Tải bản đầy đủ (.pdf) (5 trang)

Kết quả điều trị xẹp đốt sống do loãng xương bằng phương pháp bơm xi măng không bóng qua da tạo hình thân đốt sống tại khoa ngoại Bệnh viện Đại học Y Hà Nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (254.27 KB, 5 trang )

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014 

Nghiên cứu Y học

 

KẾT QUẢ ĐIỀU TRỊ XẸP ĐỐT SỐNG DO LOÃNG XƯƠNG  
BẰNG PHƯƠNG PHÁP BƠM XI MĂNG KHÔNG BÓNG QUA DA  
TẠO HÌNH THÂN ĐỐT SỐNG TẠI KHOA NGOẠI  
BỆNH VIỆN ĐẠI HỌC Y HÀ NỘI 
Nguyễn Vũ*, Kiều Đình Hùng* 

TÓM TẮT 
Mục tiêu: Loãng xương là bệnh lý phổ biến ở người cao tuổi, có thể gây lún xẹp cột sống, gây đau lưng, gù, 
hạn chế vận động do đau. Bơm xi măng tạo hình thân đốt sống là phương pháp can thiệp ít xâm lấn giúp giảm 
đau cho bệnh nhân. Đề tài này tiến hành nhằm mục đích đánh giá kết quả điều trị phẫu thuật xẹp đốt sống do 
loãng xương bằng phương pháp bơm xi măng không bóng tạo hình thân đốt sống.  
Đối tượng và phương pháp: 23 bệnh nhân với 30 thân đốt sống bị lún xẹp do loãng xương được tiến hành 
bơm xi măng không bóng tại Bệnh viện Đại học Y Hà Nội từ 4/2013‐9/2014. Phương pháp nghiên cứu: Thử 
nghiệm lâm sàng không đối chứng.  
Kết quả: Tỷ lệ nữ/ nam: 4,75/1, Tuổi trung bình: 66,26 (49‐81), chủ yếu 70‐79 tuổi. 100% loãng xương với 
T score >‐2,5, 65,2% đau do loãng xương đơn thuần, 35,8% có yếu tố chấn thương. Tầng hay gặp nhất là L1 
(40%) và D12 (23,3%), đốt cao nhất là D7 (3,33%). 78,3% bơm xi măng 1 tầng, 13,04% bơm hai tầng và 8,66% 
bơm 3 tầng. Điểm VAS trước mổ là 7,74. Sau mổ 1 ngày là VAS 2,65. Biến chứng gặp trong can thiệp là rò vào 
đĩa đệm (6,7%) và rò ra thành bên (10%).  
Kết luận: Tạo hình thân đốt sống không bóng điều trị xẹp đốt sống do loãng xương là phương pháp có hiệu 
quả cao, giảm đau tốt, đơn giản, an toàn, ít xâm lấn và biến chứng ít nguy hiểm nếu lựa chọn bệnh nhân tốt, tiến 
hành thủ thuật cẩn trọng và luôn cần có màn huỳnh quang tăng sáng trong mổ. 
Từ khóa: Xẹp đốt sống, loãng xương, bơm xi măng không bóng 

