Tải bản đầy đủ (.pdf) (6 trang)

Bước đầu ứng dụng kỹ thuật PCR định lượng đánh giá tồn lưu tế bào ác tính tổ hợp GEN TEL-AML1 tại Bệnh viện Truyền máu Huyết học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (344.47 KB, 6 trang )

Nghiên cứu Y học 

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Số 5 * 2013

BƯỚC ĐẦU ỨNG DỤNG KỸ THUẬT PCR ĐỊNH LƯỢNG  
ĐÁNH GIÁ TỒN LƯU TẾ BÀO ÁC TÍNH TỔ HỢP GEN TEL‐AML1  
TẠI BỆNH VIỆN TRUYỀN MÁU HUYẾT HỌC 
Nguyễn Thị Minh Yên*, Phan Thị Xinh** 

TÓM TẮT 
Mục tiêu: Ứng dụng kỹ thuật PCR định lượng (RQ‐PCR) trong đánh giá tồn lưu tế bào ác tính (TLTBAT) 
trên bệnh nhân (BN) bạch cầu cấp dòng lympho (BCCDL) có mang tổ hợp gen TEL‐AML1. 
Đối tượng và phương pháp: 13 BN được chẩn đoán BCCDL‐B có biểu hiện TEL‐AML1 bằng RT‐PCR và 
FISH được khảo sát TLTBAT lúc chẩn đoán và trong quá trình theo dõi điều trị bằng kỹ thuật RQ‐PCR sử dụng 
Taqman Probe. 
Kết  quả  nghiên  cứu:  Trước điều trị, hầu hết các BN đều có biểu hiện TEL‐AML1 ở mức độ cao với kỹ 
thuật RQ‐PCR, RT‐PCR và FISH. Sau khi hoàn tất giai đoạn tấn công, có 5 trong 13 BN (38,46%) thì vẫn còn 
biểu hiện TEL‐AML1 ở mức thấp từ 0,03% đến 0,28 % trong khi FISH và RT‐PCR đều âm tính. Đối với BN 
ALL‐10, kết quả khảo sát bằng kỹ thuật RQ‐PCR cho thấy mức độ biểu hiện tổ hợp gen TEL‐AML1 trước điều 
trị là 75,82%, giảm còn 0,29% (gần 3 log) sau điều trị tấn công và không còn sự hiện diện của tổ hợp gen TEL‐
AML1 sau điều trị tăng cường. BN ALL‐13 với mức độ biểu hiện TEL‐AML1 là 31,18% so với ABL, sau điều 
trị xong giai đoạn tấn công, TLTBAT là 0,16% (giảm khoảng 2 log) và 0,10% sau đó 2 tháng. Tuy nhiên, tỷ lệ 
TLTBAT bắt đầu tăng lên ở các lần gửi mẫu tiếp theo lần lượt là 0,36% và 2,42% cho thấy xuất hiện lại dòng tế 
bào ác tính. 
Kết  luận:  Bước đầu sử dụng  kỹ thuật RQ‐PCR đánh giá TLTBAT trong BCCDL‐B cho thấy có ý nghĩa 
trong đánh giá lui bệnh và dự đoán nguy cơ tái phát trong quá trình điều trị cho BN có mang tổ hợp gen TEL‐
AML1. 
Từ khóa: TEL‐AML1, tồn lưu tế bào ác tính, PCR định lượng. 

