Tải bản đầy đủ (.pdf) (7 trang)

Tỷ lệ bệnh nguyên bào nuôi tồn tại sau hút nạo thai trứng không hóa dự phòng tại Bệnh viện Hùng Vương (2011‐2013)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (365.86 KB, 7 trang )

Nghiên cứu Y học 

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014

TỶ LỆ BỆNH NGUYÊN BÀO NUÔI TỒN TẠI  
SAU HÚT NẠO THAI TRỨNG KHÔNG HÓA DỰ PHÒNG  
TẠI BỆNH VIỆN HÙNG VƯƠNG (2011‐2013) 
Nguyễn Thị Tố Thư*, Nguyễn Duy Tài* 

TÓM TẮT 
Mục tiêu: Xác định tỷ lệ bệnh nguyên bào nuôi tồn tại (BNBNTT) và các yếu tố nguy cơ ở phụ nữ sau hút 
nạo thai trứng không hóa dự phòng tại bệnh viện Hùng Vương từ 01/2011‐ 04/2013.  
Phương pháp nghiên cứu: Báo cáo hồi cứu hàng loạt ca trong thời gian từ 01/2011‐ 04/2013. 
Kết quả: khảo sát trên 95 trường hợp điều trị tại khoa Ung bướu phụ khoa tại bệnh viện Hùng Vương từ 
01/2011‐ 04/2013 cho thấy tỉ lệ BNBNTT là 31/95 trường hợp, chiếm 32,6%. Yếu tố nang hoàng tuyến làm tăng 
nguy cơ BNBNTT OR= 7,44 (KTC 95% 1,2‐78,21), p= 0,014; khi kết hợp cùng tiền căn hư ‐ bỏ thai OR= 9,85 
(KTC 95% 1,61‐ 60,14), p = 0,013. 
Kết luận: thận trọng trong chỉ định hóa dự phòng cho bệnh nhân thai trứng nguy cơ cao. Trường hợp thai 
trứng có nang hoàng tuyến sau khi hút nạo lòng tử cung nên theo dõi chặt chẽ vì nguy cơ cao diễn tiến thành 
bệnh nguyên bào nuôi tồn tại. 
Từ khóa: Bệnh nguyên bào nuôi tồn tại, thai trứng 

ABSTRACT 
THE PREVALENCE OF PERSISTENT TROPHOBLASTIC DISEASE POSTEVACUATION  
HYDATIDIFORMMOLE WITHOUT CHEMOPROPHYLAXIS 
 AT HUNG VUONG HOSPITAL (2011‐2013) 
Nguyen Thi To Thu, Nguyen Duy Tai  
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 18 ‐ Supplement of No 1 ‐ 2014: 114‐120 
Objectives:  To  determine  the  prevalence  of  persistent  trophoblastic  disease  and  risk  factors  in 
postevacuation  hydatidiform  mole  women  without  chemoprophylaxis  at  Hung  Vuong  hospital  in  01/2011‐ 
4/2013. 


Materials and methods: Retrospective case reports study in 01/2011‐ 04/2013. 
Results: Evaluation 95 cases treated at Tumor Gynecology Department, Hung Vuong Hospital in 01/2011‐ 
04/2013  shows  that  the  prevalence  of  persistent  trophoblastic  disease  is  31/95  cases,  about  32.6  %.  The  theca 
lutein cysts increases the risk persistent trophoblastic disease OR= 7.44 (CI 95%, 1.2‐78.21), p= 0.014, associates 
with gravidity factor OR= 9.85 (KTC 95% 1.61‐ 60.14), p=0.013.  
Conclusion:  Indicate  chemoprophylaxis  carefully  in  the  high  risk  hydatidiform  mole  cases.  Hydatidiform 
mole with theca lutein cyst cases should be monitored closely after evacuation because of high risk development to 
persistent trophoblastic disease. 
Keywords: Persistent Trophoblastic Disease, Hydatidiform mole 
tăng sinh quá mức nên tổ chức liên kết và mạch 
ĐẶT VẤN ĐỀ 
máu  trong  gai  nhau  không  phát  triển  kịp,  trở 
Thai  trứng  là  bệnh  lý  do  sự  phát  triển  bất 
thành các bọc nước có đường kính từ 1mm đến 
thường của các gai nhau. Các nguyên bào nuôi 
* Bộ môn phụ sản Đại học Y dược TPHCM  
Tác giả liên lạc: GS.TS. Nguyễn Duy Tài 

114

 ĐT: 0903856439 

Email:  

Chuyên Đề Sức Khỏe Sinh Sản và Bà Mẹ Trẻ em 


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014 

Nghiên cứu Y học


vài chục milimet. Thai trứng là một tổn thương 
tăng  sản  nhưng  cũng  có  thể  diễn  tiến  thành 
dạng ác tính. 

trong  quá  trình  theo  dõi.  Bệnh  nhân  có  chẩn 
đoán hay nghi ngờ bệnh tâm thần 

