Tải bản đầy đủ (.pdf) (7 trang)

Sự chính xác trong kiến thức và thực hành của điều dưỡng Việt Nam khi sử dụng thang điểm đánh giá tri giác glasgow

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (267.95 KB, 7 trang )

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 4 * 2011

Nghiên cứu Y học

SỰ CHÍNH XÁC TRONG KIẾN THỨC VÀ THỰC HÀNH
CỦA ĐIỀU DƯỠNG VIỆT NAM KHI SỬ DỤNG THANG ĐIỂM
ĐÁNH GIÁ TRI GIÁC GLASGOW
Nguyễn Thị Hiền*

TÓM TẮT
Mục đích: Nghiên cứu điều tra sự chính xác về lý thuyết và thực hành của điều dưỡng khi sử dụng thang
điểm đánh giá tri giác Glasgow.
Thiết kế nghiên cứu: nghiên cứu cắt ngang mô tả,tiến hành bằng cách sử dụng bảng câu hởi về kiến thức
của điều dưỡng về thang điểm Glasgow. Tổng cộng 94 điều dưỡng tại một Bệnh viện đa khoa lớn ở Tp.HCM đã
tham gia nghiên cứu. Số liệu được phân tích bằng cách sử dụng phần mềm SPSS.
Kết quả: nghiên cứu cho thấy đa số điều dưỡng trả lời đúng với bảng câu hỏi liên quan tới kiến thức cơ bản
về thang điểm Glasgow (>90%); tuy nhiên có 52,1% điều dưỡng đã trả lời sai trong câu hỏi tình huống lâm sàng
ứng dụng. Trong phần đánh giá về thực hành sử dụng thang điểm Glasgow, mức độ chính xác trong đánh giá
riêng lẻ mỗi thành phần của thang điểm là chấp nhận được ( >70%), điều dưỡng mà có đánh giá chính xác cho cả
3 thành phần của thang điểm chỉ đạt 42,6%. Những kết quả này cho thấy điều dưỡng chưa thống nhất về kiến
thức trong thang điểm Glasgow để thực hành lâm sàng.
Kết luận: nghiên cứu này đề nghị phát triển một chiến lược giáo dục cho điều dưỡng để cải thiện sự chính
xác trong thực hành đánh giá thang điểm Glasgow.
Từ khóa: thang điểm đánh giá tri giác Glasgow, kiến thực, thực hành, điều dưỡng.

ABSTRACT
THE ACCURACY OF GLASGOW COMA SCALE (GCS)
KNOWLEDGE AND PERFORMANCE AMONG NURSES
Nguyen Thi Hien * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 15 - Supplement of No 4 - 2011: 194 - 200
Purpose: The purpose of this study was to investigate the accuracy of Glasgow Coma Scale (GCS) knowledge
and performance among nurses.


Methods: A cross-sectional descriptive study was conducted using a questionnaire for the nurses’ knowledge
on GCS and a structured evaluation tool for measuring the accuracy of their GCS scoring. A total of 94
Vietnamese nurses participated in the study from a general hospital in Ho Chi Minh City, Vietnam. Data were
analyzed by conducting SPSS.
Results: This study found that the vast majority of the nurses (>90%) responded correctly to the questions
on GCS basic knowledge; however, 52.1% of the nurses answered wrong for the clinical scenario questions
requiring application of the basic knowledge. Regarding the GCS performance, the nurses demonstrated acceptable
accuracy rates for each component of GCS, but those who accurately scored in all 3 components were only 42.6%.
These findings indicate that the Vietnamese nurses were not able to integrate their GCS knowledge into actual
practice of GCS scoring.

