Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (558.12 KB, 8 trang )
iệu hạn chế, điều này
chúng tôi chưa thể so sánh với những nghiên
cứu lớn hơn. Tuy với những số liệu dù chưa
nhiều nhưng chúng tôi cũng cho thấy tính khả
thi của phương pháp điều trị TAE trong chấn
thương lách phức tạp và nặng trong một số
trường hợp.
Trong số liệu của chúng tôi, có một trường
hợp chấn thương vỡ gan thất bại bằng phương
pháp điều trị thuyên tắc mạch phải chuyển mổ.
Khi lựa chọn vật liệu gây tắc, chúng tôi đã sử
dụng gelfoam, vật liệu gây tắc không vĩnh viễn,
mặc dù việc khảo sát kiểm tra ngay sau khi tắc
không cho thấy bất thường nào, nhưng khi rút
microcatheter ra và kiểm tra động mạch thân
tạng qua ống thông lớn lại ghi nhận mạch máu
tái thông và động mạch tổn thương không tắc
hoàn toàn. Quyết định ngưng thủ thuật khi
huyết động bệnh nhân bắt đầu có dấu hiệu bất
ổn và chuyển sang mổ hở. Qua đó cho thấy, việc
lựa chọn vật liệu gây tắc là rất quan trọng.
Những trường hợp khác chúng tôi đều sử dụng
hỗn hợp keo sinh học và lipiodol đem lại thành
công tắc mạch tuyệt đối.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.
Adrian AM, Lewis JK (2012). Management of splenic injury in
adult trauma patient. Up to date 2012; 1 – 16.
2. Akiyoshi Hagirawa et al (1997). Nonsurgical management of