ABSTRACT 
DEVELOPMENT OF REAL‐TIME QUANTITATIVE PCR  


TO MONITOR MINIMAL RESIDUAL DISEASE IN TEL/AML1 POSITIVE PATIENTS  
AT BLOOD TRANSFUSION AND HEMATOLOGY HOSPITAL 
Nguyen Thi Minh Yen, Phan Thi Xinh * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 17 ‐ No 5 ‐ 2013: 184 ‐ 189 
Object:  Using  Real  Time  Quatitative  ‐  PCR  (RQ‐PCR)  to  assess  minimal  residual  disease  (MRD)  in 
patients with TEL/AML1 positive acute lymphoblastic leukemia (ALL).  
Methods:  13  B‐ALL  patients  detected  TEL/AML1  positive  by  FISH  and  RT‐PCR  methods  before 
chemotherapy are monitored MRD by RQ‐PCR with Taqman Probe.  
Results:  Before chemotherapy, most of patients express TEL‐AML1 at high levels by RQ‐PCR, RT‐PCR 
and FISH. At the end of the induction therapy, 5 in13 cases (38.46%) are still detected MRD at the very low 
levels, from 0.03% to 0.28 %; while both FISH and RT‐PCR indicate the negative result. To patient ALL‐10, the 
result of RQ‐PCR shows the TEL‐AML1 high positive level at diagnosis time, standing at 75.82%, declining 
* Khoa Di Truyền Học Phân Tử ‐ Bệnh viện Truyền Máu Huyết Học TP Hồ Chí Minh 
** Bộ môn Huyết Học ‐ Đại học Y Dược TP Hồ Chí Minh 
Tác giả liên lạc: TS. BS. Phan Thị Xinh   ĐT: 093.2728.115   Email:  

184

Chuyên Đề Truyền Máu – Huyết Học  


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Số 5 * 2013 

Nghiên cứu Y học

sharply to 0.29% (approximately 3 logs) after induction therapy and then vanishing after intensification therapy. 
Patient ALL‐13 shows positive TEL‐AML1/ABL level at 31.18%; after induction therapy, MRD occupies 0.16% 
(decrease over 2 logs) and declining to 0.10% after 2 months. However, there is a significant increasing in MRD 
levels of the next 2 times, 0.36% and 2.42%, respectively. 
Conclusions: The first step applying RQ‐PCR method to assess MRD in TEL‐AML1 positive ALL patients 
shows the important value of monitoring remission and predicts a relapse risk in treatment duration. 

Key words: TEL‐AML1, minimal residual disease, Real Time Quatitative PCR.  
hành  khảo  sát  TLTBAT  trên  BN  có  biểu  hiện 
 ĐẶT VẤN ĐỀ 
TEL/AML1 ở các giai đoạn sau điều trị, đặc biệt 
Đánh giá tồn lưu tế bào ác tính (TLTBAT) là 
sau giai đoạn tấn công. 
một  yếu  tố  dự  đoán  nguy  cơ  tái  phát  rất  quan 
ĐỐI    TƯỢNG  –  PHƯƠNG    PHÁP    NGHIÊN  
trọng ở bệnh nhân (BN) bệnh bạch cầu cấp dòng 
CỨU 
lympho (BCCDL)(1,6,9). Trong hầu hết các nghiên 
cứu, tỷ lệ TLTBAT lớn hơn 0,01% là tỷ lệ thuận 
Đối tượng 
với  nguy  cơ  tái  phát(2).  Hiện  nay,  việc  đánh  giá 
BN được  chẩn  đoán  BCCDL‐B  dựa  vào  tủy 
TLTBAT  trong  BCCDL  có  thể  sử  dụng  các  kỹ 
đồ  và  dấu  ấn  bề  mặt  tế  bào  tại  BVTMHH  từ 
thuật  như  Flow  Cytometry  (FCM),  PCR  định 
tháng 06/2010 đến tháng 03/2013. Các BN này có 
lượng  (RQ‐PCR)  các  tái  sắp  xếp  gen 
kết quả RT‐PCR dương tính với tổ hợp gen TEL‐
imunoglobullin  và  T‐cell  receptor  và  RQ‐PCR 
AML1 trước khi bắt đầu điều trị và có gửi mẫu 
các tổ hợp gen thường gặp(9,2,7). Trong đó, hai kỹ 
theo dõi sau điều trị.  
thuật đầu tiên có khả năng là theo dõi khoảng 80 
Phương pháp nghiên cứu 
‐ 95% các BN(8,9). Đối với những BN BCCDL‐B có 
biểu hiện tổ hợp gen như TEL/AML1, BCR/ABL, 
Thiết kế nghiên cứu 