* Khoa Điều dưỡng - Kỹ thuật Y học, Đại học Y Dược Tp.HCM
Tác giả liên lạc: Ths ĐD Nguyễn Thị Hiền ĐT: 01683886879

Chuyên Đề Điều Dưỡng Kỹ Thuật Y Học

Email:

195


Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 4 * 2011

Conclusion: This study suggests that new educational strategies should be developed for the Vietnamese
nurses to improve their performance of accurate GCS scoring based on the theoretical knowledge.
Key words: Glasgow Coma Scale, Knowledge, Performance, Nurses.
dưỡng, đặc biệt là Việt Nam chưa có nghiên
ĐẶT VẤN ĐỀ

cứu nào.
Đánh giá mức độ tri giác được xem như là
Thang điểm đánh giá hôn mê Glasgow cũng
một thực hành ưu tiên của nhân viên y tế, bao
được sử dụng rộng rãi ở Việt Nam cũng giống
gồm điều dưỡng, những người chăm sóc cho
như các quốc gia khác trên thế giới để đánh giá
người bệnh có vấn đề liên quan đến hệ thần
mức độ tri giác của người bệnh. Vì thế, nghiên
kinh. Nhận định này giúp xác định những vấn
cứu này sẽ tạo ra một sự đóng góp có ý nghĩa
đề liên quan đến thần kinh, phát hiện những
thông qua sự điều tra về sự chính xác trong sử
dấu hiệu sớm của biến chứng và còn là một
dụng GCS của điều dưỡng Việt Nam. Vì vậy, kết
công cụ giúp chỉ định những can thiệp trong
quả nghiên cứu có thể thúc đẩy những trường
những tình huống cấp cứu (Weir, Bradford &
điều dưỡng và bệnh viện phát triển chương
Lees, 2003)(16).
trình giáo dục toàn diện về GCS cho người điều
Tính giá trị và độ tin cậy cao của thang điểm
dưỡng có thể chăm sóc chất lượng cao nhất.
Glasgow bảo đảm cho sự nhận định chính xác so
Mục tiêu nghiên cứu
với những công cụ đánh giá trước đây (Fisher &
Mục tiêu của nghiên cứu giúp xác định sự
Mathieson, 2001; Kingston & O’Flanaga, 2000)(3,9).
chính xác trong kiến thức và thực hành của điều
Sự hữu ích, độ tin cậy và tính ứng dụng thực

dưỡng Việt Nam khi sử dụng thang điểm đánh
hành đã được khẳng định qua nhiều nghiên cứu
giá tri giác Glasgow.
(Mcnarry & Golhill, 2004; Juarez & Lyons, 1995;
Rowley & Fielding, 1991)(8,11,13)
GCS thì bao gồm 3 thành phần chính: đáp
ứng về mở mắt, đáp ứng về lới nói và vận động,
tổng điểm được đánh giá từ 3-15. Rất nhiều
nghiên cứu trước đây đã báo cáo rằng có rất
nhiều nhà lâm sàng đã sử dụng thang điểm này
hoàn toàn không chính xác và không hiệu quả
(Bazarian, Eirich, & Salhanick, 2003; Iankova,
2006; Zuercher, Ummenhofer, Baltussen &
Walder, 2009)(2,7,17).
Có rất ít những nghiên cứu điều tra về
kiến thức với GCS của nhân viên chăm sóc sức
khỏe chuyên nghiệp (Heim, Schoettker,
Gilliard, & Spahn, 2009; Riechers, 2005)(4,12)
hoặc độ tin cậy trong đánh giá lâm sàng của
những nhân viên chăm sóc sức khỏe ở những
chuyên môn khác nhau (Arbabi 2004;
Holdgate 2006; Menegazzi, Davis & Paris
1993; Rowley & Feilding 1991)(1,6,10). Rất ít
nghiên cứu đo lường mối liên hệ giữa kiến
thức và thực hành GCS cho đối tượng là điều

196

Mục tiêu chuyên biệt
- Xác định sự chính xác về kiến thức với

thang điểm đánh giá tri giác Glasgow.
- Xác định sự chính xác trong thực hành với
thang điểm đánh giá tri giác Glasgow.
- Kiểm tra sự khác biệt trong kiến thức với
thang điểm đánh giá tri giác Glasgow giữa nhóm
thực hành đánh giá chính xác và nhóm đánh giá
không chính xác.
- Kiểm tra sự khác biệt về kiến thức và thực
hành với thang điểm đánh giá tri giác Glasgow
qua các yếu tố về đặc điểm chung điều dưỡng.
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

Thiết kế nghiên cứu
Nghiên cắt ngang mô tả.