Tại  Việt  Nam  tỷ  lệ  mắc  thai  trứng  là  1/658 
thai  kỳ(8).Trong  thực  hành  lâm  sàng  trước  đây, 
thai trứng được chẩn đoán nguy cơ cao sẽ được 
hóa  trị  dự  phòng.  Theo  Bagshawe  (1973)  và 
Kashimura (1986) cho thấy hóa dự phòng không 
làm  thay  đổi  diễn  tiến  bệnh,  mặt  khác  còn  gây 
độc  và  kháng  thuốc(1,5)  nên  Hiệp  hội  sản  phụ 
khoa  Hoa  Kỳ  (2004)  và  Hiệp  hội  sản  phụ  khoa 
Hoàng  gia  Anh  (2004  ‐  2010)  khuyến  cáo  theo 
dõi nồng độ βhCG huyết thanh mỗi tuần ở bệnh 
nhân thai trứng sau hút nạo mà không cần hóa 
dự phòng(3,14). 

Chúng  tôi  lập  danh  sách  đối  tượng  nhập 
viện tại khoa ung bướu phụ khoa chẩn đoán thai 
trứng trong khoảng thời gian từ 01/01 /2011 đến 
30/04/2012.  Đối  tượng  được  chẩn  đoán  thai 
trứng  dựa  vào  kết  quả  giải  phẫu  bệnh  của  mô 
hút  nạo  lòng  tử  cung  được  theo  dõi  điều  trị 
ngoại  trú  và  tái  nhập  viện  mỗi  tuần  theo  dõi 
nồng độ βhCG cho đến khi âm tính. Sau đó, đối 
tượng  được  xuất  viện  chuyển  tái  khám  phòng 

khám  và  theo  dõi  nồng  độ  mỗi  tháng  trong  6 
tháng đầu, mỗi 3 tháng trong 6 tháng tiếp theo. 
Chúng tôi tìm tất cả hồ sơ bệnh án trong nhưng 
lần  nhập  viện  của  đối  tượng  để  ghi  nhận  các 
biến số. Hồ  sơ  bệnh  án  được  lưu  trữ  tại  phòng 
hồ sơ của bệnh viện Hùng Vương. Theo dõi sau 
khi  đối  tượng  xuất  viện  được  lưu  trữ  bằng  sổ 
theo dõi tái khám của bệnh nhân thai trứng  tại 
khoa Ung bướu phụ khoa. Từ đó chúng tôi loại 
những  đối  tượng  tái  khám  không  đủ  và  mang 
thai trong quá trình theo dõi.  Các  đối  tượng  có 
βhCG  tăng  hoặc  bình  nguyên  trong  quá  trình 
theo  dõi,  được  nhập  viện  làm  các  xét  nghiệm 
tổng soát di căn. 

Hiện nay tại thành phố Hồ Chí Minh, Việt 
Nam  chưa  có  nghiên  cứu  xác  định  tỷ  lệ  bệnh 
cần  điều  trị  hóa  chất  ở  những  bệnh  nhân  thai 
trứng  không  hóa  dự  phòng.  Bệnh  viện  Hùng 
Vương  là  một  trong  hai  bệnh  viện  chuyên 
khoa phụ sản tại thành phố Hồ Chí Minh, tiếp 
nhận  bệnh  nhân  đến  khám  và  điều  trị  thai 
trứng.  Bệnh  viện  Hùng  Vương  hiện  đã  có 
chương  trình  quản  lý  và  theo  dõi  thai  trứng 
sau  hút  nạo  không  điều  trị  dự  phòng  từ  giữa 
năm 2010. Như vậy, câu hỏi nghiên cứu được 
đặt ra: “Tỷ lệ BNBNTT sau hút nạo thai trứng 
không  hóa  dự  phòng  tại  bệnh  viện  Hùng 
Vương từ 01/2011 ‐ 04/ 2013 là bao nhiêu?” 


ĐỐI TƯỢNG ‐ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
Thiết kế nghiên cứu 
Báo  cáo  hồi  cứu  hàng  loạt  ca  trong  thời 
gian  từ  01/2011‐  4/2013,  theo  quy  định  chọn 
mẫu toàn bộ. 

Tiêu chuẩn nhận vào 
Những  bệnh  nhân  điều  trị  tại  khoa  ung 
bướu  phụ  khoa  bệnh  viện  Hùng  Vương  có  kết 
quả  giải  phẫu  bệnh  tại  viện  là  thai  trứng,  theo 
dõi và tái khám đầy đủ 01 năm theo phác đồ. 

Tiêu chuẩn loại trừ 
Bệnh  nhân  thai  trứng  đã  hút  nạo  lòng  tử 
cung  trước  khi  nhập  viện.  Mang  thai  trở  lại 

Sản Phụ Khoa

Phương pháp tiến hành 

Xét nghiệm định lượng nồng độ βhCG trong 
máu tại bệnh viện Hùng Vương được tiến hành 
bằng  máy  Cobas  e  602  và  thuốc  thử  Elecsys 
HCG+β REF 03271749 190 của hãng Roche. 
Các số liệu được nhập và xử lý theo chương 
trình SPSS 16.0, phần mềm R và Epical package. 
Các phép kiểm được thực hiện ở độ tin cậy 95% 
Nghiên  cứu  quan  sát,  không  can  thiệp  lên 
bệnh  nhân.  Thông  tin  riêng  của  đối  tượng 
được  bảo  mật,  mã  hóa  bằng  con  số  và  chỉ  sử 

dụng  cho  mục  đích  nghiên  cứu.  Nghiên  cứu 
đã được hội đồng y đức Đại học Y dược Tp Hồ 
Chí Minh thông qua. 

