Tải bản đầy đủ (.pdf) (7 trang)

Đặc điểm lâm sàng và xử trí u ác tính nguyên phát ruột thừa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (287.16 KB, 7 trang )

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012

Nghiên cứu Y học

ĐẶC ĐIỂM LÂM SÀNG VÀ XỬ TRÍ
U ÁC TÍNH NGUYÊN PHÁT RUỘT THỪA
Nguyễn Thanh Phong*

TÓM TẮT
Đặt vấn đề: U ác tính ruột thừa là bệnh hiếm gặp, chiếm 0,5 % bệnh viêm ruột thừa. Thường được chẩn
đoán trong tình huống cắt ruột thừa hay kết quả mô học sau cắt ruột thừa. Thỉnh thoảng u vỡ tạo ổ áp xe khu trú.
Chẩn đoán xác định trước và trong mổ còn khó khăn. Trong nước chưa có nhiều nghiên cứu về bệnh này.
Mục tiêu nghiên cứu: nhằm nêu kinh nghiệm bước đầu trong chẩn đoán và xử trí u ác tính nguyên phát
ruột thừa.
Kết quả: Sau khi hồi cứu 12 trường hợp u ác tính ruột thừa được điều trị tại khoa Hồi sức cấp cứu Bệnh
viện Bình Dân từ tháng 1/2006 đến tháng 5/2011 chúng tôi ghi nhận: không có trường hợp nào được chẩn đoán
trước và trong mổ. Tất cả đều được chẩn đoán nhờ giải phẫu bệnh lý (GPB). 50% trường hợp là carcinoma
tuyến tiết nhầy, 50% trường hợp là carcinoma tuyến. Có 2 trường hợp được mổ lại cắt đại tràng phải trong thời
gian hậu phẫu, các trường hợp khác đều xuất viện khi chưa có kết quả GPB và không tái khám. Có 2 trường hợp
carcinoma tuyến tiết nhầy xâm lấn nhập viện mổ lại. Chỉ thực hiện được hóa trị sau mổ 1 trường hợp.
Kết luận: Mặc dù u ác tính ruột thừa hiếm gặp, tất cả đều được chẩn đoán dựa vào kết quả giải phẫu bệnh
lý sau mổ. Chẩn đoán trước và trong mổ khó khăn. Kết quả điều trị còn hạn chế. Vì vậy đặc biệt nhấn mạnh tầm
quan trọng trong chẩn đoán và xử trí trong lúc mổ và theo dõi sau mổ.
Từ khoá: U ác tính ruột thừa.

ABSTRACT
CLINICAL FINDINGS AND TREATMENT PRIMARY MALIGNANT TUMORS
OF THE APPENDIX
Nguyen Thanh Phong* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 16 - Supplement of No 1 - 2012: 107 - 113
Background: Primary malignant tumors of the appendix are very rare, found in 0.5% of appendicitis.
They are usually diagnosed at the time of appendectomy or based on anapathological result, and sometimes


they can perforate, lead to localized abscess. It is difficult to have an exact preoperative or intra-operative
diagnosis. In Vietnam, there are a few studies of this disease.
The aim of the study: to report our early results in diagnosis and treatment of primary malignant
tumors of the appendix.
Method: a retrospective study including all cases diagnosed malignant tumor of the appendix at Binh
Dan hospital from January 2006 to May 2011.
Results: there was no case which had an exact preoperative or intra-operative diagnosis. All were
confirmed by anapathological results. Fifty percent of cases were mucinous adenocarcinoma and 50% were
adenocarcinoma. There were 2 cases underwent re-operation to perform right hemicolectomy. The others
discharged from the hospital when there had not been anapathological result yet, and they didn’t come for
re-examination. There were two recurrent mucinous adenocarcinoma cases need re-operation. There was


Bộ môn Ngoại, Khoa Y, Đại học Y Dược TP Hồ Chí Minh.
Tác giả liên lạc: TS. Nguyễn Thanh Phong. ĐT: 0903643310