Đối tượng nghiên cứu
Phương pháp sử dụng mẫu có sẵn để lựa
chọn đối tượng nghiên cứu được thực hiên tại
các khoa Nội Thần Kinh (NTK) và Ngoại Thần
Kinh(NgTK), khoa Chấn Thương Sọ Não
(CTSN) và khoa Hồi Sức Ngoại Thần

Chuyên Đề Điều Dưỡng Kỹ Thuật Y Học


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 4 * 2011

Nghiên cứu Y học

Kinh(HSNgTK) ở một bệnh viện đa khoa lớn tại

thành phố Hồ Chí Minh.

Bảng đánh giá thực hành về nhận định GCS
trên người bệnh

Tiêu chuẩn chọn mẫu
Điều dưỡng được mời tham gia vào nghiên
cứu bao gồm

Bảng đánh giá gồm 3 thành phần của GCS:
đáp ứng mở mắt, đáp ứng lời nói và đáp ứng
vận động. Điều dưỡng và nhà nghiên cứu cùng
dùng bảng đánh giá để nhận đỉnh mức độ tri
giác của người bệnh và ghi nhận lại số điểm của
3 thành phần cũng như tổng điểm của GCS. Số
điểm ghi nhận của nhà nghiên cứu được xem
như là một tiêu chí so sánh.

1) Điều dưỡng đang làm việc tại bệnh viện
đã tốt nghiệp chương trình đào tạo điều dưỡng
từ 2 năm trở lên.
2) Thực hành chăm sóc bệnh người lớn bị
chấn thương đầu hay những bệnh lý tổn thương
về thần kinh và được phép đánh giá GCS hợp
pháp.
3) Tự nguyện tham gia nghiên cứu.

Tiêu chí loại trừ
1) Điều dưỡng tốt nghiệp chương trình đào
tạo 1 năm.

2) Y sĩ chuyển sang điều dưỡng sau 3 tháng
đào tạo.
3) Điều dượng có ít hơn 1 năm về kinh
nghiệm.
Tổng cộng 94 điều dưỡng đạt tiêu chí tham
gia vào nghiên cứu

Công cụ nghiên cứu
Bảng câu hỏi kiến thức về GCS
Bảng câu hỏi sử dụng để đánh giá kiến
thức của điều dưỡng về GCS được thiết kế bởi
Heim và những cộng sự (2009)(4). Bảng câu hỏi
về kiến thức GCS gồm 6 câu hỏi chia làm 2
phần. Phần đầu của bảng câu hỏi giúp kiểm
tra kiến thức cơ bản chung về GCS. Phần thứ 2
của bảng câu hỏi mô tả một tình huống giả
định đòi hỏi điều dưỡng phải ứng dụng lí
thuyết kiến thức về GCS để trả lời. Mỗi câu trả
lời đúng được cho 1 điểm, câu trả lời sai là “0”
điểm. Tổng điểm của bảng câu hỏi dao động
trong khoảng từ 0-6. Điểm càng cao có nghĩa
là càng có kiến thức sâu về GCS. Độ tin cậy
KR-20 cho bản câu hỏi tiếng Việt là 0,6.