KẾT QUẢ 
Trong  thời  gian  từ  tháng  01/2011  đến 
04/2013  chúng  tôi  thu  thập  được  95  trường 
hợp thỏa tiêu chuẩn chọn mẫu. 

115


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014

Nghiên cứu Y học 

Bảng 1: Đặc điểm dịch tễ học của đối tượng tham gia 
nghiên cứu 
Đặc điểm
≤20 tuổi
Nhóm tuổi
21- 39 tuổi
27,8±7,19
≥ 40 tuổi
Tp HCM
Địa chỉ
Tỉnh
Công nhân
Văn phòng
Buôn bán

Nghề nghiệp
Làm ruộng
Nội trợ
Khác

Tổng (n=95) Tỷ lệ (%)
12
12,6
77
81,1
6
6,3
50
52,6
45
47,4
35
36,8
10
10.6
11
11,6
6
6,3
27
28,4
6
6,3

Tuổi thai theo kinh chót(KC) trong 95 trường 

hợp nghiên cứu của chúng tôi có 7  trường  hợp 
không ghi nhận được thông tin này. Còn lại 88 
trường hợp, chúng tôi nhận thấy: tuổi thai theo 
kinh chót nhỏ nhất là 5 tuần vô kinh và lớn nhất 
là  16  tuần  vô  kinh,  trung  bình  là  8,75  tuần,  với 
độ lệch chuẩn là 2,46 tuần. 
Chúng tôi ghi nhận có 25 trường hợp, chiếm 
26,3%  bệnh  nhân  đến  khám  vì  trễ  kinh  và  thử 
thai  dương  tính  đơn  thuần,  không  kèm  theo 
triệu chứng nào khác. 
Triệu chứng ra huyết âm đạo chiếm 48,4% số 
bệnh  nhân.  Triệu  chứng  đau  bụng  chỉ  chiếm 
24,2%.  Triệu  chứng  nghén  nặng  chiếm  15,8%. 

Triệu chứng cường giáp có 3 trường hợp, chiếm 
3,2  %.  Chúng  tôi  nhận  thấy  không  có  trường 
hợp  nào  tiền  sản  giật,  suy  hô  hấp  trong  mẫu 
nghiên cứu này. 
Bảng 2: Đặc điểm cận lâm sàng 
Đặc điểm
<105 UI/L
βhCG trước hút
105- 106 UI/L
nạo
>106 UI/L
Không
Nang hoàng
tuyến

TTTP

Giải phẫu bệnh
TTBP

Tổng (n=95) Tỷ lệ (%)
29
30,5
62
65,3
4
4,2
87
91,6
8
8,4
56
58,9
39
41,1

Có  6  trường  hợp  cắt  tử  cung  vì  bệnh  nhân 
đủ con và tuổi > 40, chiếm 6,3%. Trong đó có 3 
trường hợp phát triển thành BNBNTT. 
Trong  95  trường  hợp  theo  dõi  diễn  tiến 
βhCG  mỗi  tuần  chúng  tôi  nhận  thấy  có  64 
trường  hợp  βhCG  giảm  về  âm  tính  tự  nhiên, 
31  trường  hợp  BNBNTT,  chiếm  32,6%.  Tuần 
βhCG thay đổi không theo quy luật ngắn nhất 
là 2 tuần, dài nhất là 8 tuần, trung bình 4,29 ± 
1,72 (tuần). 
Trong  64  trường  hợp  có  βhCG  giảm  về  âm 

tính tự nhiên, chúng tôi nhận thấy số tuần ngắn 
nhất là 3, dài nhất là 11 tuần, trung bình là 6,28 ± 
1,62 (tuần). 

Bảng 3: Phân tích đơn biến các yếu tố nguy cơ 
Yếu tố
Tuổi mẹ

Số lần sinh

Số lần hư, bỏ thai
Nồng độ hCG
(UI/L)
Nang hoàng
tuyến
Giải phẫu bệnh

≤20
21-39
≥40
Chưa sinh
1-2 lần
>2lần
Không có
1-2 lần
>2lần
<100.000
≥100.000
Không


TTBP
TTTP

Bệnh
5(41,7%)
22(28,6%)
4(66,7%)
17(29.8%)
10(37%)
4(36,4%)
18(31,6%)
11(37,9%)
2(22,2%)
7(24,1%)
24(36,4%)
25(28,7%)
6(75%)
13 33,3%)
18(32,1%)

Không bệnh
7(58,3%)
55(71,4%)
2(33,3%)
40(70,2%)
17(63%)
7(63,6%)
39(68,4%)
18(62,1%)
7(77,8%)