E2A/PBX1 và MLL/AF4 thì RQ‐PCR khảo sát các 
Mô tả loạt ca. 
tổ  hợp  gen  trên  được  lựa  chọn  ưu  tiên  vì  đặc 
Phương pháp tiến hành 
hiệu cho dòng tế bào ung thư(2,3,6,8) và có thể theo 
Xử lý mẫu và ly trích RNA 
dõi được khoảng 30 ‐35% trường hợp. 
Lấy  2  mL  mẫu  tủy  trong  chống  đông 
Tổ  hợp  gen  TEL/AML1  được  tạo  thành  do 
EDTA, ly giải hồng cầu bằng dung dịch ly giải 
chuyển  vị  t(12;21)(p13;q22)  gặp  trong  khoảng 
chứa  1M  MgCl2,  5M  NaCl  và  1M  Tris‐HCl. 
20–25% BN BCCDL‐B và là yếu tố tiên lượng tốt 
Rửa tế bào bằng dung dịch đệm PBS và lấy 1 x 
(8). Theo báo cáo của một số nghiên cứu, sau đợt 
107  tế  bào  trộn  đều  với  1  mL  Trizol  (Life 
điều trị tấn công, kết quả đánh giá TLTBAT cho 
Technologies, Mỹ).  
thấy có khoảng 40‐50% bệnh nhân vẫn còn biểu 
hiện  tổ  hợp  gen  TEL‐AML1(2,5).  TLTBAT  được 
chứng  minh  là  liên  quan  đến  nguy  cơ  tái  phát 
sau  này.  Trong  những  nghiên  cứu  về  vấn  đề 
này,  các  tác  giả  đã  đưa  ra  kết  quả  chung  rằng 
những  BN  không  phát  hiện  TLTBAT  vẫn  chưa 
thấy  bị  tái  phát,  tuy  nhiên,  đối  với  những  BN 
vẫn  còn  TLTBAT,  một  số  trường  hợp  đã  bị  tái 
phát(4,8,11). 
Huyết học (BVTMHH) TP. HCM, sau khi đã 
thiết lập thành công điều kiện của kỹ thuật RQ‐
PCR cho tổ hợp gen TEL/AML1(12), chúng tôi tiến 


Chuyên Đề Truyền Máu – Huyết Học 

RNA được ly trích từ mẫu tế bào lưu trữ với 
Trizol  theo  qui  trình  kỹ  thuật  do  công  ty  cung 
cấp.  Sau  đó,  đo  nồng  độ  RNA  bằng  máy 
Ultrospec  5300  pro  (GE  Heathcare,  Anh).  Mẫu 
đạt chất lượng khi có tỉ lệ OD260/OD280 = 1,8 – 
2,0.  Lấy  đúng  1g  RNA  để  tổng  hợp  cDNA 
nhằm  đảm  bảo  sự  đồng  nhất  đầu  vào  của  các 
mẫu cần định lượng. Lượng RNA  còn  lại  được 
lưu trữ ở nhiệt độ ‐80oC. 
Tổng hợp cDNA 

185


Nghiên cứu Y học 
Tổng hợp cDNA sử dụng bộ kít Transcriptor 
First  Strand  cDNA  Synthesis  Kit  (Roche,  Thụy 
Sĩ) theo hướng dẫn của nhà sản xuất. Hỗn hợp 
RNA và men sao chép ngược trên được ủ bằng 
máy  luân  nhiệt  iCycler  (Biorad,  Mỹ)  theo  chu 
trình  luân  nhiệt  là  25oC  trong  10  phút,  55oC 
trong 30 phút, và 85oC trong 5 phút. Mẫu cDNA 
được  pha  loãng  để  điều  chỉnh  về  nồng  độ  50 
ng/3L và được lưu trữ ở ‐20oC đến khi sử dụng. 
Thực hiện RQ‐PCR 
Tiến  hành  chạy  RQ‐PCR  đồng  thời  mẫu 
bệnh nhân, mẫu chuẩn và chứng nội tại ở cùng 