Chuyên Đề Điều Dưỡng Kỹ Thuật Y Học

Thu thập dữ liệu
Số liệu được thu thập từ tháng 7 đến tháng 8,
năm 2010 tại bệnh viện CR Tp.HCM, Việt Nam.
Điều dưỡng sẽ trả lời tất cả câu hỏi trong bảng

câu hỏi một cách độc lập trong vòng 15 phút
dưới sự giám sát nhà nghiên cứu. Điều dưỡng
hoàn tất bảng câu hỏi sẽ tiếp tục thực hiện đánh
giá GCS trên một người bệnh do nhà nghiên cứu
sắp xếp ngẫu nhiên. Nhà nghiên cứu cũng đánh
giá đồng thời với điều dưỡng trên cùng một
người bệnh và ghi nhận lại kết quả riêng biệt.

Phân tích dữ liệu
Số liệu thu thập được sẽ được phân tích bằng
chương trình SPSS 17. Chương trình phân tích
mô tả được sử dụng để mô tả thông tin chung
điều dưỡng, sự chính xác trong kiến thức và
thực hành GCS. Kiểm định t- test được dùng để
kiểm tra sự khác biệt về kiến thức giữa nhóm
thực hành đánh giá GCS đúng và nhóm thực
hành đánh giá sai, ANOVA và χ2 được dùng để
đo lường sự khác biệt về kiến thức và thực hành
qua những thông tin chung. So sánh trung bình
giữa các nhóm khi kết quả có ý nghĩa thống kê
kiểm định bởi phân tích Posthoc và LSD (Least
Significant Difference).

Y đức
Nghiên cứu cho phép thực hiện bởi bệnh
viện trước khi thu thập dữ liệu bắt đầu. Nhà
nghiên cứu giải thích mục đích của nghiên cứu
và quyền khi tham gia nghiên cứu cho điều

197



Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 4 * 2011

dưỡng, bao gồm: diễn tiến, sự độc lập và quyền
được ngưng không tham gia nghiên cứu hay từ
chối trả lời câu hỏi tại bất kỳ thời điểm nào là
một quyền hợp pháp. Điều dưỡng đồng ý tham
gia ký tên vào bản thư mời tham gia nghiên cứu.

KẾT QUẢ

Câu hỏi

Trả lời đúng Trả lời sai
N (%)
N (%)
Câu hỏi 3. Điểm của mỗi thành
89 (94,7)
5 (5,3)
phần
Câu hỏi 4. Giá trị nhỏ nhất của
94 (100)
0 (0,0)
GCS
Câu hỏi 5. Giá trị lớn nhất của
92 (97,9)
2 (2,1)

GCS
Câu hỏi 6. Tình huống lâm sàng
45 (47,9)
49 (52,1)

Thông tin chung điều dưỡng

Sự chính xác trong thực hành về GCS

Trong tổng số điều dưỡng tham gia nghiên
cứu, điều dưỡng nữ đông hơn (n=83, 88,3%) điều
dưỡng nam. Tuổi của điều dưỡng trong khoảng
từ 20-51 tuổi; hơn phân nửa điều dưỡng (n=61,
64,9%) nhỏ hơn 30 tuổi. Tương tự, hơn 1/3 điều
dưỡng (n=33, 35,1%) có ít hơn 2 năm kinh
nghiệm. Gần 1/3 trong tổng số điều dưỡng tham
gia nghiên cứu là điều dưỡng khoa Hồi Sức
Ngoại Thần Kinh, số điều dưỡng còn lại thuộc
các khoa khác. Phần thông tin về trình học vấn,
đại đa số điều dưỡng (n=86, 91,5%) tốt nghiệp
chương trình đào tạo 2 năm. Nghiên cứu cho
thấy đa số điều dưỡng được cung cấp kiến thức
về GCS từ trường học, (n=63, 67,0%); 1/3 số còn
lại nhận được thông tin về GCS tại bệnh viên nơi
làm việc. Hầu như tất cả điều dưỡng tham gia
nghiên cứu đều cảm thấy tự tin về đánh giá GCS
và tin rằng đánh giá GCS rất quan trọng cho
người bệnh trong điều trị và chăm sóc.