22(75,9%)
42(63,6%)
62(71,3%)
2(25%)
26 (66,7%)
38(67,9%)

OR
1,79
Ref
5,01
Ref
1,38
1,34
Ref
1,32
0,62
Ref
1,79
Ref
7,44
Ref
0,95

KTC 95%
0,51-6,23
0,8-29,29

P
0,363

0,074

0,53-3,63
0,35-5,20

0,509
0,668

0,52-3,37
0,12-3,28

0,556
0,573

0,62-5,70

0,242

1,2-78,21

0,014

0,37-2,5

0,903

 (*): Logistic Regression 

116


Chuyên Đề Sức Khỏe Sinh Sản và Bà Mẹ Trẻ em 


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014 

Nghiên cứu Y học

Bảng 4: Phân tích đa biến các yếu tố nguy cơ 
Yếu tố
Tuổi mẹ

Tiền căn sinh

Tiền căn hưbỏ thai
Nồng độ
βhCG(UI/L)
Nang hoàng
tuyến
Giải phẫu
bệnh

≤20
21-39
≥40
Chưa có
1-2 lần
>2 lần
Chưa có
1-2 lần
>2 lần

<100.000
≥100.000
Không

TTBP
TTTP

Bệnh
5(41,7%)
22(28,6%)
4(66,7%)
17(29.8%)
10(37%)
4(36,4%)
18(31,6%)
11(37,9%)
2(22,2%)
7(24,1%)
24(36,4%)
25(28,7%)
6(75%)
13(33,3%)
18(32,1%)

Không bệnh
7(58,3%)
55(71,4%)
2(33,3%)
40(70,2%)
17(63%)

7(63,6%)
39(68,4%)
18(62,1%)
7(77,8%)
22(75,9%)
42(63,6%)
62(71,3%)
2(25%)
26(66,7%)
38(67,9%)

OR
1,79
Ref
5,01
Ref
1,38
1,34
Ref
1,32
0,62
Ref
1,79
Ref
7,44
Ref
0,95

OR hiệu chỉnh
2,1

Ref
5,12

KTC 95%
0,52-8,53

p*
0,3

0,4-66,18

0,211

1,44
1,08

0,49-4,24
0,13-9,22

0,504
0,945

1,02
0,43

0,35-2,96
0,05-4,05

0,974
0,463


2,16

0,7-6,65

0,18

10,92

1,6-73,8

0,014

0,73

0,27-1,95

0,528

(*): Logistic Regression 
Nguy cơ BNBNTT ở nhóm có nang hoàng 
tuyến tăng hơn 7 lần so với nhóm không hiện 
diện nang hoàng tuyến, p= 0,014. 

26%, 23% cũng không có ý nghĩa thống kê. Các 
yếu tố còn lại OR thay đổi không đáng kể, sự 
khác biệt cũng không có ý nghĩa thống kê. 

Sau khi đưa 6 yếu tố trên vào phương trình 
hồi  quy  đa  biến  nhằm  kiểm  soát  yếu  tố  gây 

nhiễu, kết quả yếu tố nang hoàng tuyến có OR 
tăng  46,7  %  với  p=  0,014.Các  yếu  tố  tuổi  mẹ 
≤20  tuổi,  nồng  độ  hCG  có  OR  tăng  lần  lượt 
17%,  20%  nhưng  không  có  ý  nghĩa  thống  kê. 
Các yếu tố có OR giảm: tiền căn hư‐ bỏ thai >2 
lần, 1‐2 lần, giải phẫu bệnh lần lượt 23%, 30%, 

Vì  yếu  tố  nang  hoàng  tuyến  có  OR  tăng 
đáng  kể,  có  ý  nghĩa  thống  kê  nên  chúng  tôi 
tiến  hành  phân  tích  cặp  để  tìm  yếu  tố  gây 
nhiễu  của  1  trong  các  yếu  tố  còn  lại  với  nang 
hoàng  tuyến.  Chúng  tôi  nhận  thấy  chỉ  có  yếu 
tố  tiền  căn  hư,  bỏ  thai  gây  nhiễu  cho  yếu  tố 
nang hoàng tuyến.  

Bảng 5: Nang hoàng tuyến, tiền căn hư bỏ thai và nguy cơ BNBNTT. 
Yếu tố
Nang hoàng tuyến
Tiền căn hư- bỏ thai

Có/không
Chưa có
1-2 lần
>2 lần

OR thô
7,44(1,2-78,21)
Ref
1,32(0,52-3,37)
0,62(0,12-3,28)


p
0,014

OR hiệu chỉnh
9,85(1,61-60,14)

p*
0,013

0,556
0,573

1,36(1,51-3,58)
0,35(0,05-2,51)

0,537
0,229

(*)Wald’s test 
Tiền  căn  hư‐  bỏ  thai  gây  nhiễu  cho  nang 
hoàng tuyến, nguy cơ BNBNTT tăng hơn 32% so 
với nang hoàng tuyến đơn thuần, p= 0,013. 