ABSTRACT 


OUTCOMES OF TREATMENT WITH PERCUTANEOUS VERTEBROPLASTY  
FOR OSTEOPOROTIC VERTEBRAL COLLAPSE IN THE SURGICAL DEPARTMENT,  
HA NOI MEDICAL UNIVERSITY HOSPITAL 
Nguyen Vu, Kieu Dinh Hung  
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 18 ‐ Supplement of No 6‐ 2014: 81 – 85 
Objective: Osteoporosis is a disease that affects especially the elderly and can cause the spine to collapse, low 
back pain, kyphosis and decrease in range of motion due to pain. Percutaneous vertebroplasty with injection of 
acrylic  surgical  cement  is  a  mini‐invasive  technique  which  can  reduce  pain  in  patients  with  osteoporotic 
conditions.  This  study  aimed  to  determine  surgical  outcomes  of  percutaneous  vertebroplasty  in  treating 
osteoporotic vertebral collapse.  
Subjects  and  Methods: Patients with 30 collapsed osteoporotic vertebral bodies underwent percutaneous 
vertebroplasties in the Surgical Department, Ha Noi Medical University Hospital from April 2013 to September 
2014. Uncontrolled clinical trials were used in this study.  
Results: Sex ratio: Female/male: 4.75/1. Mean age: 66.26 years (49‐81). 100% cases had osteoporoses with 
T‐score >‐2.5. 65.2% cases of these had isolated osteoporoses and 35.8% cases had trauma fractures correlated. 
* Bệnh viện Đại học Y Hà Nội 
Tác giả liên lạc: ThS. Nguyễn Vũ,    ĐT: 0936182005;  Email:  

Phẫu Thuật Cột Sống 

81


Nghiên cứu Y học 

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014

 
The  most  commonly  effected  segment  was  L1  (40%),  followed  by  D12  (23.3%).  The  highest  level  was  D7 
(3.33%). One‐level injections were performed in 78,3% of the patients, two‐level injections  were performed in 

13.04% cases  and three‐level injections was done in 8.66% cases. Pre‐operative VAS score was 7.74 and one‐day 
post‐operative VAS score was 2.65. Complications included cement leakage into the disk (6.7%) and the spinal 
canal (10%) during vertebroplasty.  
Conclusions:  Percutaneous vertebroplasty for the treatment of osteoporotic vertebral collapse appears to be 
a  safe,  readily  performed,  minimally  invasive  procedure  which  provides  significant  reduction  in  pain.  To 
minimize the risk of this method, surgeons should select patients carefully, perform the procedures precisely and 
an intra‐operative electroluminescent screen is mandatory. 
Keyword: vertebral collapse, osteoporotic, vertebroplasty 

ĐẶT VẤN ĐỀ 
Loãng xương là một bệnh lý của hệ thống 
xương  làm  giảm  tỷ  trọng  khoáng  chất  của 
xương  hay  giảm  trọng  lượng  của  một  đơn  vị 
thể  tích  xương,  hậu  quả  của  sự  suy  giảm  các 
protein  và  các  khoáng  chất  của  bộ  xương  là 
khiến cho sức chống đỡ và chịu lực của xương 
giảm đi, xương sẽ trở nên mỏng mảnh, dễ gãy, 
dễ lún và dễ xẹp, đặc biệt ở các vị trí chịu lực 
của  cơ  thể  như:  cột  sống,  cổ  xương  đùi,  đầu 
dưới  xương  quay...  Xẹp  đốt  sống  đang  ngày 
càng  phổ  biến,  do  nhiều  nguyên  nhân:  chấn 
thương cũ, loãng xương, u thân đốt sống... Tại 
Mỹ: 700.000‐1.000.000 người/năm xẹp đốt sống 
do  loãng  xương,  25%  >50  tuổi,  1/3  số  bệnh 
nhân  đau  thắt  lưng  mạn  tính,  chi  phí  điều  trị 
17 tỷ USD, bệnh thường gặp ở nữ giới. 
Khi đốt sống bị lún xẹp do loãng xương, mỗi 
khi  xoay  trở  hoặc  vận  động,  gây  đau  đớn  cho 
người bệnh. Việc điều trị bằng thuốc hoặc nằm 
bất  động  dài  ngày  gây  ra  nhiều  hậu  quả  như 

loãng  xương  gia  tăng,  viêm  phổi,  viêm  đường 
tiểu…  và  tỉ  lệ  liền  xương  rất  thấp.  Cuộc  mổ  cố 
định bằng dụng cụ nẹp vít là một cuộc mổ lớn, 
mất  máu  nhiều,  nguy  cơ  nhiễm  trùng  và  nguy 
cơ  xảy  ra  các  tai  biến  khá  cao  mà  hiệu  quả  thì 
cũng rất mập mờ đối với các trường hợp loãng 
xương  ở  người  cao  tuổi,  ngoài  ra  dụng  cụ  cố 
định có thể bị tụt ra do xương loãng, không thể 
giữ được các dụng cụ. 
Kỹ thuật bơm xi măng qua da tạo hình thân 
đốt sống được tiến hành lần đầu tiên tại Pháp do 
giáo  sư  H.  Deramond  vào  năm  1984.  Hiện  hay 