Mỗi kết quả đánh giá của điều dưỡng được

chia thành 2 nhóm: đánh giá chính xác và đánh
giá không chính xác thông qua sự so sánh với kết
quả đánh giá của nhà nghiên cứu. Sự giống nhau
cao nhất về kết quả đánh giá thuộc về phần đánh
giá đáp ứng vận động (n=74, 78,7%) kế tiếp là
phần đánh giá đáp ứng lời nói (n=71, 75,5%) và
thấp nhất là phần đánh giá đáp ứng mở mắt
(n=64, 68,1%). Trong khi phần đánh giá thực
hành về mỗi thành phần GCS cho thấy sự chính
xác cao của điều dưỡng, nhưng tỉ lệ chính xác
cho cả ba thành phần của GCS cho kết quả thấp
hơn so với khi so sánh trên từng thành phần,
42,6% (n=40).

Sự chính xác trong kiến thức về GCS
Hầu hết điều dưỡng tham gia nghiên có
kiến thức đúng trong 5 câu hỏi đầu tiên của
bảng câu hỏi. Trong số 5 câu hỏi đầu tiên, gần
1/3 điều dưỡng đã trả lời sai câu hỏi về tên cho
mỗi thành phần của GCS. So sánh với 5 câu hỏi
đầu tiên, câu hỏi tình huống ứng dụng lâm
sàng cho thấy tỉ lệ trả lời đúng thấp hơn: ít hơn
một nửa điều dưỡng (n=45, 47,9%) có câu trả lời
đúng. Điểm trung bình và độ lệch chuẩn là 5,03
và 0,82.
Bảng 1: Sự chính xác trong kiến thức về GCS (N=94)
Câu hỏi

Trả lời đúng Trả lời sai
N (%)

N (%)
Câu hỏi 1. Số lượng thành phần
92 (97,9)
2 (2,1)
của GCS
Câu hỏi 2. Tên mỗi thành phần
67 (71,3)
27 (28,7)

198

Bảng 2. Sự chính xác trong thực hành về GCS
(N=94)
Thành phần GCS
Mở mắt
Đáp ứng lời nói
Đáp ứng vận động
Cả 3 thành phần

Thực hành đúng Thực hành sai
N (%)
N(%)
64 (68,1)
30 (31,9)
71 (75,5)
23 (24,5)
74 (78,7)
20 (21,3)
40 (42,6)
54 (57,4)


Sự khác biệt về kiến thức giữa nhóm thực
hành đánh giá GCS đúng và nhóm thực
hành không đúng
Để kiểm tra sự khác biệt về kiến thức giữa
nhóm thực hành đánh giá GCS đúng và nhóm
thực hành không đúng, t-test được dùng để
kiểm tra sự xem có sự khác biệt hay không.
Nhóm thực hành đúng (5,38±0,82) có điểm trung
bình cao hơn nhóm thực hành không đúng
(4,78±0,71), kết quà này có ý nghĩa về mặt thống
kê (t = 3,71, p = 0,001).

Chuyên Đề Điều Dưỡng Kỹ Thuật Y Học


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 4 * 2011
Sự khác biệt trong kiến thức và thực hành
GCS bởi các thông tin chung điều dưỡng
Trong những biến số về thông tin chung của
điều dưỡng tham gia nghiên cứu, giới tính và
đơn vị làm việc cho thấy sự khác biệt có ý nghĩa
thống kê về kiến thức với GCS (bảng 3). Điều
dưỡng làm việc tại khoa Hồi Sức Ngoại Thần
Kinh có kiến thức về GCS cao hơn điều dưỡng
làm việc tại các khoa Ngoại Thần Kinh (3B1),
khoa Chấn Thương Sọ Não hay khoa Nội Thần
Kinh (F = 11,92, p= 0,01). Bảng 4 biểu hiện sự
khác biệt trong thực hành với các thông tin
chung. Không có sự khác biệt nào có ý nghĩa về