BÀN LUẬN 
Tỷ  lệ  bệnh  nguyên  bào  nuôi  tồn  tại  của 
nghiên cứu 
Tỷ  lệ  bệnh  NBNTT  trong  nghiên  cứu  của 
chúng tôi là 32,6%. Nghiên cứu chúng tôi có tỷ lệ 
khá  cao  so  với  các  nghiên  cứu  áp  dụng  tiêu 


Sản Phụ Khoa

chuẩn FIGO từ 18‐29%, tiêu chuẩn của bệnh viện 
Charing Cross là 7,9% ‐10%(4). Sự khác biệt về tỷ 
lệ  bệnh  NBNTT  là  do  sự  khác  biệt  trong  tiêu 
chuẩn  chẩn  đoán.  Phác  đồ  tại  bệnh  viện  Hùng 
Vương  chẩn  đoán  bệnh  NBNTT  là  sự  tăng 
βhCG 2 lần định lượng cách 01 tuần, hoặc βhCG 
thay  đổi  ít  hơn  10%  trong  03  lần  định  lượng 
trong  02  tuần  liên  tiếp.  Như  vậy,  so  với  tiêu 
chuẩn  FIGO  và  bệnh  viện  Charing  Cross  chẩn 
đoán của chúng tôi sớm hơn 01 tuần. 

117


Nghiên cứu Y học 

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014

Trong  nhóm  31  bệnh  nhân  BNBNTT  của 
chúng tôi có 13 bệnh nhân có giải phẫu bệnh là 
thai trứng bán phần (TTBP), chiếm 33,3% là rất 
cao  so  với  nghiên  cứu  của  các  tác  giả  khác. 
Trong  tổng  kết  từ  10  nghiên  cứu  với  tổng  số 
bệnh  nhân  TTBP  là  7235  người,  tác  giả 
Berkowitz  nhận  thấy  tỷ  lệ  BNBNTT  là  01%(2). 
Nghiên  cứu  của  Wieslma(15)  với  344  bệnh  nhân 
TTBP,  414  bệnh  nhân  thai  trứng  toàn  phần 

(TTTP) tỷ lệ BNBNTT lần lượt là 1,7% và 13,3 %, 
phân loại TTTP hay bán phần ngoài chẩn đoán 
giải phẫu bệnh còn dùng xét  nghiệm  p57KIP2  và 
nhiễm sắc thể đồ để hỗ trợ trong những trường 
hợp cần thiết. Theo Mungan(10) trong số 310 bệnh 
nhân  thai  trứng  chỉ  có  11  bệnh  nhân  TTBP,  45 
bệnh  nhân  BNBNTT  đều  thuộc  nhóm  TTTP. 
Phân loại thai trứng trong nghiên cứu trên dựa 
vào  sự  kết  luận  của  hai  nhà  giải  phẫu  bệnh 
chuyên  biệt.  Trong  nghiên  cứu  của  chúng  tôi, 
mẫu  nghiên  cứu  nhỏ,  kết  quả  phân  loại  thai 
trứng  chỉ  đơn  thuần  dựa  vào  chẩn  đoán  giải 
phẫu  bệnh  bởi  1  trong  3  bác  sĩ  tại  phân  khoa 
Giải  Phẫu  Bệnh  của  bệnh  viện  Hùng  Vương. 
Điều đó có thể dẫn đến sự khác biệt lớn về tỷ lệ 
BNBNTT  của  nhóm  TTBP  của  chúng  tôi  so  với 
các nghiên cứu khác. 
Trong 64 trường hợp βhCG giảm về âm tính 
tự  nhiên,  chúng  tôi  nhận  thấy  98,4  %  có  βhCG 
giảm về âm tính trước 9 tuần sau hút nạo, chỉ có 
01 trường hợp βhCG âm tính lúc 11 tuần. Chúng 
tôi  theo  dõi  01  năm,  không  có  trường  hợp  nào 
βhCG tăng trở lại sau 06 tháng theo dõi. 

Yếu tố nguy cơ bệnh nguyên bào nuôi tồn tại 
Yếu tố tuổi mẹ 
Nghiên  cứu  của  chúng  tôi  chia  tuổi  mẹ 
thành ba nhóm: ≤ 20 tuổi, 21‐ 39 tuổi, ≥ 40 tuổi. 
Phân chia nhóm tuổi này phù hợp vì thai trứng 
thường  gặp  ở  giai  đoạn  đầu  và  cuối  của  tuổi 

sinh  sản.  Theo  Nguyễn  Quốc  Tuấn(11)  cho  thấy, 
tỷ  lệ  thành  u  nguyên  bào  nuôi  tồn  tại  ở  nhóm 
thai trứng có độ tuổi 25‐29 là 32%, tỷ lệ này tăng 
lên 72,5% ở nhóm ≥ 40 tuổi.  Những  bệnh  nhân 
TTTP  ≥  40  tuổi  có  nguy  cơ  u  nguyên  bào  nuôi 
cao  gấp  02  lần  (RR=  1,89)  so  với  những  bệnh 