điều kiện theo mô tả Thanh TTT và cộng sự(12) trên 
máy CFX 96 của (Biorad, Mỹ). Mẫu chuẩn trong 
nghiên  cứu  này  được  chuẩn  bị  theo  mô  tả  của 
Thanh  TTT  và  cộng  sự(12)  với  Taqman  Probe  có 
đầu  5’  được  đánh  dấu  bằng  FAM,  và  đầu  3’ 
được đánh dấu bằng TAMRA và chứng nội tại 
được  lựa  chọn  sử  dụng  là  gen  ABL.  Chu  trình 
luân nhiệt cho phản ứng RQ‐PCR như sau: 50oC 
trong 2 phút; 95oC trong 10 phút; 50 chu kỳ với 
95oC trong 10 giây, 60oC trong 30 giây. Phân tích 
kết  quả  trực  tiếp  trên  máy  mà  không  cần  qua 
bước điện di. 
Phân tích kết quả 
‐  Kiểm  tra  các  thông  số  của  đường  khuếch 
đại và đường chuẩn để đánh giá tính chính xác, 
hiệu suất phản ứng, và độ tin cậy của phản ứng.  
‐ Tính tỉ lệ phần trăm tổ hợp gen quan tâm 
so với chứng nội tại, thể hiện kết quả dưới dạng 
biểu đồ để dễ dàng đánh giá được mức độ tồn 
lưu tế bào ác tính. 

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Số 5 * 2013
thuật RQ‐PCR, RT‐PCR và FISH (Bảng 1), ngoại 
trừ ALL‐11 và ALL‐13.  
Bảng 1: Kết quả TEL‐AML1 với kỹ thuật RQ‐PCR, 
RT‐PCR và FISH lúc chẩn đoán. 
STT

MÃ BN


1

ALL-01

116,90

(+)

89,00

2

ALL-02

158,69

(+)

96,05

3

ALL-03

105,01

(+)

91,50


4

ALL-04

114,20

(+)

98,00

5

ALL-05

422,01

(+)

98,00

6

ALL-06

71,78

(+)

97,00


7

ALL-07

234,15

(+)

97,50

8

ALL-08

115,38

(+)

97,00

9

ALL-09

204,32

(+)

81,50


10

ALL-10

75,82

(+)

90,00

11

ALL-11

0,35

(+)

15,00

12

ALL-12

56,92

(+)

78,05


13

ALL-13

31,18

(+)

64,45

Đến  lần  gửi  mẫu  thứ  hai  sau  khi  hoàn  tất 
giai  đoạn  tấn  công,  những  BN  này  không  phát 
hiện  thấy  TLTBAT  bằng  kỹ  thuật  RT‐PCR  và 
FISH. Tuy nhiên, 5 trong 13 BN (38,46%) vẫn còn 
biểu  hiện  TEL‐AML1  ở  mức  thấp  từ  0,03%  đến 
0,28 % với kỹ thuật RQ‐PCR (Bảng 2).  
Bảng  2:  Kết  quả  của  BN  còn  biểu  hiện  TEL‐
AML1 sau hoàn tất giai đoạn tấn công. 

186

RQ-PCR
RT-PCR
FISH
TELTEL-AML1 t(12;21)
AML1/ABL
(%)
(%)
(%)


STT

MÃ BN

1

ALL-05

0,28

(-)

0,00

2

ALL-07

0,03

(-)

0,00

3

ALL-09

0,04


(-)

0,00

4

ALL-10

0,29

(-)

Không làm

5

ALL-13

0,16

(-)

0,00

KẾT QUẢ  
Trong thời gian thực hiện nghiên cứu, chúng 
tôi đã thu thập được 13 BN chẩn đoán BCCDL‐
B, thỏa mãn tiêu chuẩn chọn mẫu và được khảo 
sát biểu hiện tổ hợp gen TEL‐AML1 qua các giai 
đoạn  điều  trị  bằng  kỹ  thuật  RQ‐PCR,  trong  đó 

có 12 BN (ALL‐01 đến ALL‐12) là mới chẩn đoán 
và 1 BN (ALL‐13) là tái phát tủy lần 2. Ở lần gửi 
mẫu đầu tiên trước điều trị, hầu hết các BN đều 
có  biểu  hiện  TEL‐AML1  ở  mức  độ  cao  với  kỹ 

RQ-PCR
RT-PCR
FISH
TELTEL-AML1 t(12;21)
AML1/
(%)
(%)
ABL (%)

Trong  13  BN  trên,  có  2  BN  đã  tiếp  tục  gửi 
mẫu để khảo sát TEL/AML1 sau các đợt hóa trị 
liệu.  Kết  quả  mức  độ  biểu  hiện  TEL‐AML1  qua 

Chuyên Đề Truyền Máu – Huyết Học  


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Số 5 * 2013 
các giai đoạn điều trị bằng kỹ thuật RQ‐PCR của 
từng BN được mô tả như sau: 
BN  Châu  Ngọc  K.  L.  là  BN  nữ,  sinh  năm 
2004, mã ALL‐10. Kết quả RQ‐PCR của 3 lần gởi 
mẫu theo dõi điều trị của BN ALL‐10 được tóm 
tắt theo biểu đồ 1. 