mặt thống kê.
Bảng 3: Sự khác biệt về kiến thức GCS do các biến số
thông tin chung điều dưỡng
Biến số Phân loại (n)
Tuổi
20–25 (21)
26–30 (40)
>31 (33)
Kinh
0–2 (33)
nghiệm
làm việc
3–7 (32)
>7 (29)
Khoa
Ngoại TKa
3B1 (19)
Ngoại TK b
3B3 (23)
c
CTSN (17)
Hồi sức Ngoại
d
TK (29)
e
Nội TK (6)
Thông
Từ trường
tin về
(63)

GCS
Từ bệnh viện
(31)
Tôn giáo
Có (40)
Không (54)
Tôn giáo Kết hôn (53)
Độc thân (41)

M (SD)
F (p)
Post-hoc
4,95 (0,66) 0,657 (.62)
5,00 (0,98)
6,12 (0,69)
4,97 (2,39) 0,347 (.84)

7,78 (2,32)
6,67 (2,08)
*
**
5,00 (0,90) 11,92 (.01) d>a d>c
**
d>e
5,17 (0,75)
4,75 (0,96)
5,27 (0,875)
4,84 (0,50)
5,03 (0,76) 0,691 (.60)


5,00 (0,98)
4,75 (0,88) 1,053 (,38)
5,06 (0,87)
5,06 (0,79) 0,689 (.60)
5,00 (0,86)

Ghi chú: * p <.05; ** p <.01

Bảng 4: Sự khác biệt về thực hành do các biến số
thông tin chung điều dưỡng
Biến số

Tuổi

Phân loại
(n)

2

Thực
Thực
Χ (p)
hành
hành sai
đúng (n)
(n)
20–25 (21)
8
13
0,28 (.86)


Chuyên Đề Điều Dưỡng Kỹ Thuật Y Học

Biến số

Phân loại
(n)

Nghiên cứu Y học
2

Thực
Thực
Χ (p)
hành
hành sai
đúng (n)
(n)
26–30 (40)
17
23
>31 (33)
15
18
7
12
1,94 (.74)
Kinh nghiệm 0–2 (33)
làm việc
3–7 (32)

9
14
>7 (29)
8
9
Khoa
Ngoại TK12
17
a
3B1 (19)
Ngoại TK 4
2
b
3B3 (23)
c
CTSN (17)
10
23
3,55 (.16)
17
15
Hồi sức
d
Ngoại TK
(29)
e
Nội TK (6)
13
16
27

36
4,58 (.10)
Thông tin về Từ trường
GCS
(63)
Từ bệnh
13
18
viện (31)
Tôn giáo
Có (40)
16
31
2,2 (.32)
Không (54)
24
24
Tôn giáo Kết hôn (53)
23
30
0,03 (.85)
Độc thân
17
24
(41)

BÀN LUẬN
Đây là nghiên cứu đầu tiên tại Việt Nam để
kiểm tra sự chính xác trong kiến thức và thực
hành về GCS của điều dưỡng. Tất cả điều dưỡng

tham gia nghiên cứu đều nhận thức rằng GCS
rất quan trọng trong điều trị và cảm thấy tự tin
khi sử dụng GCS để đánh giá mức độ tri giác.
Trong một nghiên cứu với sinh viên điều dưởng
năm thứ 3, chỉ có 64% sinh viên tham gia nghiên
cứu cảm thấy thang đánh giá này rất quan trọng
trong lĩnh vực ngoại thần kinh và một tỉ lệ rất
thấp (15%) cảm thấy tự tin khi sử dụng GCS
(Shoqirat, 2006)(14). Kết quả này cho thấy rằng
càng nhiều năm kinh nghiệm lảm việc lâm sàng
có vẻ có sự tự tin cao hơn và tin tưởng vào đánh
giá GCS.
Kiến thức và thực hành về GCS không được
xác nhận dù điều dưỡng sử dụng rất thường
xuyên. Kết quả này cho thấy điều dưỡng có kiến
thức khá tốt về cấu trúc của GCS nhưng lại
không đủ kiến thức áp dụng trên tình huống lâm
sàng. Điều dưỡng tham gia nghiên cứu có một tỉ