Chuyên Đề Ngoại Khoa

E-mail:

107


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012

Nghiên cứu Y học

only one case had postoperative chemotherapy.
Conclusions: Primary malignant tumors of the appendix are rare, and almost are diagnosed by
anapathological result. The prognosis of this disease is poor. My study specially emphasizes in early

diagnosis, adequate treatment, and postoperative re-examination.
Key words: Malignant tumors of the appendix.
Bảng 2. Giới tính

ĐẶT VẤN ĐỀ
U ác tính nguyên phát ruột thừa được mô tả
lần đầu vào 1882(7), là một bệnh hiếm gặp và
không có biểu hiện lâm sàng đặc hiệu nào,
chiếm 0,9-1,4% mẫu bệnh phẩm ruột thừa. Chẩn
đoán trước mổ khó khăn và chỉ một ít trường
hợp phát hiện trong lúc mổ. Trong nước chưa có
nhiều nghiên cứu về bệnh này.

Mục tiêu nghiên cứu
Nhằm nêu kinh nghiệm bước đầu về chẩn
đoán và xử trí u ác tính nguyên phát ruột thừa.

ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Nghiên cứu hồi cứu 12 trường hợp u ác tính
nguyên phát ruột thừa được phẫu thuật tại khoa
Hồi sức cấp cứu Bệnh viện Bình Dân từ tháng
1/2006 đến 5/2011.
Trong giai đoạn này chúng tôi có 7307
trường hợp cắt ruột thừa, như vậy u ác tính
nguyên phát ruột thừa chiếm tỉ lệ 0,1%.
Tất cả bệnh nhân đều có kết quả giải phẫu
bệnh là Mucinous adenocarcinoma hay
adenocarcinoma.

KẾT QUẢ

Bảng 1. Tuổi.
Nhóm
U nhầy ác tính (Mucinous
adenocarcinoma)
U ác tính biểu mô tuyến
(Adenocarcinoma)
Chung

Tuổi trung
bình
62,3

Nhỏ
nhất
31

Lớn
nhất
74

46,6

28

76

54,5

28


76

Tuổi trung bình của bệnh nhân Mucinous
adenocarcinoma vào lúc chẩn đoán là 62,3 (3174) và ở nhóm bệnh nhân còn lại là 46,6 (28-76).
Chung cho cả 2 nhóm là 54,5 (28-76).

108

Nhóm
U nhầy ác tính (Mucinous
adenocarcinoma)
U ác tính biểu mô tuyến
(Adenocarcinoma)
Chung

Nam
4

Nữ
2

3

3

7

5

Nam nhiều hơn nữ, tỉ lệ nam: nữ 7:5


Lâm sàng
Thời gian mắc bệnh trung bình là 7,5 ngày
thay đổi từ 2 ngày đến 1 tháng.
Triệu chứng lâm sàng
Bảng 3. Triệu chứng lâm sàng
Các triệu chứng
Đau bụng
Sốt
Sụt cân
Phản ứng thành bụng
Khối u bụng

Số lượt
12
5
1
9
3

Tất cả bệnh nhân đều nhập viện vì đau bụng
cấp, đa số 9 (75%) trường hợp có phản ứng
thành bụng vùng hố chậu phải khi khám. Sốt
chỉ có 5 (42%) trường hợp. Có 3 (25%) trường
hợp có khối u bụng và 1 (8,3%) trường hợp có
sụt cân trên bệnh kéo dài 1 tháng.
Công thức máu có số lượng bạch cầu tăng
trên 8000 trong 9 trường hợp, bạch cầu trung
bình là 11333/mm3 (thay đổi 7700-23900/mm3).
Chủ yếu là bạch cầu đa nhân trung tính trung

bình 8216/mm3 (thay đổi 4700-20700/mm3).
Siêu âm bụng được thực hiện cho tất cả bệnh
nhân, 2 trường hợp siêu âm không bất thường, 7
trường hợp phát hiện khối echo hỗn hợp vùng
hố chậu phải, 3 trường hợp có dịch giữa các
quai ruột vùng hạ vị và túi cùng Douglas.
CTscan bụng được thực hiện cho 4 bệnh
nhân, 3 trường hợp có hình ảnh u dạng nang đa
cung, vách vôi hóa theo dõi u nhầy ruột thừa, 1

Chuyên Đề Ngoại Khoa


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012
trường hợp dịch ổ bụng lượng vừa theo dõi

Nghiên cứu Y học

VPMCRNN.