Nghiên cứu Y học

BN  ALL‐13  được  chẩn  đoán  là  BCCDL  tái 
phát và điều trị theo phác đồ COPRALL 2005. 
Theo  biểu  đồ  2,  ở  lần  gửi  mẫu  đầu  tiên  trước 
điều trị (ALL‐13‐1),  kết  quả  RQ‐PCR  cho  thấy 
mức độ biểu hiện TEL‐AML1 là 31,18% so với 
ABL.  Sau  hơn  3  tháng  điều  trị  xong  giai  đoạn 
tấn  công,  kết  quả  RQ‐PCR  cho  thấy  mức  độ 
biểu hiện TEL‐AML1 giảm khoảng 2 log và vẫn 
còn 0,16%. 

 
Biểu đồ 1: Kết quả RQ‐PCR theo dõi điều trị của BN 
ALL‐10  
Dựa  vào  biểu  đồ  1,  ở  lần  gửi  mẫu  đầu  tiên 
(ALL‐10‐1) trước điều trị, kết quả khảo sát bằng 
kỹ thuật RQ‐PCR cho thấy mức độ biểu hiện tổ 
hợp  gen  TEL‐AML1  là  75,82%.  Ở  lần  gửi  mẫu 
thứ hai (ALL‐10‐2) sau khi hoàn tất giai đoạn tấn 
công  thì  tỉ  lệ  này  giảm  gần  3  log  và  vẫn  còn 
0,29%. Đến  lần  gửi  mẫu  thứ  ba  (ALL‐10‐3),  khi 
hoàn  tất  tăng  cường  1  bằng  phát  đồ  FRALLE 
2000 nhóm A1, kết quả RQ‐PCR cho thấy không 
còn sự hiện diện của tổ hợp gen TEL‐AML1. Kết 
quả  RQ‐PCR  so  với  kết  quả  RT‐PCR  và  FISH 
theo Bảng 3. 
Bảng 3: Kết quả RQ‐PCR, RT‐PCR và FISH của ca 
ALL‐10 qua các lần gửi mẫu 
RQ-PCR
TEL-AML1/ABL
(%)

ALL-10-1
75,82
ALL-10-2
0,29
ALL-10-3
0,00
Mã BN

RT-PCR
TEL-AML1

FISH
t(12;21) (%)

(+)
(-)
(-)

90,00
Không làm
0,00

BN Phan Chí U là BN nam, sinh năm 2000, 
mã ALL‐13, tình trạng bệnh là tái phát tủy lần 2. 
Kết quả RQ‐PCR các lần gởi mẫu theo dõi điều 
trị của BN ALL‐13 được tóm tắt theo biểu đồ 2. 

Chuyên Đề Truyền Máu – Huyết Học 

 

Biểu đồ 2: Kết quả RQ‐PCR theo dõi điều trị của BN 
ALL‐12 
Sau đó 2 tháng, sau khi hoàn tất BLOCK R1 
R2,  RQ‐PCR  cho  thấy  TLTBAT  chỉ  còn  0,10% 
(Bảng 4). Đến lần gửi mẫu thứ  4  (ALL‐13‐4)  và 
thứ 5 (ALL‐13‐5), tỷ lệ TLTBAT đã bắt đầu tăng 
lên lần lượt là 0,36% và 2,42%. RT‐PCR cho kết 
quả dương tính với cả 5 lần gửi mẫu (Bảng 4). 
Bảng 4: Kết quả RQ‐PCR, RT‐PCR và FISH của ca 
ALL‐12 
Mã BN
ALL-13-1
ALL-13-2
ALL-13-3
ALL-13-4
ALL-13-5

RQ-PCR
RT-PCR
FISH
TEL-AML1/ABL (%) TEL-AML1 t(12;21 (%)
31,18
(+)
64,5
0,16
(+)
0,00
0,1
(+)
Không làm XN