82

nó đã được áp dụng rộng rãi ở nhiều nước tiên 
tiến trên thế giới, tại Việt Nam, tạo hình thân đốt 
sống  ở  những  bệnh  nhân  xẹp  do  loãng  xương 
bằng xi măng sinh học là một phương pháp điều 
trị mới được áp dụng cho thấy có hiệu quả cao. 
Chỉ  bằng  một  cuộc  mổ  nhỏ,  gây  tê  tại  chỗ  rồi 
đưa  kim  vào  đốt  sống  lún  xẹp  rồi  bơm  vào  đó 
một lượng xi măng sinh học với áp lực vừa đủ để 
xi  măng  có  thể  tràn  vào  trám  kín  các  bè  xương. 
Sau  mổ  chừng  nửa  giờ  là  người  bệnh  đã  có  thể 
xoay trở thoải mái trong tư thế nằm và chỉ vài giờ 
sau  là  có  thể  đi  lại  bình  thường  mà  hiện  tượng 
đau đớn đã giảm đi rất nhiều hoặc hết hẳn. 
Chính vì vậy chúng tôi tiến hành đề tài này 
nhằm mục tiêu: “Đánh giá kết quả điều trị xẹp đốt 

sống  do  loãng  xương  bằng  phương  pháp  bơm  xi 
măng không bóng qua da tạo hình thân đốt sống”. 

ĐỐI TƯỢNG ‐ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
Đối tượng nghiên cứu 
23 bệnh nhân được chẩn đoán, điều trị phẫu 
thuật tại Bệnh viện Đại học Y Hà Nội trong quá 
trình tiến hành nghiên cứu từ 4/2013 đến 9/2014. 

Tiêu chuẩn lựa chọn bệnh nhân 
Các bệnh nhân đã qua thăm khám lâm sàng 
tỉ mỉ, được làm các thăm dò chẩn đoán hình ảnh 
cần thiết để chẩn đoán chính xác là xẹp đốt sống 
và  có  kết  quả  đo  mật  độ  xương  chẩn  đoán  là 
loãng xương. 
Nằm  trong  chỉ  định  của  phương  pháp  này: 
Lún xẹp cột sống do loãng xương gây đau lưng 
mạn tính, không đáp ứng với điều trị nội khoa. 

Chuyên Đề Phẫu Thuật Thần Kinh 


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014 

Nghiên cứu Y học

 
Được  thống  nhất  một  phương  pháp  bơm  xi 
măng qua da không bóng tạo hình thân đốt sống. 


các ảnh T1W, đồng thời tăng cường độ trên các 
ảnh T2W. 

Được  theo  dõi  và  đánh  giá  kết  quả  sau  mổ 
khi  bệnh  nhân  ra  viện  và  có  tái  khám  lại  một 
trong các thời điểm khám lại theo nghiên cứu. 

+  Mức  độ  xẹp  đốt  sống  và  mức  độ  tổn 
thương các thành của đốt sống. 

Không phân biệt tuổi, giới tính… 

+  Phân  biệt  được  xẹp  đốt  sống  do  loãng 
xương hay do các bệnh ác tính. 

