Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Số 6 * 2013
Nghiên cứu Y học
CO GIẬT NỬA MẶT KẾT QUẢ ĐIỀU TRỊ BẰNG VI PHẪU THUẬT
GIẢI ÉP VI MẠCHTẠI BỆNH VIỆN NHÂN DÂN GIA ĐỊNH
Trần Hoàng Ngọc Anh**
TÓM TẮT
Mục tiêu: Mô tả đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng, kỹ thuật phẫu thuật và kết quả điều trị co giật nửa mặt
bằng phẫu thuật giải ép vi mạch tại bệnh viện Nhân Dân Gia Định.
Phương pháp: Mô tả tiền cứu các trường hợp co giật nửa mặt được điều trị bằng phẫu thuật giải ép vi
mạch từ tháng 6 năm 2010 đến tháng 9 năm 2013. Bệnh nhân được ghi nhận triệu chứng lâm sàng, khảo sát
mối tương quan mạch máu và thần kinh vùng góc cầu tiểu não bằng hình ảnh MRI, đánh giá kết quả cải thiện
triệu chứng theo thang điểm Jankovski, các biến chứng, và theo dõi bằng tái khám hoặc qua điện thoại.
Kết quả: 45 trường hợp co giật nửa mặt được phẫu thuật trong vòng 39 tháng. Ti lệ nam / nữ là 1 / 5 (8/37
ca), tuổi trung bình là 47,9 ± 8,4 , thời gian co giật trung bình trước phẫu thuật là 6 ± 3,7 năm, 44 trường hợp
có triệu chứng điển hình (97,1%), co giật thường bị bên trái (23 trường hợp, 51%). Jankovic trước mổ mức độ
III trong 35 trường hợp (78%), 39 trường hợp ( 88%) có hình ảnh gợi ý mạch máu chèn vào phức hợp VII, VIII
bên co giật. Có 19, (42%) trường hợp đã được điều trị bằng tiêm botulinumtoxin. Thời gian theo dõi trung bình
là 12,8 ± 9,5 tháng. 34 (75,6 %) bệnh nhân hết co giật lúc xuất viện , sau thời gian theo dõi số trường hợp hết co
giật tăng lên 42 ( 93%), 2 trường hợp tái phát sau 3 năm (4,4%). Không có trường hợp nào tử vong. Sau mổ,
các bệnh nhân thường hay bị chóng mặt, liệt nhẹ mặt bên phẫu thuật và hầu hết đều hồi phục.
Kết luận: Kết quả nghiên cứu tại bệnh viện Nhân Dân Gia Định, mặc dù số lượng bệnh nhân chưa nhiều,
nhưng cũng cho thấy co giật nửa mặt là một rối loạn về chức năng với triệu chứng lâm sàng điển hình là yếu tố
quyết định chẩn đoán phẫu thuật giải ép vi mạch là phương pháp điều trị hiệu quả cao và tỉ lệ biến chứng thấp.
Key words: Co giật nữa mặt, phẫu thuật giải ép vi mạch, phức hợp dây VII, VIII, Hình ảnh học MR1
ABSTRACT
RESULTS OF TREATMENT HEMIFACIALSPASM BY MICROVASCULAR DECOMPRESSION
AT NHAN DAN GIA DINH HOSPITAL
Tran Hoang Ngoc Anh * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 17 ‐ No 6 ‐ 2013: 203 ‐ 208
Objectives: Described the clinical features, imaging, operation techniques and evaluated the results of micro
vascular decompression surgery for treating hemifacialspasm (HFS) at Nhan Dan Gia Dinh hospital.
Method: We performed a prospective descriptive study of hemifacialspasm (HFS) patients were operated for
microvascular decompression from April 2010 to September 2013. The patients were recorded clinical symtoms,
MRI images which focus on the neurovascular relationship in the affected cerebellopontine angle, evaluated the
improvement by Jankoski scale, the complications and observed by follow‐up examination or ư chóng mặt, đau vết
mổ. Các triệu chứng này cũng hết hoàn toàn
trước khi xuất viện.