0,36
(+)
Không làm XN
2,42
(+)
Không làm XN

BÀN LUẬN  
Trong  13  BN  khảo  sát  biểu  hiện  TEL‐
AML1/ABL bằng RQ‐PCR trước điều trị, có 2 BN 
ALL‐11 và ALL‐13 cho kết quả lần lượt là 0,35% 
và  31,18%,  thấp  hơn  nhiều  so  với  các  BN  khác 
(Bảng  1).  Đối  với  trường  hợp  ALL‐11,  kỹ  thuật 

187


Nghiên cứu Y học 
FISH  cho  kết  quả  dương  tính  t(12;21)  ở  mức 
thấp  với  15%,  ngoài  ra  còn  có  thêm  1  dòng  tế 
bào khác chiếm 80% biểu hiện 4 tín hiệu nhiễm 
sắc thể 21. Trường hợp ALL‐13 đã được điều trị 
bằng phát đồ đặc hiệu và tái phát lần 1, sau đó 
được  điều  trị  bằng  phát  đồ  FRALLE  93  và  tái 
phát tủy lần 2, nên TEL‐AML1 không biểu hiện ở 
mức  cao.  Những  trường  hợp  mới  được  chẩn 
đoán,  chưa  trải  qua  quá  trình  điều  trị  thì  tỉ  lệ 
TEL‐AML1/ABL rất cao như ALL‐2, ALL‐5, ALL‐
7,  ALL‐9,..  với  tỉ  lệ  >100%  (Bảng  1),  cao  hơn  so 
với tỉ lệ tế bào có t(12;21) khảo sát bằng kỹ thuật 

FISH,  cho  thấy  dòng  tế  bào  ung  thư  có  t(12;21) 
biểu hiện bản sao TEL‐AML1 rất mạnh.  
Tổ  hợp  gen  TEL‐AML1  xuất  hiện  ở  trẻ  em 
mắc bệnh BCCDL‐B cho tiên lượng tốt  (5, 8). Sau 
khi hoàn tất điều trị tấn công, kết quả kiểm tra 
bằng FISH và RT‐PCR là âm tính hay  kết  quả 
RQ‐PCR cho TLTBAT ở mức thấp hoặc không 
phát hiện đã thể hiện khả năng đáp ứng điều 
trị tốt của các BN BCCDL‐B dương tính tổ hợp 
gen TEL‐AML1. Tuy nhiên, 38,46% BN vẫn còn 
TLTBAT ở mức rất thấp (<1%), tương đồng với 
các  nghiên  cứu  của  tác  giả  Gabert  J  (2)  và 
Drunat  S  (4) và cộng sự. Kết quả này  đã  phản 
ánh độ nhạy cao, độ đặc hiệu theo dòng tế bào 
ung  thư  của  kỹ  thuật  RQ‐PCR,  và  đây  là  ưu 
điểm  của  kỹ  thuật  RQ‐PCR  như  một  công  cụ 
hiệu  quả  trong  đánh  giá  TLTBAT  với  BN 
dương tính với tổ hợp gen. 
Việc  phát  hiện  TLTBAT  trong  các  BN  sau 
khi  hoàn  tất  điều  trị  tấn  công  cho  dự  hậu  về 
nguy cơ tái phát, tương đồng với báo cáo  của 
tác  giả  de  Haas  V  và  cộng  sự  (4).  Nghiên  cứu 
này  đã  so  sánh  trên  2  nhóm  BN  là  chẩn  đoán 
mới  và  đã  tái  phát  với  mức  độ  TLTBAT  sau 
điều trị tấn công lần lượt là 0,02% ‐ 0,001% và 
0,24%  ‐  1,2%,  và  từ  đó  đã  cho  thấy  được  ý 
nghĩa  quan  trọng  của  TLTBAT  trong  tiên 
lượng  cho  BN.  Theo  báo  cáo  của  Madzo  J  và 
cộng  sự  (8),  nghiên  cứu  đã  sử  dụng  kỹ  thuật 
RQ‐PCR  và  cho  kết  quả  là  có  75%  BN  không 

còn  phát  hiện  TLTBAT  tại  thời  điểm  kết  thúc 
điều trị tấn công và chưa có BN nào bị tái phát 

