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014


Nghiên cứu Y học 

Mối  liên  quan  giữa  độ  nặng  của  teo  não 
với điểm MMSE  
Phân  tích  hồi  qui  đơn  biến  có  kết  quả  sau: 
điểm MTA và điểm PA đều tương quan nghịch 
với điểm MMSE (B=‐0,078 (SE=0,022), p<0,05 và 
B=‐0,062(SE=0,019), p<0,05). 

BÀN LUẬN 
Nguyên nhân sa sút trí tuệ trí tuệ 
Bảng 6. Tỉ lệ SSTT Alzheimer và tỉ số AD/ SSTT 
mạch máu. 
Chúng tôi (2013)

31,1

Tỉ số AD/SSTT
mạch máu
0,95

Diệp Trọng Khải (2012)(1)

48

1,09

Báo cáo 2012/ Hiệp hội
Alzheimer Anh(7)


62

3,65

63,5

4,12

Nghiên cứu

AD%

(10)

Ama- cho (2008)

Tỉ số AD/SSTT mạch máu ở nghiên cứu của 
chúng tôi và tác  giả  Diệp  Trọng  Khải  thấp  hơn 
nhiều so với nghiên cứu Ama‐ cho (2008) và báo 
cáo  năm  2012  của  Hiệp  Hội  Alzheimer  Anh, 
nguyên nhân có thể do: khuynh hướng phân bố 
nguyên nhân SSTT ở nước ta đã có thay đổi, tỉ lệ 
bệnh  mạch  máu  não  đang  có  xu  hướng  ngày 
càng  tăng  cao  mà  chưa  có  nghiên  cứu  quy  mô 
nào để kiểm chứng.  

Sự khác biệt trong chẩn đoán nguyên nhân 
SSTT khi chỉ dựa vào lâm sàng và khi kết 
hợp MRI não 

Có  6  bệnh  nhân  được  chẩn  đoán  “có  lẽ” 
bệnh  Alzheimer  trên  lâm  sàng  theo  tiêu  chuẩn 
NINCDS‐ADRDA, nhưng sau khi khảo sát MRI 
não  thì  được  xếp  vào  nhóm  SSTT  hỗn  hợp;  2 
bệnh  nhân  được  chẩn  đoán  “có  thể”  bệnh 
Alzheimer  trên  lâm  sàng,  nhưng  MRI  não  cho 
thấy hình ảnh phù hợp SSTT nguyên nhân mạch 
máu  và  cả  2  bệnh  nhân  đều  không  có  teo  thái 
dương  trong  (MTA=1)  hay  teo  não  phía  sau 
(PA=0),  cuối  cùng  được  chẩn  đoán  SSTT  mạch 
máu. Như vậy, MRI não đã giúp phát hiện bệnh 
lý mạch máu não đi kèm SSTT, đặc biệt đối với 
những  bệnh  nhân  không  có  tiền  căn  tai  biến 

554

mạch  máu  não  hay  triệu  chứng  lâm  sàng  của 
bệnh lý mạch máu não không thể hiện rõ. 

Đặc điểm lâm sàng 
Triệu chứng giảm trí  nhớ  hiện  diện  ở  100% 
các bệnh nhân là rất phù hợp vì đây là một trong 
các  tiêu  chuẩn  để  chẩn  đoán  SSTT.  Các  triệu 
chứng rối loạn tâm thần có thể hiện diện trong 
tất cả các nhóm nguyên nhân SSTT và tất cả các 
giai đoạn của SSTT từ nhẹ đến nặng, và nghiên 
cứu của chúng tôi cũng cho thấy được đặc điểm 
đó.  Triệu  chứng  yếu  liệt  là  triệu  chứng  rất 
thường gặp trong SSTT mạch máu. Nghiên cứu 
của chúng tôi cũng ghi nhận tới 60% bệnh nhân 

SSTT mạch máu có yếu/ liệt trên lâm sàng. 