118

nhân  <  40  tuổi.  Theo  Kuyumcouglu(7)  tuổi  mẹ 
làm tăng nguy cơ BNBNTT 4,6 lần. Nghiên cứu 
chúng  tôi  tương  tự  như  của  tác  giả  Mugan(10), 
Moodley(9)  tuổi  mẹ  không  làm  tăng  nguy  cơ 
BNBNTT. Nghiên cứu của chúng tôi có tỷ lệ 21‐
39 tuổi chiếm 81,1%, nên dù tỷ lệ thai trứng  có 
thấp hơn ở nhóm tuổi này nhưng số bệnh nhân 
diễn tiến thành BNBNTT vẫn chiếm đa số 22/31 
bệnh nhân. Nên nguy cơ bệnh nguyên bào nuôi 
nhóm ≤ 20 tuổi, ≥ 40 tuổi so với nhóm 21‐39 tuổi 
trong  nghiên  cứu  của  chúng  tôi  không  có  ý 
nghĩa  thống  kê.  Hy  vọng  trong  thời  gian  tới, 
chúng tôi thực hiện nghiên cứu với cỡ mẫu lớn 
hơn để có thể khảo sát mối liên hệ tuổi và nguy 
cơ BNBNTT thuyết phục hơn. 

Yếu tố tiền thai 
Nghiên cứu của chúng tôi nhận thấy tiền căn 
sinh  nhiều  lần  không  làm  tăng  nguy  cơ 
BNBNTT.  Điều  này  cũng  tương  tự  như  nghiên 
cứu  Mungan(10),  nhưng  khác  biệt  với 

Kuyumcouglu(7).  Sự  khác  biệt  này  có  thể  là  do 
trong  nghiên  cứu  của  chúng  tôi  và  nghiên  cứu 
của  tác  giả  Mungan  số  bệnh  nhân  chưa  từng 
mang thai lần nào chiếm đa số. 
Trong nghiên cứu của chúng tôi tiền căn hư 
bỏ  thai  nhiều  lần  không  làm  tăng  nguy  cơ 
BNBNTT,  tương  tự  như  của  tác  giả  Tchan  Kyu 
Park(12).  Ngược  lại  Kuyumcouglu,  mang  thai 
nhiều lần làm tăng nguy cơ của BNBNTT lên 7,3 
lần(7).  Có  thể  trong  nghiên  cứu  của  chúng  tôi, 
việc phân chia ra thành hai nhóm hư thai và bỏ 
thai  không  riêng  biệt.  Chúng  tôi  chỉ  ghi  nhân 
biến  số  thứ  3  trong  tiền  căn  sản  khoa  Para  của 
bệnh  nhân.  Do  đó  kết  quả  khi  phân  tích  chưa 
được thuyết phục. 

Yếu tố nồng độ βhCG 
Nghiên  cứu  của  chúng  tôi  nhận  thấy  nguy 
cơ  BNBNTT  của  nhóm  βhCG  ≥  100.000  UI/L 
tăng  không  có  ý  nghĩa  thống  kê  so  với  nhóm 
βhCG< 100.000 UI/L. Tương tự như nghiên cứu 
của  Mungan(10),  Moodley(9),  nhưng  theo  Tchan 
Kyu  Park  thực  hiện  140  bệnh  nhân  thai  trứng 
nhận thấy nồng độ βhCG ≥ 100.000 UI/L có tỷ lệ 
BNBNTT 60%. Nồng độ βhCG cao trước hút nạo 

Chuyên Đề Sức Khỏe Sinh Sản và Bà Mẹ Trẻ em 


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014 

là  yếu  tố  nguy  cơ  cao  đối  với  BNBNTT(12). 
Nghiên  cứu  của  chúng  tôi  có  69,5%  bệnh  nhân 
có nồng độ βhCG trước hút nạo ≥ 100.000 UI/L 
nhưng  tỷ  lệ  BNBNTT  trong  nhóm  này  chiếm 
36,4%. Như vậy, nếu chỉ định hóa dự phòng vì 
thai  trứng  nguy  cơ  cao  thì  tỷ  lệ  cần  điều  trị  là 
gần 70% trong nhóm chúng tôi. Nên chăng việc 
chỉ  định  hóa  dự  phòng  nên  xem  xét  lại?  Có  lẽ, 
chúng tôi cần nghiên cứu với cỡ mẫu lớn để trả 
lời câu hỏi này một cách thuyết phục hơn. 