Bảng 4. Chẩn đoán lâm sàng.
Chẩn đoán trước mổ Chẩn đoán sau mổ Thương tổn
Viêm phúc mạc toàn
Viêm ruột thừa khu trú bộ do u nhầy ruột U đường kính 7
viêm ruột thừa vỡ
thừa vỡ
cm
U sau phúc mạc
u ruột thừa dính đt U nhầy, 2cm, gốc
lên, di căn Douglas

ruột thừa
U nhầy ruột thừa
U nhầy ruột thừa
U nhầy 1,5-4cm
viêm ruột thừa C

viêm ruột thừa C

Áp xe ruột thừa

Viêm ruột thừa vỡ
mủ tạo áp xe

Ruột thừa vỡ mủ

Xử trí

M
Cắt ruột thừa
Cắt ĐTP
2. cắt ruột thừa
1. cắt ĐTP
Cắt ruột thừa NS

Ruột thừa vỡ mủ 1. Cắt manh tràng
tạo áp xe
1. CắT ruột thừa NS
Viêm phúc mạc ruột Viêm phúc mạc ruột 1. U gốc ruột thừa Cắt ruột thừa +mở
thừa
thừa

2 cm vỡ mủ
gốc ruột thừa ra da
1. Vỡ mủ đầu ruột
Cắt ruột thừa
thừa
Viêm ruột thừa C
Viêm ruột thừa C
Ruột thừa sung
Cắt ruột thừa
huyết
VPMCRNN
Viêm phúc mạc toàn Ruột thừa vỡ mủ+
Cắt ruột thừa
thể/ Viêm ruột thừa hạch mạc treo

Có 7 trường hợp chẩn đoán trước mổ là
viêm ruột thừa cấp và viêm ruột thừa có biến
chứng 1 trường hợp u sau phúc mạc, 3 trường
hợp u nhầy ruột thừa và 1 trường hợp
VPMCRNN. Không có trường hợp nào chẩn
đoán đúng u ác tính ruột thừa trước mổ.
Có 7 trường hợp chẩn đoán sau mổ là viêm
ruột thừa cấp và viêm ruột thừa có biến chứng, 4
trường hợp u nhầy ruột thừa trong đó có 1
trường hợp u nhầy giả phúc mạc
(pseudomyxoma peritonei), 1 trường hợp u ruột
thừa dính đại tràng lên và di căn Douglas.
Không có trường hợp nào chẩn đoán đúng u ác
tính ruột thừa trong mổ.
Trong 6 trường hợp u nhầy ác tính có 4

trường hợp u ở ruột thừa, 1 trường hợp u ở
phần xa ruột thừa và 1 trường hợp u ở gốc ruột
thừa so với 1/6 trường hợp adenocarcinoma ở
gốc ruột thừa.

Điều trị
Trong
6
trường
hợp
Mucinous
adenocarcinoma có 1 trường hợp u vỡ gây biến
chứng u nhầy giả phúc mạc (pseudomyxoma
peritonei) lúc mổ và trường hợp này u tái phát
mổ lại sau 4 năm. 1 trường hợp u vỡ được cắt

Chuyên Đề Ngoại Khoa

GPB

M
M
M

Mổ lại
U nhầy tái phát xâm
lấn tử cung buồng
trúng/ 4 năm sau
Hoá trị 5 FU
1. Cắt ĐTP /HP12