188

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Số 5 * 2013
sau 45 tháng điều trị. Tuy nhiên, đối với nhóm 
BN  vẫn  còn  phát  hiện  TLTBAT,  có  3  BN  có 
TLTBAT  là  >  0,01%  và  4  BN  có  TLTBAT 
<0,01% đã bị tái phát. Một báo cáo khác của tác 
giả Seeger K và cộng sự (11) cũng thống kê trên 
94  BN  và  cho  kết  quả  là  78%  BN  không  còn 
biểu  hiện  TEL‐AML1  sau  điều  trị  tấn  công  và 
cũng chưa phát hiện BN nào bị tái phát trong 
thời gian nghiên cứu; trong tổng số những BN 
còn dương tính thì có 2 BN đã tái phát sau 57,8 
tháng điều trị.  
Khả  năng  sống  không  sự  kiện  của  các  BN 
mắc  BCCDL‐B  dương  tổ  hợp  gen  TEL‐AML1 
trong 4 năm là 90% ‐ 100% (10). Chính vì vậy, sau 
hơn 3 năm điều trị từ 6 ‐ 2010 đến 4 ‐ 2013, các 
BN  này  vẫn  còn  trong  tình  trạng  lâm  sàng  ổn 
định  và  đang  trong  giai  đoạn  điều  trị  duy  trì. 
Tuy nhiên, tình trạng lâm sàng ổn định hiện tại 
không  có  nghĩa  loại  trừ  nguy  cơ  tái  phát,  nên 
việc đánh giá TLTBAT trong suốt quá trình điều 
trị là cần thiết. Do đó, chúng tôi đã sử dụng RQ‐
PCR  để  theo  dõi  2  BN  có  gửi  mẫu  những  lần 
tiếp theo. Kết quả đánh giá TLTBAT ở BN Châu 
Ngọc K. L. (ALL‐10) với tình trạng là bệnh chẩn 

đoán mới và có gửi mẫu theo dõi 2 lần sau đó. 
Từ lúc chẩn đoán đến lúc hoàn tất giai đoạn tấn 
công  và  tiếp  theo  đó  là  giai  đoạn  tăng  cường, 
TLTBAT đã thuyên giảm đáng kể từ mức cao là 
75,82% xuống mức 0,29% và cuối cùng là 0,00%.  
Đối với BN Phan Chí U (ALL‐13), trong tình 
trạng là tái phát tủy lần 2 lúc khảo sát, kết quả 
RQ‐PCR  trong  biểu  đồ  biểu  diễn  mức  độ 
TLTBAT từ thuyên giảm đến sự gia tăng trở lại 
qua các giai đoạn điều trị. Sau 5 tháng điều trị, 
TLTBAT giảm từ 31,18% xuống mức rất thấp là 
0,16% và tiếp tục giảm chỉ còn 0,10% ở lần thứ 3, 
tương đồng với các kết quả khác như tình trạng 
hồi  phục  tốt  về  huyết  đồ,  lui  bệnh  trên  tủy  đồ 
cũng  như  dấu  ấn  miễn  dịch  sau  điều  trị  tấn 
công.  Tuy  nhiên,  TLTBAT  vẫn  còn  được  phát 
hiện ở mức thấp có thể dự đoán về nguy cơ tái 
phát  sau  này  cho  bệnh  nhân  (4,8,11).  Điều  này  đã 
được thể hiện rõ ràng hơn khi BN tiếp tục được 
theo dõi lần 4 và 5, TLTBAT bắt đầu tăng lên trở 

Chuyên Đề Truyền Máu – Huyết Học  


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Số 5 * 2013 
lại, từ 0,10% lên 2,42%. Kêt quả của nghiên cứu 
cho  thấy  việc  đánh  giá  TLTBAT  là  quan  trọng, 
dự đoán nguy cơ tái phát của BN. 

Nghiên cứu Y học


6.

KẾT LUẬN 
Kết  quả  bước  đầu  ứng  dụng  kỹ  thuật  RQ‐
PCR  để  đánh  giá  TLTBAT  trên  các  BN  BCCDL 
dương tính TEL‐AML1 cho thấy sự thay đổi mức 
độ biểu hiện trong suốt quá trình điều trị. Điều 
này  có  ý  nghĩa  trong  đánh  giá  lui  bệnh  và  dự 
đoán  nguy  cơ  tái  phát  cho  BN  có  mang  tổ  hợp 
gen TEL‐AML1. 