Yếu tố nang hoàng tuyến 
Nghiên cứu của chúng tôi nhận thấy yếu tố 
nang  hoàng  tuyến  làm  tăng  nguy  cơ  BNBNTT 
với  OR=  7,44  (KTC  95%  1,2‐  78,21),  p=  0,014  so 
với  nhóm  không  hiện  diện  nang  hoàng  tuyến. 
Tương  tự  nghiên  cứu  của  tác  giả  Tchan  Kyu 
Park 63% bệnh nhân có nang hoàng tuyến diễn 
tiến thành BNBNTT. Tỷ lệ này tăng lên 80% nếu 
nang  hoàng  tuyến  xuất  hiện  cùng  với  tử  cung 
lớn  hơn  tuổi  thai(12).  Tương  tự  Dan  Kaye  nhận 
thấy  nang  hoàng  tuyến  là  yếu  tố  nguy  cơ  của 
BNBNTT(6).  Do  đó,  bệnh  nhân  có  nang  hoàng 
tuyến sau  hút  nạo  thai  trứng  nên  theo  dõi  chặt 
chẽ vì nguy cơ diễn tiến thành BNBNTT. 
Yếu tố giải phẫu bệnh 
Nghiên cứu của chúng tôi TTTP không làm 
tăng nguy cơ BNBNTT so với nhóm TTBP. Tỷ lệ 
nhóm TTTP trong nghiên cứu của chúng tôi cao 
hơn  không  đáng  kể  so  với  nhóm  TTBP  58,9%, 

41,1%.  Điều  này  không  phù  hợp  với  đa  số  các 
tác giả trong nước. Như nghiên cứu của tác giả 
Phạm Thanh Hoàng(13) tỷ lệ TTTP là 81%, của tác 
giả  Nguyễn  Quốc  Tuấn(11)  TTTP  chiếm  77,8%. 
Nhưng  theo  Wieslma  báo  cáo  414  bệnh  nhân 
TTTP  và  345  bệnh  nhân  TTBP  cho  thấy  tỷ  lệ 
TTTP cũng không chiếm đa số, tỷ lệ BNBNTT ở 
nhóm  TTTP  là  13,3  %,  nhóm  TTBP  1,7%(15). 
Trong  nghiên  cứu  chúng  tôi,  tỷ  lệ  BNBNTT 
trong  nhóm  TTTP  là  32,1%,  nhóm  TTBP  33,3%. 
Sự  khác  biệt  này  có  thể  giải  thích  vì  chúng  tôi 
nghiên  cứu  trên  95  bệnh  nhân,cỡ  mẫu  không 
lớn.  Bên  cạnh  đó  kết  quả  giải  phẫu  bệnh  trong 
nghiên cứu của chúng tôi được đọc ngẫu nhiên 
bởi  các  bác  sỹ  trong  phân  khoa  giải  phẫu  bệnh 

Sản Phụ Khoa

Nghiên cứu Y học

của bệnh viện Hùng Vương.  Trong  nghiên  cứu 
của  tác  giả  Wieslma  kết  quả  giải  phẫu  bệnh 
được  kiểm  định  lại  bằng  xét  nghiệm  p57kip2  và 
nhiễm  sắc  thể  đồ  trong  trường  hợp  nghi  ngờ 
chẩn đoán. Do vậy việc phân định  kết  quả  giải 
phẫu bệnh chính xác hơn trong nghiên cứu của 
chúng  tôi.  Nghiên  cứu  của  tác  giả  Mungan(10), 
Kuyumcouglu(7)  chưa  tìm  thấy  mối  liên  quan 
giữa  kết  quả  giải  phẫu  bệnh  và  nguy  cơ  của 
BNBNTT. Như vậy, để trả lời thuyết phục yếu tố 

giải phẫu bệnh có là nguy cơ của BNBNTT hay 
không  chúng  tôi  cần  thực  hiện  nghiên  cứu  với 
cỡ mẫu lớn hơn trong tương lai. 
Sau khi phân tích đa biến để kiểm soát yếu 
tố  gây  nhiễu,  chúng  tôi  nhân  thấy  nguy  cơ 
BNBNTT  ở  bệnh  nhân  có  nang  hoàng  tuyến 
tăng  từ  7,44  lên  10,92  với  p=  0,014.  Chúng  tôi 
tiến  hành  phân  tích  cặp  yếu  tố  nang  hoàng 
tuyến  và  một  trong  năm  yếu  tố  còn  lại.  So  với 
nang hoàng tuyến kết hợp với các yếu tố khác sự 
khác  biệt  OR  không  đáng  kể,  khi  nang  hoàng 
tuyến  kết  hợp  tiền  căn  hư  bỏ  thai  làm  nguy  cơ 
BNBNTT  tăng  từ  7,44  lên  9,85  (1,61‐  60,14),  p= 
0,013. Từ đó, chúng tôi nhận thấy tiền căn hư bỏ 
thai là yếu tố gây nhiễu cho yếu tố nang hoàng 
tuyến khi cùng hiện diện. Nghiên cứu của chúng 
tôi không tách biệt được nhóm tiền căn hư thai 
và  nhóm  tiền  căn  bỏ  thai  riêng  biệt  nên  chúng 
tôi không làm rõ được liên quan thực sự của hai 
nhóm này và nguy cơ bệnh. 
Ngoài  ra  chúng  tôi  không  đánh  giá  được 
biến số tử cung lớn hơn tuổi thai chiếm tỷ lệ bao 
nhiêu  trong  nhóm  bệnh  nhân  BNBNTT.  Nên 
việc  đánh  giá  yếu  tố  nguy  cơ  BNBNTT  trong 
nghiên cứu của chúng tôi không thực hiện được 
một  cách  đầy  đủ  trong  trong  nghiên  cứu  của 
nhiều tác giả khác. Yếu tố cường giáp là yếu tố 
nguy  cơ  BNBNTT  trong  nhiều  nghiên  cứu(6,12), 
nhưng trong nghiên cứu của chúng tôi có thể vì 
mẫu  nghiên  cứu  chưa  lớn,  tỷ  lệ  triệu  chứng 

cường giáp trong nghiên cứu quá ít 3/95, không 
có bệnh nhân cường giáp trong nhóm thai trứng 
lành tính,nên chúng tôi không thể tính nguy cơ 
BNBNTT của yếu tố cường giáp. 