Mổ u xâm lấn manh
tràng+ RN/ sau 1 năm

C

C

1
1
3
1
2

Cắt ĐTP /HP10. Tái
khám –không hoá trị

C
C

Số ca

2

1
Tái khám- không hoá
trị

1

ruột thừa nội soi sau đó u tái phát xâm lấn ruột

non, manh tràng phải mổ lại sau 1 năm. 1
trường hợp u nhầy ở gốc ruột thừa được cắt đại
tràng phải có tái khám và hoá trị 5 FU. 3 trường
hợp u ở đầu ruột thừa thì có 2 trường hợp được
xử trí cắt ruột thừa đơn thuần và 1 trường hợp
hậu phẫu 12 có kết quả mô bệnh học được mổ
lại cắt đại tràng phải, trường hợp còn lại được
cắt đại tràng phải. Như vậy 6 trường hợp u nhầy
ác tính có 2 trường hợp cắt đại tràng phải từ đầu
do u nhầy ở gốc ruột thừa và u nhầy to 4 cm. 4
trường hợp cắt ruột thừa đơn thuần trong đó có
1 ca phẫu thuật qua nội soi. Chỉ có 1/4 trường
hợp được mổ lại cắt đại tràng phải khi có kết
quả mô bệnh học.
Trong 6 trường hợp adenocarcinima, có 5
trường hợp ruột thừa vỡ mủ gây áp xe ruột thừa
2 trường hợp và viêm phúc mạc là 3 trường hợp.
1 trường hợp ruột thừa sung huyết khi mổ. Có 1
trường hợp có hạch mạc treo khi mổ. Có 1
trường hợp cắt manh tràng do ruột thừa vỡ mủ
tạo ổ áp xe. 1 trường hợp u ruột thừa ở gốc
manh tràng vỡ mủ gây viêm phúc mạc được xử
trí cắt ruột thừa và mở manh tràng ra da qua gốc
ruột thừa, ngày hậu phẫu 10 có kết quả mô bệnh
học là adenocarcinoma được mổ lại cắt đại tràng

109


Nghiên cứu Y học


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012

phải. Như vậy 6 trường hợp adenocarcinoma có
4 trường hợp cắt ruột thừa từ đầu trong đó có 1
trường hợp là phẫu thuật nội soi, 1 trường hợp
cắt manh tràng do ruột thừa vỡ mủ tạo ổ áp xe.
1 trường hợp cắt ruột thừa và mở manh tràng ra
da qua gốc ruột thừa, ngày hậu phẫu 10 có kết
quả mô bệnh học là adenocarcinoma được mổ
lại cắt đại tràng phải.

BÀN LUẬN
Dịch tễ học
Tần suất: U ác tính nguyên phát ruột thừa
được mô tả lần đầu vào 1882(7), là một bệnh hiếm
gặp chiếm 0,1-1,4% mẫu bệnh phẩm ruột thừa.
Nghiên cứu của chúng tôi tỉ lệ này là 0,1%.
Adenocarcinoma chiếm 58% u ác tính
nguyên phát ruột thừa, còn lại là u dạng
carcinoid. Tuổi trung bình của bệnh nhân u ác
tính nguyên phát ruột thừa có tiết nhầy hay
không là 65, nhiều báo cáo khác cho rằng cao
nhất trong khoảng 60 tuổi. Nam bị nhiều hơn
nữ.
Theo nghiên cứu của Sieracki(9) u ruột thừa
ác tính ở cả 2 nhóm phổ biến là nam. Điều này
cũng phù hợp với nghiên cứu của chúng tôi.
Nguyên nhân: những bệnh nhân bị viêm
loét đại tràng mạn tính tăng nguy cơ dễ bị dị

sản lớp thượng mô và hoá ác ở đoạn ruột bị
viêm loét. Viêm loét ở ruột thừa cũng được
tìm thấy xấp xỉ 50% bệnh nhân bị viêm loét
toàn bộ đại tràng. U ác tính nguyên phát ruột
thừa đã được mô tả ở những bệnh nhân bị
viêm loét đại tràng kéo dài(1,2).