TÀI LIỆU THAM KHẢO  
1.

2.

3.

4.

5.

Borowitz  MJ, Devidas  M, Hunger  SP  (2008).  Clinical 
significance  of  minimal  residual  disease  in  childhood  acute 
lymphoblastic  leukemia  and  its  relationship  to  other 
prognostic  factors:  a  Childrenʹs  Oncology  Group  study. 
Blood;111(12):5477‐85. 
Campana  D  (2010).  Minimal  residual  disease in acute 
lymphoblastic leukemia. Hematology Am Soc Hematol Educ 

Program.;7‐12. 
de  Haas  V, Breunis  WB, Dee  R, et  al  (2002).  The  TEL‐AML1 
real‐time quantitative polymerase chain reaction (PCR) might 
replace  the  antigen  receptor‐based  genomic  PCR  in  clinical 
minimal  residual  disease  studies  in  children  with  acute 
lymphoblastic leukaemia. Br J Haematol.;116(1):87‐93. 
de  Haas  V, Oosten  L, Dee  R,  et  al  (2000).  Minimal  residual 
disease studies are beneficial in the follow‐up of TEL/AML1 
patients with B‐precursor acute lymphoblastic leukaemia. Br J 
Haematol. ;111(4):1080‐6. 
Drunat  S, Olivi  M, Brunie  G,  et  al  (2001).  Quantification  of 
TEL‐AML1  transcript  for  minimal  residual  disease 

7.

8.

9.

10.

11.

12.

assessment in childhood acute lymphoblastic leukaemia. Br J 
Haematol;114(2):281‐289. 
Gabert  J,  Beilaird,  et  al  (2003).  Standardization  and  quality 
control  studies  of  “real‐time”  quantitative  reverse 
transcriptase  polymerase  chain  reaction  of  fusion  giene 

transcripts  for  residual  disease  detection  in  leukemia  –  A 
Europe Against Cancer Program. Leukemia;17:2318–2357. 
Gaipa  G, Cazzaniga  G, Valsecchi  MG  (2012).  Time  point‐
dependent  concordance  of  flow  cytometry  and  real‐time 
quantitative  polymerase  chain  reaction  forminimal  residual 
disease detection in childhood acute lymphoblastic leukemia. 
Haematologica;97(10):1582‐93.  
Madzo J, Zuna J, Muzikova K, et al (2003). Slower Molecular 
Response  to  Treatment  Predicts  Poor  Outcome  in  Patients 
with  TEL/AML1  Positive  Acute  Lymphoblastic  Leukemia. 
Cancer;97:105–113. 
Schrappe  M  (2012).  Minimal  residual  disease:  optimal 
methods,  timing,  and  clinical  relevance  for  an  individual 
patient. Hematology Am Soc Hematol Educ Program ;137‐42.  
Seeger  K, Kreuzer  KA, Lass  U, Taube  T,  et  al  (2001). 
Molecular  quantification  of  response  to  therapy  and 
remission  status  in  TEL‐AML1‐positive  childhood  ALL  by 
real‐time  reverse  transcription  polymerase  chain  reaction. 
Cancer Res. ;61(6):2517‐22. 
Seeger K, Viehmann S, Buchwald D, et al. Treatment response 
and residual‐disease monitoring in initial and relapsed TEL‐
AML1 positive childhood ALL. Leukemia. 2001;15(2):280‐2. 
Thanh TTT, Vân PNT, Xinh PT (2012). Triển khai quy trình kỹ 
thuật  PCR  định  lượng  trên  tổ  hợp  gen  Minor  BCR/ABL  và 
TEL/AML1 tại bệnh viện Truyền Máu Huyết Học TP Hồ Chí 
Minh. Tạp chí Y học Việt Nam.;396:120‐125. 

 
Ngày nhận bài báo: Ngày 15 tháng 8 năm 2013 
Ngày phản biện: ngày 29 tháng 8 năm 2013 

Ngày bài báo được đăng:  
 

22 tháng 10 năm 2013 

 

Chuyên Đề Truyền Máu – Huyết Học 

189



×