199


Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 4 * 2011

lệ cao câu trả lời sai (28,7%) về tên của mỗi thành
phần của GCS, trong khi trong nghiên cứu của
tác giả Heim và cộng sự với lực lượng cấp cứu
bằng máy bay thì chỉ có 5.8% trả lời sai Heim

(2009)(4). Thêm vào đó, hơn một nửa điều dưỡng
trả lời sai ở phần câu hỏi tình huống ứng dụng;
chỉ có 1/3 nhân viên cứu hộ trả lời sai trong
nghiên cứu trước Heim (2009)(4). Sự khác biệt này
bắt nguồn từ sự thiếu huấn luyện một cách hệ
thống về GCS cho điều dưỡng hay sinh viên
điều dưỡng.
Điều dưỡng tham gia nghiên cứu cho thấy
sự chính xác trong thực hành ở mức trung bình
khi nói đến từng thành phần của GCS, kết quả
này tương tự hoặc cao hơn so với các nghiên cứu
trước kia (Holdgate 2006; Zuercher 2009)(6,17). Tuy
nhiên trong nghiên cứu của chúng tôi thấy rằng
ít hơn một nửa điều dưỡng đã thực hành đúng
khi xem xét sự chính xác cả 3 thành phần của
GCS đồng thời, trong khi hơn 2/3 có sự chính xác
khi kiểm tra từng thành phần GCS riêng lẻ.
Những kết quả chứng tỏ rằng điều dưỡng chỉ
thực hành đánh giá đúng khi đo lường ở một vài
thành phần đơn lẻ, nhưng không phải cả 3 thành
phần. Điều đó cho thấy kiến thức không tốt về
GCS nên không thể có kết quả cao trong câu hỏi
ứng dụng.
Kết quả của chúng tôi khẳng định rẳng
càng có kiến thức chính xác về kiến thức liên
quan đến GCS thì sự thực hành sẽ càng chính
xác. Nhóm điều dưỡng thực hành chính xác
cho thấy họ kiến thức tốt hơn về GCS so với
nhóm thực hành không chính xác. Chương
trình giáo dục liên tục cho viêc sử dụng GCS

cũng được nhấn mạnh trong các nghiên cứu
của Watson, Horn và Curl (1992)(15).
Trong báo cáo Arbabi (2004) thì có sự khác
biệt so với kết quả của chúng tôi về sự chính xác
cao trong khi đa số người bệnh trong tình trạng
nặng. Người ta thường cho rằng người bệnh
trong tình trạng nặng thường nằm tại khoa Hồi
Sức Ngoại Thần Kinh, do đó kết quả trong phần
thực hành vể GCS sẽ ít chính xác so với khoa
khác có tình trạng bệnh tốt hơn.

200

KẾT LUẬN
GCS là một công cụ đánh giá về mức độ tri
giác giá trị vá đáng tin cậy. Điều dưỡng chăm
sóc chuyên nghiệp chịu trách nhiệm theo dõi
liên tục và xác định những rối loại về tri giác
người bệnh. Do vậy kiến thức và kỹ năng thực
hành chính xác rất quan trọng với điều dưỡng.
Những kết quả của nghiên cứu này chỉ ra
khoảng cách giữa lý thuyết và thực hành về GCS
của điều dưỡng. Mặc dù hầu hết điều dưỡng có
kiến thức cơ bản về GCS, nhưng họ không thể
ứng dụng để phân tích cho một tình huống lâm
sàng. Hơn thế nữa kiến thức của họ không đủ để
có sự thực hành chính xác. Do đó nghiên cứu
này đề nghị có một chương trình huấn luyện
được phát triển tốt để có thể cung cấp sự đánh
giá chính xác các mức độ tri giác thông qua GCS

mà kết quả cuối cùng là nhằm cải thiện chất
lượng chăm sóc.