Lâm sàng
U ác tính nguyên phát ruột thừa có biểu hiện
lâm sàng không khác biệt gì với viêm ruột thừa
cấp và các trường hợp còn lại nhập viện vì khối
u bụng hay có thể lan vào khoang phúc mạc gây
nên u nhầy giả phúc mạc, những trường hợp
này có thể biểu hiện bụng căng(1). Nghiên cứu
của chúng tôi cũng phù hợp với điều này 9
trường hợp (75%) có biểu hiện không khác biệt
gì với viêm ruột thừa cấp. Có 3 trường hợp
(25%) nhập viện vì khối u bụng.

110

Chẩn đoán hình ảnh: siêu âm, CT hay chụp
đại tràng cản quang có vai trò giới hạn trong
chẩn đoán những trường hợp u ác tính ruột
thừa có biểu hiện lâm sàng như viêm ruột thừa
cấp.
Siêu âm bụng mặc dù theo y văn không
được coi là phương tiện chẩn đoán u ác tính
nguyên phát ruột thừa nhưng chúng tôi vẫn
xem đó là 1 phương tiện có thể áp dụng tại

các bệnh viện vì trong nghiên cứu của chúng
tôi siêu âm phát hiện được 7 trường hợp
(58,3%) có echo hỗn hợp vùng hố chậu phải, 3
trường hợp (25%) có dịch giữa các quai ruột
vùng hạ vị và túi cùng Douglas. Chỉ 2 trường
hợp (16,6%) không bất thường.
CT scan thường có giá trị trong chẩn đoán
Mucinous
adenocarcinoma
hơn
adenocarcinoma đặc biệt trong trường hợp có
khối u bụng(3).
Trên CT chúng ta có thể thấy ruột thừa có
hình ành như một hình ống(3), lòng ruột thừa
chứa đầy chất mucin với thành calci hóa bao
xung quanh. Trên CT có sự thay đổi thành
của mucocele, có thể dày hoặc mỏng. Thành
mỏng thì không giúp chẩn đoán nguyên nhân
ác tính hay không của mucocele ruột thừa, có
hạch trong lớp cơ gợi ý chẩn đoán Mucinous
adenocarcinoma như là nguyên nhân của
mucocele. Hầu như 50% bệnh nhân bị
Mucinous adenocarcinoma bị u nhầy giả phúc
mạc, tình trạng này có thể thấy rất rõ trên CT.
U nhầy giả phúc mạc biểu hiện bằng tình
trạng nhiều ổ nhầy khắp phúc mạc. Điều này
cũng phù hợp với hình ảnh CT scan trong
nghiên cứu của chúng tôi với 4 bệnh nhân
được làm CT thì 3 trường hợp có hình ảnh u
dạng nang đa cung vách vôi hóa. 1 trường

hợp dịch ổ bụng lượng vừa.

Điều trị
U ác tính nguyên phát ruột thừa là bệnh
hiếm gặp, vì vậy lâm sàng, xử trí, và điều trị bổ
túc sau mổ chưa được mô tả đầy đủ. Phần lớn
bệnh nhân thường nhập viện với triệu chứng
viêm ruột thừa cấp hay khối u vùng hố chậu

Chuyên Đề Ngoại Khoa


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012
phải. Nói chung, u ác tính nguyên phát ruột
thừa hiếm khi được chẩn đoán trước mổ và
trong mổ vì vậy còn khó khăn trong xử trí.
Qua 12 trường hợp u ác tính nguyên phát
ruột thừa chúng tôi nhận thấy phẫu thuật viên
không có những yếu tố giúp chẩn đoán lành
hay ác tính. Điều đó cũng có nghĩa là không có
tiêu chuẩn rõ ràng để cắt ruột thừa, cắt manh
tràng hay cắt đại tràng phải.
Về mặt mô bệnh học, u nhầy ác tính ruột
thừa được xem như là adenocarcinoma biệt hoá
tốt, bởi vì nó có tiên lượng và xử trí hoàn toàn
khác biệt với dạng carcinoma tuyến.
U nhầy ác tính ruột thừa hiếm khi di căn
theo đường bạch mạch, chúng tôi có 1 trường
hợp (16,6%) di căn hạch grade 1. Vì vậy cắt ruột
thừa thường là đủ. Trong nghiên cứu của chúng