119


Nghiên cứu Y học 

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014
10.

TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1.

2.

3.

4.

5.

6.

7.

8.


9.

120

Bagshawe  KD  (1973),  ʺFollow‐up  after  hydatidiform  mole: 
Studies  using  radioimmunoassay  for  urinary  human 
chorionic  gonadotrophinʺ.  J  Obstet  Gynecol  Br  common,  80, 
pp.461‐468. 
Berkowitz  RS,  Goldstien  DP  (2009).  Presentation  and 
management of molar pregnancy. In Hancock BW, Seckl M, 
Berkowitz  RS,  Cole  LA  (Eds.),  Gestational trophoblastic disease 
3rd edition. International society for the study of trophoblastic 
disease, London. 
Diagnosis and treatment of gestational trophoblastic diseaseʺ. 
Clinical  management  guidelines  for  obstetrician  gynecologist, 
ACOG practice bulletin No.53 (2004), 103(6), pp.1365‐1376. 
Franke  HR,  Risse  EKJ,  Kenemans  P  (1983),  ʺEpidermiologic 
feartures  of  hydatidiform  mole  in  the  Netherlandsʺ.  Obstet 
Gynecol, 62, pp.613‐616. 
Kashimura  M  (1986),  ʺProphylactic  chemotherapy  for 
hydatidiform mole: five to 15 years follow‐upʺ. Cancer, 58, pp. 
624‐629. 
Kaye DK (2002), ʺGestational trophoblastic disease following 
complete hydatidiform mole in Mulago Hospital, Kam pala, 
Ugandaʺ. African Health Sciences, 2(2), pp.47‐51. 
Kuyumcuoglu  U,  Guzel  Al,  Erdemoglu  M,  Celik  Y  (2011), 
ʺRisk  factors  for  persistent  gestational  trophoblastic 
neoplasia.ʺ J Exp Ther Oncol, 9(1), pp. 81‐84. 
Lê  Nguyên  Thông  (1996),  “Dịch  tễ  học  lâm  sàng  bệnh  chữa 
trứng tại TP HCM”. Đại học Y Dược TPHCM, Luận án phó 

tiến sĩ khoa học Y dược. 
Moodley  M,  Tunkyi  K,  Moodley  J  (2003),  ʺGestational 
trophoblastic  syndrome:  an  audit  of  112  patients.  A  South 
African experience.ʺ Int J Gynecol Cancer, 13(2), pp. 234‐239. 
 

11.

12.

13.

14.

15.

Mungan T, Cobanoglu O (1996), ʺHydatidiform mole: clinical 
analysis  of  310  patientsʺ.  Int J Gynecol Obstet, 52(3),  pp.  233‐
236. 
Nguyễn  Quốc  Tuấn  (2003),  ʺNghiên  cứu  về  một  số  đặc 
điểm thường gặp trên bệnh nhân chữa trứng và các yếu tố 
liên  quan  đến  biến  chứngʺ.  Trường đại học y Hà Nội: Luận 
án tiến sĩ y học. 
Park TK, Kim SN, Lee SK (1996), ʺAnalysis of risk factors for 
postmolar trophoblastic disease: categorization of risk factors 
and  effect  of  prophylactic  chemotherapy  ʺ.  Yonsei  medical 
journal, 37(6), pp. 412‐419. 
Phạm Thanh Hoàng (2009), ʺCác yếu tố nguy cơ thai trứng tại 
bệnh  viện  Từ  Dũ  từ  tháng  02/2009  đến  10/2009ʺ.  Đại  học  Y 
Dược TpHCM: Luận văn tốt nghiệp bác sĩ nội trú. 

The  management  of  gestational  trophoblastic  diseaseʺ.  Royal 
college of Obstetricians and Gynaecologist 2010,  RCOG green‐top 
guideline No.38 (2010) 
Wielsma  S,  Kerkmeijer  L,  Bekkers  R  (2006),  ʺGuidelines 
following  hydatidiform  mole:  a  reappraisal  ʺ.  Australian 
and New Zealand Journal of Obstetrics and Gynecology, 46(2), 
pp. 112‐118. 

 
Ngày nhận bài báo 

 

 

: 30/11/2013 

Ngày phản biện nhận xét bài báo 

: 02/12/2013 

Ngày bài báo được đăng 
05/01/2014  

 

 




Chuyên Đề Sức Khỏe Sinh Sản và Bà Mẹ Trẻ em 



×