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.

2.

3.

4.

5.

6.

7.

8.
9.

Arbabi S, Jurkovich GJ, Walh WL, Franklin GA, Hemmila
MR, Taheri PA, Mairer RV (2004). A comparison of
prehospital and hospital data in trauma patients. Journal of
Trauma, 56, 1029- 1032.
Bazarian JJ, Eirich MA, Salhanick SD (2003). The relationship
between pre- hospital and emergency department Glasgow
Coma Scale score. Brain Injury, 17(7), 553- 560.
Fisher J, Mathieson C (2001). The History of the Glasgow
Coma Scale: implications for practice. Critical Care Nurse, 23(4),

52- 58.
Heim C, Schoettker P, Gilliard N, Spahn DR (2009).
Knowledge of Glasgow Coma Scale by air-rescue physicians.
Scandinavian Journal of Trauma, Resuscitation and Emergency
Medicine, 17(39), 1- 6.
Heron R, Davie A, Gillies R, Courtey M (2001). Interrater
reliability of the Glasgow Coma Scale scoring among nurses in
sub-specialities of critical care. Australia critical care, 14(3), 101105.
Holdgate A, Ching N, Angonese L (2006). Variability in
agreement between physicians and nurses when measuring
the Glasgow Coma Scale in the emergency department limits
its clinical usefulness. Journal of Emergency Medicine Australasia,
18(4), 379- 384.
Iankova A (2006). The Glasgow Coma Scale clinical
application in emergency departments. Emergency Nurse,
14(8), 31- 35.
Juarez VJ, Lyons M (1995). Interrater reliability of the Glasgow
Coma Scale. Journal of Neuroscience Nursing, 27, 283- 286.
Kingston R, O’Flanagan SJ (2000). Scoring system in trauma.
Irish Journal of Medicine Science,169(3), 168- 172.

Chuyên Đề Điều Dưỡng Kỹ Thuật Y Học


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 4 * 2011
10.

11.

12.


13.

14.

Menegazzi JJ, Davis EA, Paris PM (1993). Reliability of the
Glasgow Coma Scale when used by emergency physicans and
paramedics. Journal of Trauma, 34, 46-48.
Mcnarry AF, Golhill DR (2004). Simple bedside assessment of
level of consciousness: comparison of two simple assessment
scales with the Glasgow coma scale. Anaesthesia. 59, 34- 37.
Riechers RG, Ramage A, Brown W, Kalehua A, Rhee P,
Ecklund JM, Ling GSF (2005). Physician knowledge of the
Glasgow Coma Scale. Journal of Neurotrauma, 22(11), 13721334.
Rowley G, Feilding K (1991). Reliability and accuracy of the
Glasgow Coma Scale with experienced and inexperienced
users. Lancet, 337, 535- 538.
Shoqirat N (2006). Nursing students’ understanding of the
Glasgow Coma Scale. Nursing Standard, 20(30), 41- 47.

Chuyên Đề Điều Dưỡng Kỹ Thuật Y Học

15.

16.

17.

Nghiên cứu Y học


Watson M, Horn S, Curl J (1992). Searching for signs of
revival. Uses of the Glasgow Coma Scale. Professional Nurse,
7(10), 670- 674.
Weir CJ, Bradford APJ, Lees KR (2003). The prognostic value
of the components of the Glasgow Coma Scale following acute
stroke. The Quarterly Journal of Medicine, 96, 67- 74.
Zuercher M, Ummenhofer W, Baltussen A, Walder B (2009).
The use of Glasgow Coma Scale in injury assessment: A
critical review. Brain Injury, 23(5), 371- 384.

201



×