tôi trong 6 trường hợp u nhầy ác tính ruột thừa
chỉ có 2 trường hợp cắt đại tràng phải từ đầu do
u nhầy ở gốc ruột thừa và u nhầy to 4 cm. Còn
lại 4 trường hợp cắt ruột thừa đơn thuần trong
đó có 1 ca phẫu thuật qua nội soi. Chỉ có 1/4
trường hợp được mổ lại cắt đại tràng phải khi có
kết quả mô bệnh học.
Trong
6
trường
hợp
Mucinous
adenocarcinoma có 1 trường hợp u vỡ gây biến
chứng u nhầy giả phúc mạc (pseudomyxoma
peritonei) lúc mổ và trường hợp này u tái phát
mổ lại sau 4 năm.
Theo Otto(8) u nhầy ruột thừa vỡ thì không
có ảnh hưởng đáng kể đến tiên lượng sau mổ.
Tuy nhiên, theo Edmondson(2) nên cắt đại tràng
phải cho những trường hợp u nhầy ác tính
vỡ,và chỉ nên cắt ruột thừa đơn thuần cho
những trường hợp u nằm ở đầu ruột thừa và
chưa xâm lấn qua lớp dưới niêm ruột thừa.
Nghiên cứu của chúng tôi cũng phù hợp với
điều này.
Nguyên tắc cơ bản trong phẫu thuật điều trị
u nhầy ruột thừa là không làm vỡ u nhầy trong
quá trình mổ cắt bỏ khối u. U nhầy còn nguyên
vẹn giúp giảm nguy cơ về sau cho bệnh nhân.
Theo Misdraji(4), trong 39 bệnh nhân cắt bỏ

nguyên vẹn u nhầy, sau mổ bệnh không còn

Chuyên Đề Ngoại Khoa

Nghiên cứu Y học

diễn tiến. Ngược lại, khi có tế bào biểu mô tiết
nhầy rơi vãi vào khoang phúc mạc thì diễn tiến
lâm sàng hoàn toàn khác, thường tiến triển
thành u nhầy trên bề mặt phúc mạc.
Vì vậy, giữ u nhầy còn nguyên vẹn trong lúc
mổ là rất quan trọng. Khi nội soi, nếu phát hiện
u nhầy ruột thừa thì nên chuyển sang mổ mở để
cắt u nhầy an toàn hơn, mặc dù có thể cắt u
nhầy qua nội soi mà không làm vỡ u nhầy.
Mổ mở giúp giảm nguy cơ vỡ u nhầy và
gieo rắc tế bào ở lỗ trocar, ngăn chặn diễn tiến
có thể hóa ác của tế bào tiết nhầy khi bám vào
phúc mạc. Ngoài ra, mổ mở còn cho phép phẫu
thuật viên thám sát kỹ đại tràng và phần còn lại
của ổ bụng để phát hiện các ổ tích tụ dịch nhầy.
Những nơi thường tích tụ dịch nhầy là dưới gan
phải, vùng chậu, những u nhầy dạng nốt ở mạc
nối cũng rất thường gặp. Chất nhầy cũng có thể
tích tụ ở túi cùng tạo ra khoảng trống ở rãnh đại
tràng trái trên chỗ nối giữa đại tràng chậu hông
và đại tràng xuống.
Nội soi rất khó thám sát tỉ mỉ tất cả các vị
trí giải phẫu. Mổ mở cho phép sờ và thám sát
trực tiếp tất cả những vị trí có nguy cơ tích tụ