Tiêu chuẩn loại trừ bệnh nhân 

KẾT QUẢ VÀ BÀN LUẬN 

Bệnh  nhân  có  biểu  hiện  chèn  ép  thần  kinh, 
bệnh nhân có chấn thương gây lún xẹp cột sống, 
những  bệnh  nhân  không  có  chỉ  định  phương 
pháp  này  (đáp  ứng  tốt  với  điều  trị  nội  khoa‐
không  có  lún  xẹp  tiến  triển,  gãy  mới  có  tổn 
thương  thành  sau  thân  đốt  sống,  nhiễm  khuẩn 
tại chỗ hoặc hoàn thân, toàn trạng kém hoặc có 
tiền  sử  dị  ứng).  Những  bệnh  nhân  không  thoả 
mãn với tiêu chuẩn lựa chọn bệnh nhân. 

Qua  nghiên  cứu  23  bệnh  nhân  chẩn  đoán 

xẹp  đốt  sống  do  loãng  xương  với  30  đốt  sống 
được  điều  trị  bằng  phương  pháp  bơm  xi  măng 
không bóng chúng tôi thu được kết quả sau: 

Phương pháp nghiên cứu 
Nghiên  cứu  thử  nghiệm  lâm  sàng  không 
đối chứng. 

Các thông tin nghiên cứu cần thu thập 
Các  thông tin  chung  của  bệnh nhân và tình 
trạng bệnh tật: tuổi, giới tính, số đốt tổn thương, 
vị trí tổn thương...) 
Triệu chứng lâm sàng khi bệnh nhân tới viện 
(trước mổ): 
Đánh giá mức độ đau theo thang điểm VAS 
và kết quả chụp phim trong và sau mổ 
Các hình ảnh cận lâm sàng:  




X  quang  quy  ước:  tư  thế  thẳng,  nghiêng 
Ngoài  ra  còn  phát  hiện  các  tổn  thương 
phối hợp như: cùng hoá thắt lưng, gai đôi 
cột sống, có trượt đốt sống kèm theo... 
Chụp cắt lớp vi tính 

+ Đánh giá mức độ lún xẹp, mật độ xương 
của thân đốt tổn thương và các đốt lân cận 
+ Đánh giá các thành của thân đốt sống bị 

tổn thương 


Chụp cộng hưởng từ:  

+ Phù và dịch thay thế tủy mỡ bên trong 
thân  đốt  sống  có  hình  ảnh  giảm  cường  độ  trên 

Phẫu Thuật Cột Sống 

Tuổi và giới tính 
Tuổi trung bình trong nghiên cứu của chúng 
tôi là 66,2 tuổi, nhỏ nhất là 49 và tuổi cao nhất là 
81, nhóm tuổi thường gặp nhất là từ 70‐79 tuổi. 
Nghiên cứu của các tác giả trong nước và quốc tế 
cho kết quả tương tự. 
Đa  số  bệnh  nhân  xẹp  đốt  sống  do  loãng 
xương  là  nữ,  nghiên  cứu  của  chúng  tôi  nữ  giới 
chiếm: 82,6%, tỷ lệ nữ/nam là 4,75/1. Do nữ giới 
mất calxi trong xương qua quá trình kinh nguyệt, 
sinh  đẻ  và  cho  con  bú  và  sau  mãn  kinh  vì  vậy 
nguy cơ loãng xương cao hơn và thường dẫn đến 
xẹp đốt sống sau lao động nặng quá sức. 

Biểu hiện lâm sàng của bệnh nhân 
100%  bệnh  nhân  trong  nghiên  cứu  của 
chúng tôi có biểu hiện đau cột sống tại chỗ tổn 
thương với mức độ rối loạn vận động khác nhau 
tuy nhiên không có bệnh nhân nào có biểu hiện 
chèn ép rễ hay chèn ép tuỷ sống. 