Đặc điểm MRI não 
Trên  cơ  sở  bệnh  học  của  mỗi  nguyên  nhân 
SSTT, MRI não của bệnh nhân sa sút trí tuệ cũng 
có  những  dạng  sang  thương  tương  ứng.  Bệnh 
Alzheimer  đặc  trưng  bệnh  học  là  các  mảng 
amyloid  và  các  búi  sợi  thần  kinh  gây  mất 
neuron,  mất  synapse  dẫn  đến  teo  não(2),  nên 
hình ảnh MRI đặc trưng của AD là teo não, chủ 
yếu  ở  thái  dương  trong,  thùy  đỉnh,  hồi  chêm 
(vùng  vỏ  não  phía  sau).  Kết  quả  của  chúng  tôi 
phù  hợp  với  điều  này,  ghi  nhận  78,9%  bệnh 
nhân  AD  teo  thái  dương  trong  MTA>1,  94,7% 
bệnh nhân AD teo não phía sau PA>1. Sa sút trí 
tuệ  hỗn  hợp  có  đặc  điểm  bệnh  học  vừa  của 
Alzheimer, vừa có SSTT mạch máu nên MRI não 
cũng  vừa  có  hình  ảnh  teo  não  giống  bệnh 
Alzheimer,  vừa  kèm  sang  thương  mạch  máu 
phù hợp SSTT mạch máu (100% teo thái dương 
trong  MTA>1,  72,2%  teo  não  phía  sau,  94,4% 
bệnh  mạch  máu  nhỏ,  38,9%  nhồi  máu  vùng 
chiến lược).  
Bệnh lý mạch máu nhỏ là dạng sang thương 
mạch  máu  chiếm  tỉ  lệ  cao  nhất,  đặc  biệt  trong 
SSTT  mạch  máu,  kết  quả  này  phù  hợp  với  kết 
quả của Guermazi (2007)(5). Theo tác giả Salka S. 
Staekenborg  và  cộng  sự,  tỉ  lệ  SSTT  mạch  máu 
nhỏ  đơn  thuần  là  74%(8),  cao  hơn  so  với  chúng 
tôi  (40%).  Cũng  theo  tác  giả  Salka  S. 

Staekenborg(8), tỉ lệ SSTT mạch máu lớn (có MRI 
não là nhồi máu lớn hoặc nhồi máu vùng chiến 

Chuyên Đề Nội Khoa 


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014 
lược) là 18%. Như vậy, tỉ lệ nhồi máu não vùng 
chiến  lược  chúng  tôi  ghi  nhận  được  là  cao  hơn 
(30%). Thông thường, những bệnh nhân có suy 
giảm trí nhớ, nhận thức nhưng không có đột quị 
rõ  (do  bệnh  lý  mạch  máu  nhỏ)  thường  ít  đi 
khám bệnh hơn những bệnh nhân có tiền sử đột 
quị.  Nghiên  cứu  của  chúng  tôi  tiến  hành  tại 
bệnh  viện,  còn  nghiên  cứu  của  Salka  S. 
Staekenborg và cộng sự tiến hành trên một dân 
số rộng lớn 706 bệnh nhân SSTT mạch máu, nên 
tỉ lệ SSTT mạch máu nhỏ của chúng tôi thấp hơn 
là có thể lí giải được. 
Theo  tác  giả  Van  der  Flier  W.  M(9),  tỉ  lệ  vi 
xuất  huyết  trong  SSTT  mạch  máu  là  từ  35%‐ 
85%, cao hơn của chúng tôi (5%), có thể do nhiều 

Nghiên cứu Y học

trường hợp bệnh nhân có vi xuất huyết và có sa 
sút  trí  tuệ  nhưng  không  có  thiếu  sót  thần  kinh 
khác nên không đi khám để được khảo sát MRI 
não. Vi xuất huyết não là một vấn đề cần được 
chú  ý,  quan  tâm  nhiều  hơn  vì  nó  ảnh  hưởng 

nhiều đến tiến triển, đến tỉ lệ tàn phế và tử vong 
của SSTT mạch máu(9). 
Tổn thương chất trắng (Fazekas>1) ở SSTT 
mạch  máu  cao  hơn  nhóm  bệnh  nhân  còn  lại 
(45% so với  14,6%),  điều  này  phù  hợp  với  kết 
luận của tác giả R. Barber và cộng sự (1999)(3). 
Tác giả này kết luận rằng: tổn thương tăng tín 
hiệu chất trắng và hạch nền gặp nhiều ở SSTT 
mạch  máu  hơn  AD,  SSTT  với  thể  Lewy  và 
nhóm chứng. 