dịch nhầy và có thể tiến triển thành ung thư
nhầy di căn.
Một số phẫu thuật viên không đồng ý cắt
u nhầy bằng mổ mở. Theo các tác giả này, có
thể cắt u nhầy ruột thừa bằng phẫu thuật nội
soi và có được những ưu điểm của phẫu thuật
nội soi, tương tự như phẫu thuật nội soi điều
trị những bệnh lý khác. Nếu thực hiện bằng
phẫu thuật nội soi thì cần tránh cầm nắm trực
tiếp u nhầy và nên cho u nhầy vào túi cao su
để lấy ra khỏi ổ bụng.
González(6) báo cáo một trường hợp phẫu
thuật nội soi cắt nguyên vẹn u nhầy ruột thừa,
nhưng 9 tháng sau bệnh nhân bị u nhầy giả
phúc mạc. Theo tác giả, khi phẫu tích, cầm nắm
ruột thừa, bơm khí vào khoang phúc mạc, và lấy
bệnh phẩm qua thành bụng có lẽ gây gieo rắc tế
bào tiết nhầy vào khoang phúc mạc.
Chúng tôi có 4 trường hợp cắt ruột thừa đơn
thuần trong đó có 1 trường hợp cắt ruột thừa

111


Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012

qua nội soi, sau đó 1 năm mổ lại vì u xâm lấn
manh tràng và ruột non.

Khi u nhầy ác tính vỡ hay có di căn hạch thì
phương pháp phẫu thuật phải là cắt đại tràng
phải mới giúp cải thiện tỉ lệ sống sau 10 năm (tỉ
lệ sống sau 10 năm đối với cắt đại tràng phải là
65%, cắt ruột thừa đơn thuần chỉ đạt 37%). Hóa
trị và xạ trị hỗ trợ cũng cần thiết cho những
trường hợp u nhầy ác tính vỡ hay u giả nhầy
phúc mạc.
Trước đây, phương pháp điều tri u nhầy
ruột thừa ác tính là cắt đại tràng phải để cải
thiện tỉ lệ sống sau 5 năm. Tuy nhiên, báo cáo
gần đây của Gonzalez(6) cho thấy cắt đại tràng
phải không giúp cải thiện tỉ lệ sống sau 5 năm
trong điều trị u giả nhầy phúc mạc và u nhầy
ruột thừa có di căn ổ bụng. Theo tác giả, cắt đại
tràng phải được chỉ định cho những trường hợp
kết quả cắt lạnh u nhầy hay hạch vùng hồi đại
tràng có kết quả ác tính. Một chỉ định khác của
cắt đại tràng phải là diện cắt ở gốc ruột thừa còn
tế bào ác tính. Những trường hợp u giả nhầy
phúc mạc cần cắt ruột thừa và lấy chất nhầy
trong khoang phúc mạc để phân tích, nếu kết
quả cho thấy có tế bào biểu mô ác tính thì bệnh
nhân cần được điều trị tiếp bằng phẫu thuật
giảm tế bào (cytoreductive surgery) và hóa trị
trong ổ bụng (intraperitoneal chemotherapy).
Để chọn phương pháp phẫu thuật phù hợp
cần đánh giá kỹ gốc ruột thừa và có kết quả cắt
lạnh ở gốc ruột thừa, khảo sát hạch vùng trước
khi quyết định cắt ruột thừa đơn thuần, cắt

manh tràng hay cắt đại tràng phải. Cũng cần
khảo sát tế bào học của chất nhầy trong ổ bụng.
Nếu mổ mở, nên mổ theo đường trắng giữa để
có thể thám sát tốt phần còn lại của ổ bụng.
Phẫu thuật nội soi vẫn có vai trò quan trọng
trong điều trị u nhầy ruột thừa.
Carcinoma tuyến của ruột thừa giống như ở
đại tràng là u ác tính của ruột thừa, hiếm gặp
thường là phát hiện tình cờ khi cắt ruột thừa.
50% trường hợp đã có di căn khi phát hiện.
Những bệnh nhân bị u ác tính ruột thừa nên
cắt đại tràng phải.