Có  15  bệnh  nhân  (65,2%)  xẹp  đốt  sống  đơn 
thuần không có yếu tố chấn thương, 35,8% bệnh 
nhân có yếu tố khởi phát gây đau quá mức sau 
một chấn thương nhẹ ngã ngồi hay va đập trực 
tiếp  vùng  cột  sống,  những  bệnh  nhân  này 
thường đau dữ dội khi vào viện, đi lại khó khăn. 
Nghiên  cứu  của  Masato  Nakano  cũng  cho  kết 
quả tương tự(6). 
Đánh giá mức độ đau theo thang điểm VAS, 
tất  cả  các  bệnh  nhân  đều  không  có  biểu  hiện 
chèn ép rễ nên chỉ đánh giá VAS lưng. 12 bệnh 
nhân  (52,2%)  có  điểm  VAS  6‐7,  9  bệnh  nhân 

83


Nghiên cứu Y học 

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014

 
(39,1%)  VAS  8‐9  và  đặc  biệt  có  2  bệnh  nhân 
(8,7%)  VAS  10  điểm.  VAS  trung  bình  trước  mổ 
là:  7,74.  Nghiên  cứu  của  Hochmuth  VAS  trước 
mổ là 8,1(4). 

Đặc điểm về tổn thương xẹp đốt sống 
100%  bệnh  nhân  của  chúng  tôi  là  xẹp  đốt 
sống do loãng xương với xét nghiệm đo mật độ 
xương  T‐score  >‐2,5,  hình  ảnh  chụp  cắt  lớp  vi 

tính  qua  đốt  xẹp  cho  hình  ảnh  loãng  xương, 
không có đường vỡ hay mất liên tục đặc biệt ở 
những  bệnh  nhân  có  yếu  tố  chấn  thương  trước 
khi vào viện. 
Trong nghiên cứu của chúng tôi có 18 bệnh 
nhân  (78,3%)  can  thiệp  1  tầng  đốt  sống,  3  bệnh 
1nhân (13,04%) can thiệp hai tầng đốt sống liền 
kề nhau và 2 bệnh nhân (8,66%) can thiệp vào 3 
tầng đốt sống.  
Có  23  bệnh  nhân  can  thiệp  với  30  đốt  sống 
được bơm xi măng, gặp nhiều nhất là xẹp 12 đốt 
L1 (40%), 7 đốt D12 (23,3%), 6 đốt L2 (20%), 2 đốt 
D11  (6,7%)  và  1  đốt  D7,  1  đốt  D9  và  1  đốt  L3 
(3,33%).  Kết  quả  cho  thấy  tổn  thương  cũng 
thường gặp ở đoạn đốt sống bàn lề cho tính chất 
vận động và chịu lực ở các tư thế khác nhau mà 
vùng  này  thường  bị  tổn  thương  nhiều  hơn  là 
vùng  cột  sống  ngực  và  thắt  lưng  cùng.  Nghiên 
cứu của các tác giả trong nước và thế giới cho kết 
quả tương tự. 
Tất cả bệnh nhân trong nghiên cứu đều được 
chụp X‐Quang cột sống quy ước, chụp cắt lớp vi 
tính  qua  những  đốt  sống  tổn  thương  và  chụp 
cộng  hưởng  từ  để  đánh  giá  mức  độ  phù  tuỷ 
xương  ở  những  bệnh  nhân  có  yếu  tố  chấn 
thương  đều  cho  kết  quả  tổn  thương  là  xẹp  đốt 
sống  đơn thuần  với mức  độ  xẹp đốt  sống dưới 
2/3  chiều  cao  thân  đốt  sống.  Không  có  tổn 
thương  các  tường  của  thân  đốt  sống,  không  có 
tổn thương cuống cung. 