Bảng 3. Biến chứng sau mổ
Liệt mặt
Dò DNT
Liệt IX, X
Chóng mặt
Phù não+ dãn não thất
Xuất viện
5 (11,3%)
1(2,3%)
1 (2,3%)
9 (20%)
1(2,3%)
Hiện tại
3 (6,9%)
0
0
0
0
BÀN LUẬN
Phẫu thuật giải ép vi mạch từ khi được hoàn
thiện bởi Jannetta, cho đến nay nó được chấp
nhận như một phương pháp điều trị tối ưu các
rối loạn gây ra do hội chứng chèn ép mạch máu
thần kinh. Một trong số đó là chứng co giật nửa
mặt(5,6). Trong phạm vi hạn hẹp của nghiên cứu
của nghiên cứu này, chúng tôi muốn nêu lên
một số vấn đề về lâm sàng, hình ảnh học cũng
như điều trị chứng rối loạn này bằng phương
pháp phẫu thuật giải ép vi mạch.
Hội Nghị Khoa Học Công Nghệ BV. Nhân Dân Gia Định năm 2013
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Số 6 * 2013
Gần như toàn bộ dân số nghiên cứu đều có
triệu chứng lâm sàng điển hình, nó cho thấy lâm
sàng chính là yếu tố quyết định trong chẩn đoán
co giật nửa mặt. Và vì đây là một rối loạn về mặt
chức năng, không phải là một bệnh lý ác tính
nên thông thường bệnh nhân có thời gian bênh
sử khá lâu (trung bình 6 năm). Đây là một
chứng bệnh thường gặp hơn ở nữ giới và bên
trái nhiều hơn bên phải. Bệnh thường ảnh
hưởng đến tuổi trung niên.
Về hình ảnh học, MRI não, trong loại bệnh lý
này, chủ yếu để loại trừ các thương tổn thực thể
nếu có ở vùng hố sau có thể gây ra triệu chứng
tương tự như u não, AVM, xơ cứng rải rác….(11,10)
Tuy nhiên với kỹ thuật hiện đại, sự cải thiện về
dộ phân gải của hình ảnh, chúng ta có thể tìm
thấy những hình ảnh gợi ý sự tương tác mạch
máu thần kinh trước phẫu thuật.
Điều trị co giật nửa mặt hiện nay có 2
phương pháp. Ngoài việc phẫu thuật giải ép vi
mạch, người ta còn có thể làm mất cơn co giật
nửa mặt bằng cách tiêm trực tiếp botulium toxin
vào các nhóm cơ đó(2,14). Tuy nhiên đây chỉ là
cách điều trị triệu chứng nên mặc dù tỉ lệ thành
công ban đầu tương đối cao, nhưng sau đó hiệu
quả sẽ giảm dần và thời gian phải tiêm nhắc lại
sẽ ngắn dần. Do đó, cho đến nay, đối với các
bệnh nhân không có nguy cơ phẫu thuật cao thì
giải ép vi mạch vẫn là biện pháp tối ưu.
Trên thế giới cũng như Việt Nam có nhiều
nghiên cứu cho ra kết quả rất khả quan về hiệu
quả của phẫu thuật. Và nghiên cứu của chúng
tôi cũng không ngoại lệ với tỉ lệ thành công là
93%. Đa phần các trường hợp cơn co giật sẽ hết
ngay sau mổ. Vài trường hợp cơn co giật giảm
dần rồi hết hẳn. Đặc biệt trong các bệnh nhân
của chúng tôi có một trường hợp bệnh nhân sau
mổ hết giật, tuy nhiên từ ngày hậu phẫu thứ 2,
cơn co giật xuất hiện trở lại, tăng dần trong ngày
hậu phẫu thứ 3,4 nhưng sau đó giảm dần và hết
giật vào ngày thứ 10 sau mổ.
Trong giai đoạn đầu triển khai phẫu thuật,
chúng tôi thường cố gắng tách tất cả những
mạch máu nào có tiếp xúc với dây VII dù điểm
Nghiên cứu Y học
tiếp đó ở bất kỳ vị trí nào trên dây thần kinh.