112

Loại adenocarcinoma thường nằm ở gốc
ruột thừa(5), trong nghiên cứu của chúng tôi có
1/6 trường hợp u nằm ở gốc ruột thừa, loại này
thường di căn theo đường máu hay bạch mạch,
bên cạnh đó thường xâm lấn qua thành ruột
thừa(5), chúng tôi có 1/6 trường hợp u xấm lấn
vách ruột thừa và mạc treo.
Dẫn lưu bạch mạch và tĩnh mạch ruột thừa
theo manh tràng và đoạn cuối hồi tràng và hầu
như tất cả chuỗi hạch hồi đại tràng đều dẫn lưu
cho ruột thừa, vì vậy những u nguyên phát ruột
thừa thì phải đánh giá có di căn đại thể trên
những nhóm hạch này không.
Do cách thức lây lan của adenocarcinoma
nên nhiều nghiên cứu khuyên phải luôn luôn

điều trị chủ yếu là cắt đại tràng phải(1). Trong
nghiên cứu của chúng tôi chỉ có 1 trường hợp
cắt manh tràng. 1 trường hợp mở manh tràng ra
da do chẩn đoán viêm ruột thừa mủ vỡ sát gốc,
hậu phẫu 10 mổ lại cắt đại tràng phải. Những
trường hợp còn lại chỉ cắt ruột thừa đơn thuần
và bệnh nhân không tái khám.
U ác tính ruột thừa có thể di căn đến các
tạng khác trong ổ bụng, chúng tôi có 1 trường
hợp u tái phát di căn buồng trứng và tử cung, 1
trường hợp di căn ruột non được mổ lại. Trong
nhiều nghiên cứu tỉ lệ di căn buồng trứng là
57%(1) vì vậy nhiều tác giả ủng hộ quan điểm cắt
bỏ buồng trứng và tử cung cho những phụ nữ
đã mãn kinh để tăng cơ hội sống sót sau mổ và
loại bỏ khả năng di căn sau mổ.

KẾT LUẬN
Mặc dù u ác tính ruột thừa hiếm gặp, lâm
sàng thường không khác biệt gì với viêm ruột
thừa cấp và các trường hợp còn lại nhập viện vì
khối u bụng hay lan vào khoang phúc mạc.
Chẩn đoán trước và trong mổ khó khăn. Tất cả
đều được chẩn đoán dựa vào kết quả giải phẫu
bệnh lý sau mổ. Kết quả điều trị còn hạn chế. Vì
vậy đặc biệt nhấn mạnh tầm quan trọng trong
chẩn đoán và xử trí trong lúc mổ và theo dõi sau
mổ.

Chuyên Đề Ngoại Khoa



Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012
TÀI LIỆU THAM KHẢO

5.

1.

6.

2.
3.
4.

Andersson A (1976). Primary Carcinoma of the Appendix. Ann
Surg, 183(1): 53-57.
Edmondson J., Hobbs (1967). Primary Adenocarcinoma of the
Appendix. Am Surg, 33: 717.
Kim SH (1998). Mucocele of the Appendix: Ultrasonographic
and CT findings. Abdominal Imaging, 23: 292-6.
Misdraji J, Yantiss R, Graeme-Cook F. (2003). Appendiceal
mucinous neoplasms: a clinicopathological analysis of 107 cases.
Am J Surg Pathol, 27: 1089-1103.

Chuyên Đề Ngoại Khoa

7.

8.

9.

Nghiên cứu Y học

Montgomery J., Johnson. E (1931). Primary Carcinoma and
Carcinoid of the Appendix. J. MissouLi Med Assoc, 28: 215.
Moreno S.G (1998). Appendicial mucocele: contraindication to
laparoscopic appendectomy. Surg endosc, 12: 1177-9.
O’Donnell ME, et al (2007). Malignant neoplasms of the
appendix. International journal of colorectal disease, 22(10):
1239-1248.
Otto R., Ghislandi E., Lor-enzo G (1970). Primary Appendiceal
Adenocarcinoma. Am J Surg, 120:704.
Sieracki J., Tesluk. H (1956). Primary Adenocarcinoma of the
Vermiform Appendix. Cancer, 9: 997.

113



×