Điểm trung bình MTA, GCA, PA theo nguyên nhân SSTT. 
Bảng 7. Điểm trung bình MTA, GCA, PA theo nguyên nhân SSTT. 
Nghiên cứu
Chúng tôi (2013)
Koedam (2011)(6)

Điểm trung bình MTA
AD
Khác
2,32±1,2
2,12±0,9
1,3±1,0
1,2±1,0

Điểm  trung  bình  GCA  của  AD  và  nhóm 
SSTT khác là có khác biệt (p<0,01) trong nghiên 
cứu  của  Esther  L.  G.  E.  Koedam,  còn  trong 
nghiên  cứu  của  chúng  tôi  thì  khác  biệt  này 
không  có  ý  nghĩa  thống  kê.  Cũng  theo  tác  giả 

này,  điểm  trung  bình  MTA  của  AD  và  nhóm 
SSTT  khác  là  không  khác  biệt.  Kết  quả  này  là 
phù  hợp  với  nghiên  cứu  của  chúng  tôi.  Điểm 
trung  bình  PA  của  nhóm  bệnh  nhân  AD  và 
nhóm SSTT khác trong nghiên cứu của Esther L. 
G. E. Koedam và cả trong nghiên cứu của chúng 
tôi đều có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê (lần 
lượt với p<0,01 và p<0,001). 
Như  vậy,  cả  nghiên  cứu  của  chúng  tôi  lẫn 
nghiên  cứu  của  Esther  L.  G.  E.  Koedam  đều  đi 
đến  nhận  xét  rằng:  teo  não  phía  sau  đặc  trưng 
cho  bệnh  AD  hơn  teo  thái  dương  trong,  giúp 
phân biệt bệnh Alzheimer với các nguyên nhân 
SSTT khác. 

Mối  liên  quan  giữa  teo  thái  dương  trong, 
teo não phía sau với điểm MMSE. 
Từ  các  phân  tích  hồi  qui  tuyến  tính,  chúng 
tôi  đưa  ra  các  nhận  xét:  độ  nặng  của  teo  thái 

Thần Kinh 

Điểm trung bình GCA
AD
Khác
0,95±0,4
1,1±0,5
1,1±0,7
0,7±0,7


Điểm trung bình PA
AD
Khác
2,47±0,6
1,64±0,8
1,6±0,9
0,8±0,8

dương  trong  và  độ  nặng  của  teo  não  phía  sau 
đều  càng  giảm  khi  điểm  MMSE  càng  cao.  Kết 
quả trên phù hợp với kết quả nghiên cứu của tác 
giả Esther L. G. E. Koedam (2011). 

Giãn não thất 
Tỉ  lệ  giãn  não  thất  càng  cao  ở  nhóm  bệnh 
nhân  điểm  MMSE  càng  thấp  (thường  ứng  với 
SSTT giai đoạn nặng hơn dù chưa thể phản ánh 
thật chính xác). Năm 1994, tác  giả  Breteler  MM 
và  cộng  sự(4)  cũng  đã  có  kết  luận  rằng  mức  độ 
giãn não thất tương quan với mức độ nặng của 
điểm số MMSE. 

KẾT LUẬN 
Qua nghiên cứu, chúng tôi rút ra 3 kết luận 
sau: 
Thứ  nhất,  100%  bệnh  nhân  SSTT  có  bất 
thường trên MRI não với các dạng sang thương 
thường gặp nhất là teo não thái dương trong, teo 
não  phía  sau  và  các  dạng  sang  thương  mạch 
máu não. 

Thứ hai, mỗi nhóm nguyên nhân SSTT khác 
nhau  có  những  đặc  điểm  MRI  não  đặc  trưng. 

555


Nghiên cứu Y học 

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014

Teo  não  thái  dương  trong  và  teo  não  phía  sau 
gặp  nhiều  nhất  và  ở  mức  độ  nặng  trên  bệnh 
nhân  SSTT  Alzheimer  nhưng  teo  não  phía  sau 
thì đặc trưng hơn, không bị ảnh hưởng bởi tuổi 
và  có  thể  giúp  phân  biệt  Alzheimer  với  SSTT 
khác. Các dạng sang thương mạch máu não gặp 
nhiều  trên  bệnh  nhân  SSTT  hỗn  hợp  và  SSTT 
mạch  máu.  Sang  thương  mạch  máu  nhỏ  là 
thường gặp nhất. 
Kết luận cuối cùng từ nghiên cứu của chúng 
tôi là: quan sát ban đầu cho thấy mức độ teo não 
phía  sau,  teo  thái  dương  trong  và  sự  hiện  diện 
của  giãn  não  thất  trên  MRI  não  giúp  phản  ánh 
độ nặng của SSTT. 

TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1.

2.
3.


Diệp Trọng Khải(2012), ʺĐánh giá suy giảm  nhận  thức  và  tổn 
thương  não  bằng  cộng  hưởng  từ  ở  người  lớn  tuổiʺ,  Luận  văn 
chuyên khoa cấp II, Đại học Y Dược thành phố Hồ Chí Minh. 
Vũ  Anh  Nhị(2009).  Sa sút trí tuệ.  Bộ  môn  Nội  Thần  Kinh.  Đại 
học Y Dược thành phố Hồ Chí Minh. 
Barber  R  Fau  ‐  Scheltens  P.,  Scheltens  P  Fau  ‐  Gholkar  A., 
Gholkar A Fau ‐ Ballard C., Ballard C Fau ‐ McKeith I., McKeith 
I Fau ‐ Ince P., Ince P Fau ‐ Perry R., Perry R Fau ‐ OʹBrien J., 
OʹBrien J. (1999). ʺWhite matter lesions on magnetic resonance 
imaging  in  dementia  with  Lewy  bodies,  Alzheimerʹs  disease, 
vascular dementia, and normal agingʺ. (0022‐3050 (Print)). 

4.

Breteler M. M., van Amerongen N. M., van Swieten J. C., Claus 
J.  J.,  Grobbee  D.  E.,  van  Gijn  J.,  Hofman  A.,  van  Harskamp  F. 
(1994).  ʺCognitive  correlates  of  ventricular  enlargement  and 
cerebral  white  matter  lesions  on  magnetic  resonance  imaging. 
The Rotterdam Studyʺ. Stroke, 25(6), pp. 1109‐15. 
5. Guermazi  A.,  Miaux  Y.,  Rovira‐Canellas  A.,  Suhy  J.,  Pauls  J., 
Lopez  R.,  Posner  H.  (2007).  ʺNeuroradiological  findings  in 
vascular dementiaʺ. Neuroradiology, 49(1), pp. 1‐22. 
6. Koedam E. L., Lehmann M., van der Flier W. M., Scheltens P., 
Pijnenburg  Y.  A.,  Fox  N.,  Barkhof  F.,  Wattjes  M.  P.  (2011). 
ʺVisual assessment of posterior atrophy development of a MRI 
rating scaleʺ. Eur Radiol, 21(12), pp. 2618‐25. 
7. Lakey  Louise,  Chandaria  Karishma,  Quince  Chris,  Kane 
Martina,  Saunders  Tess  (2012).  ʺDementia  2012:  A  national 
challengeʺ. Alzheimerʹs Society Dementia 2012 Report. 

8. Staekenborg S. S., van der Flier W. M., van Straaten E. C., Lane 
R.,  Barkhof  F.,  Scheltens  P.  (2008).  ʺNeurological  signs  in 
relation  to  type  of  cerebrovascular  disease  in  vascular 
dementiaʺ. Stroke, 39(2), pp. 317‐22. 
9. Van  der  Flier  W.  M.,Cordonnier  C.  (2012).  ʺMicrobleeds  in 
vascular dementia: clinical aspectsʺ. Exp Gerontol, 47(11), pp. 
853‐7. 
10. Wada‐Isoe K., Uemura Y., Suto Y., Doi K., Imamura K., Hayashi 
A., Kitayama M., Watanabe Y., Adachi Y., Nakashima K. (2009). 
ʺPrevalence  of  dementia  in  the  rural  island  town  of  Ama‐cho, 
Japanʺ. Neuroepidemiology, 32(2), pp. 101‐6. 
11. Whitwell  Jennifer  L.,Jack  Clifford  R.  (2007).  Neuroimaging  in 
dementia. Department of Radiology, Mayo Clinic, 200 1st Street 
SW, Rochester, MN 55905, USA. 

Ngày nhận bài báo: 01/11/2013 
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 30/11/2013 
Ngày bài báo được đăng: 05/01/2014

 

556

Chuyên Đề Nội Khoa 



×