Một vài trường hợp có từ 2 đến 3 mạch máu ở
các vị trí khác nhau trên dây thần kinh mặt và
ngoài ra điều này làm chúng tôi có xu hướng tìm
cách kiểm soát toàn bộ dây thần kinh này đoạn
trong hộp sọ. Hệ quả là một số trường hợp sau
mổ bị liệt VII. Sau này việc tìm và tách mạch
máu ra khỏi dây VII chỉ tập trung vào vùng gốc
đi ra nơi dây thần kinh vùa ra khỏi thân này.
Điều này đã giúp giảm thời gian kéo vén tiểu
não, giảm thao tác trên các dây thần kinh. Do đó
chúng tôi đã tránh được biến chứng liệt mặt
nhưng kết quả vẫn tốt.
KẾT LUẬN
Ngày nay với sự tiến bộ của gây mê, sự hoàn
thiện dần về kỹ thuật cùng với sự hỗ trợ đắc lực
của các trang thiết bị tiên tiến, phẫu thuật giải ép
vi mạch ngày càng an toàn toàn và hiệu quả.
Điều đó càng khẳng định đây là phương pháp
điều trị ưu tiên lựa chọn cho các trường hợp co
giật nửa mặt.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.
Aoki N, Nagao T (1986): Resolution of hemifacial spasm after
posterior fossa exploration without vascular decompression.
Neurosurgery 18:478–479.
2. Apuzzo MLJ, Brain surgery(1994): Complication avoidance and
managerment – p2121.
3. Dandy WE (1945): Surgery of the brain, in Lewis D (ed): Practice
of Surgery. Vol 12, pp 177‐200.
4. Ferguson GG, Brett DC, Peerless SJ, et ah (1981). Trigeminal
neuralgia: a comparison of the results of percutaneous
rhizotomy and microvascular decompression. Can J Neurol Sci
8:207‐214.
5. Fromm GH (1991): Pathophysiology of trigeminal neuralgia, in
Fromm GH, Sessle BJ (eds): Trigeminal Neuralgia. Boston,
Butterworth Heneman, pp 179–192.
6. Greenberg MS (2010). Hemifacial spasm, handbook of
neurosurgery – Seven edition p.542‐544.
7. Jannetta PJ (1980): Neurovascular compression in cranial nerve
and systemic disease. Ann Surg 192: 518‐525.
8. Lê Trọng Nghĩa (2011). Đánh giá kết quả phẫu thuật giải ép vi
mạch điều trị co giật nửa mặt và đau dây V tại Bệnh Viện Nhân
Dân Gia Định. Y học thực hành, số 779 +780 tr. 280‐288.
9. Madjid S (2002): Microvascular Decompression to Treat
Hemifacial Spasm: Long‐term Results for a Consecutive Series
of 143 Patients. Neurosurgery, Vol. 50, No. 4.
10. Maroon JC (1978): Hemifacial spasm. A vascular cause. Arch
Neurol 35: 481‐483.
11. McLaughlin MR (1998) .Microvascular decompression of
cranial nerves: lessons learned after 4400 operations.
Neurosurgery focus.
12. Rhoton (2007). Cerebellopontone angle and retrosigmoid
Hội Nghị Khoa Học Công Nghệ BV. Nhân Dân Gia Định năm 2013
207
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Số 6 * 2013
Nghiên cứu Y học
approach. Neurosurgery 61 S4‐175 – S4‐192.
13. Võ Văn Nho, Lê Trần Minh Sử (2009) phẫu thuật giải ép vi
mạch trong điều trị co giật nửa mặt kết quả phẫu thuật ngắn
hạn 30 bệnh nhân từ 2007 đến 2009. Y học thực hành, số 692
+693 tr. 34‐40.
14. Wilkins RH (1993) Facial nerve decompression for hemifacial
spasm. Brain surgery complication avoidance and
208
management. P. 2115‐2143.
Ngày nhận bài báo: 15/8/2013
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 20/8/2013
Ngày bài báo được đăng: 10/12/2013
Hội Nghị Khoa Học Công Nghệ BV. Nhân Dân Gia Định năm 2013