Kết quả điều trị phẫu thuật 
Lượng xi măng bơm vào thân đốt sống 
Lượng xi măng bơm vào thân đốt sống trung 
bình trong nghiên cứu của chúng tôi là 5,57 ml, ít 

84

nhất là 4ml và nhiều nhất là 7ml. Kiểm tra trên 
màn huỳnh quang tăng sáng trong mổ với hai tư 
thế thẳng và nghiêng cho thấy mức độ lan tràn 
xi măng từ 1/3 đến 2/3 trong thân đốt sống ở 17 
thân đốt (56,7%) và mức độ lan tràn xi măng trên 
2/3 thân đốt sống ở 13 thân đốt (45,3%). Những 
bệnh  nhân  có  T  score  càng  thấp  thì  lượng  xi 
măng  bơm  vào  được  càng  nhiều  do  mật  độ 
xương càng giảm mạnh thì lượng xi măng bơm 
vào  thân  đốt  càng  cao,  ngoài  ra  lượng  xi  măng 
bơm vào còn phụ thuộc vào phẫu thuật viên đặt 
kim  đúng  vị  trí  và  xi  măng  pha  đúng  kỹ  thuật 
đảm bào độ sánh và thời gian đông xi măng khi 
bơm.  Nghiên  cứu  của  Masato  Nakano  trung 
bình  lượng  xi  măng  đưa  vào  là  5,3ml(6),  một  số 
tác giả trong nước cũng cho kết quả từ 4‐5ml cả 
với bơm xi măng có bóng và không bóng(2,5). 

Kết quả VAS sau phẫu thuật 
Đa  số  bệnh  nhân  thấy  có  sự  thay  đổi  rõ  rệt 
ngay sau quá trình bơm xi măng khi bệnh nhân 
còn đang nằm trên bàn mổ, để tránh ảnh hưởng 

của  thuốc  tê  làm  sai  lệch  đánh  giá.  Tất  cả  bệnh 
nhân trong nghiên cứu của chúng tôi đều được 
đi lại bình thường không mặc áo nẹp vào ngày 
hôm sau mổ và đánh giá mức độ đau theo VAS 
sau mổ một ngày cho kết quả VAS sau mổ trung 
bình 2,65 với cao nhất là 4 điểm và thấp nhất là 2 
điểm. Nghiên cứu của Evan VAS trước mổ là 8,9; 
VAS sau mổ là 3,4(3); VAS sau mổ trong nghiên 
cứu  của  Hochmuth  là  2,6(4),  nghiên  cứu  của  Lý 
Văn Hoàng VAS trước mổ 7,7; sau mổ là 3,2(5).  

Biến chứng trong và sau phẫu thuật 
Nghiên  cứu  của  Kamer  Dere,  Mert  Akbas 
cho thấy những biến chứng nguy hiểm nhất là rò 
xi măng ra ngoài thân đốt với tỷ lệ 32% rò ngoài 
màng  cứng,  32,5%  rò  cạnh  cột  sống,  30,5%  rò 
khoang liên thân đốt, 1,7% rò vào phổi, 0.6% gây 
tắc mạch phổi, 3,3% rò lỗ liên hợp(1). Nghiên cứu 
của Masato Nakano 1/17 rò vào đĩa đệm, 1/17 rò 
ra xung quanh và 2/17 tràn vào ống sống(6). 
Nghiên cứu của chúng tôi cũng gặp một số 
biến chứng như 2/30 bệnh nhân rò vào đĩa đệm, 
3/30 bệnh nhân rò ra bên cạnh, không có trường 

Chuyên Đề Phẫu Thuật Thần Kinh 


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014 

Nghiên cứu Y học


 
hợp nào tràn vào ống sống và tràn ra lỗ tiếp hợp. 
Nhằm phòng tránh các biến chứng chúng tôi để 
xi măng vào tủ lạnh trước khi bơm, pha xi măng 
hơi  loãng,  kiểm  tra  liên  tục  trên  C.arm  cả  hai 
bình  diện,  bơm  từ  từ,  đều  tay,  thay  đổi  hướng 
kim  và  dừng  bơm  ngay  khi  có  nghi  ngờ  trên 
phim chụp. Liên tục trao đổi với người bệnh về 
biểu hiện trong quá trình phẫu thuật.  

chưa  nhiều  nên  cần  có  những  nghiên  cứu  sâu 
hơn để đánh giá hiệu quả và biến chứng có thể 
xảy ra. 

TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1.

Dere  K  and  Akbas  M,  (2008).  Percutaneous  vertebroplasty. 
Journal of Chinese clinical medicine,  3(6),  p. 347‐353. 

2.

Đỗ Mạnh Hùng, Nguyễn Văn Thạch, Đinh Ngọc Sơn, et al., 
(2009).  Đánh  giá  kết  quả  tạo  hình  thân  đốt  sống  bằng  bơm 
cement sinh học ở bệnh nhân xẹp đốt sống do loãng xương và 
chấn thương cột sống. Y học thực hành,  692+693,  p. 316‐322. 

3.


Evans  AJ,  Jensen  ME,  Kip  KE, DeNardo  AJ,  Lawler  GJ, 
Negin GA, Remley KB, Boutin SM, Dunnagan SA, (2003). 
Vertebral  Compression  Fractures:  Pain  Reduction  and 
Improvement  in  Functional  Mobility  after  Percutaneous 
Polymethylmethacrylate  Vertebroplasty—Retrospective 
Report of 245 Cases 1. Radiology,  226(2),  p. 366‐372. 

4.

Hochmuth K, Proschek D, Schwarz W, Mack M, Kurth AA, 
Vogl TJ, (2006). Percutaneous vertebroplasty in the therapy 
of  osteoporotic  vertebral  compression  fractures:  a  critical 
review. European radiology,  16(5),  p. 998‐1004. 

5.

Lý  Văn  Hoàng,  Bùi  Phú  Ấn,  and  Võ  Văn  Nho,  (2010).  Tạo 
hình thân sống bằng phương pháp bơm cement sinh học qua 
da  trong  điều  trị  đau  do  xẹp  đốt  sống  ở  bệnh  nhân  loãng 
xương. Y học thực hành,  733+734,  p. 289‐296. 

6.

Nakano M, Hirano N, Matsuura K, Watanabe RH, Kitagawa 
H,  Ishihara  RH,  Kawaguchi  Y,  (2002).  Percutaneous 
transpedicular  vertebroplasty  with  calcium  phosphate 
cement  in  the  treatment  of  osteoporotic  vertebral 
compression and burst fractures. Journal of Neurosurgery: 
Spine,  97(3),  p. 287‐293. 


KẾT LUẬN 
Tạo  hình  đốt  sống  bằng  bơm  xi  măng  sinh 
học không bóng áp dụng trong xẹp đốt sống do 
loãng xương là can thiệp ít xâm lấn có hiệu quả 
cao trong việc điều trị giảm đau cho bệnh nhân 
xẹp  đốt  sống  do  loãng  xương,  phù  hợp  với 
người cao tuổi do chỉ cần gây tê tại chỗ, đây là 
phương  pháp  tương  đối  an  toàn  với  tỷ  lệ  biến 
chứng  thấp,  hiệu  quả  cao.  Những  biến  chứng 
thường  gặp  là  xi  măng  tràn  lên  đĩa  đệm,  tràn 
sang thành bên… để đạt hiệu quả cao cần chọn 
lựa  bệnh  nhân  đúng,  chẩn  đoán  chính  xác,  tiến 
hành thủ thuật cẩn trọng, cần có sự hỗ trợ tốt của 
máy chụp huỳnh quang tăng sáng trong mổ và 
hoàn  thiện  kỹ  thuật  pha  xi  măng  cũng  nhưng 
bơm xi măng vào trong thân đốt sống. 
Tuy nhiên đây là phương pháp dùng áp lực 
của hệ thống bơm nhằm đưa xi măng vào thân 
đốt  nên  việc  chỉnh  góc  gù  sau  phẫu  thuật  còn 
hạn chế và số lượng cũng như thời gian theo dõi 

 
Ngày nhận bài báo:  

 

 

24/10/2014 


Ngày phản biện nhận xét bài báo: 

02/11/2014 

Ngày bài báo được đăng:  

05/12/2014 

 

 

 

Phẫu Thuật Cột Sống 

 

85



×