Tải bản đầy đủ (.pdf) (5 trang)

Phẫu thuật nội soi điều trị u tuyến yên

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (314.79 KB, 5 trang )

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014 

Nghiên cứu Y học

 

PHẪU THUẬT NỘI SOI ĐIỀU TRỊ U TUYẾN YÊN 
Đồng Văn Hệ* 

TÓM TẮT 
Mục  tiêu:  Đánh giá kết quả phẫu thuật cắt bỏ khối u tuyến yên bằng đường mổ nội soi qua mũi xoang 
bướm. 
Phương  pháp: Nghiên cứu tiến cứu dựa trên 150 bệnh nhân u tuyến yên được phẫu thuật từ 1/2010 tới 
6/2014 tại Bệnh viện Việt Đức. Tất cả bệnh nhân được phẫu thuật bằng phương pháp nội soi qua mũi xoang 
bướm. Theo dõi sau mổ 3‐45 tháng. Tác giả đánh giá tiền sử điều trị bệnh (điều trị nội phẫu thuật, xạ trị), loại u 
tuyến yên, mức độ xâm lấn. Kết quả đánh giá dựa trên tỷ lệ sống, chết, di chứng và yếu tố ảnh hưởng tới mức độ 
cắt u. 
Kết  quả: Tử vong 2 bệnh nhân do chảy máu não thất, 5 bệnh nhân rò nước não tủy, 35 đái nhạt, 8 chảy 
máu não thất và 9 chảy máu mũi. Không có rò nước não tủy sau mổ và không nhiễm trùng sau mổ. Tỷ lệ cắt 
hoàn toàn khối u cao hơn ở nhóm u tăng tiết prolactine (p<0,01), u tăng tiết ACTH (p<0,05) và u tuyến yên nhỏ 
(p<0,05).  
Kết luận: Phẫu thuật nội soi an toàn và hiệu quả trong điều trị u tuyến yên. 
Từ khóa: u tuyến yên, nôi soi qua mũi xoang bướm, mổ qua xoang bướm. 

ABSTRACT 
TREATMENT OF PITUITARY ADENOMA BY ENDONASAL ENDOSCOPIC  
TRANSPHENOIDAL APPROACH 
Dong Van He * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 18 ‐ Supplement of No 6‐ 2014: 275 – 279 
Objective:  To  Evaluate  the  result  of  treatment  of  pituitary  adenoma  by  endoscopic  endonasal 
transsphenoidal approach (EETA). 
Method: This is prospective study in VietDuc teaching hospital. From 1/2010 to 6/2014, 150 consecutive 


patients  with  pituitary  adenoma  underwent  endoscopic  endonasal  transsphenoidal  resection  with  a  follow  up 
from  3  to  45  months.  All  patients  were  operated  by  author  with  EETA.  The  author  assesmed  the  history  of 
treatment (previous surgery, radiotherapy, medical treatment or no treatment), type of adenoma, involvement of 
tumor. The result was evaluated: mortality, morbility, and some prognosis factors. 
Results: There were 2 deaths because of postoperative intraventricular hemorrhage, 5 cases of fistula of CSF, 
35 cases of temporary diabetes insipidus, 8 cases of intraventricular hemorrhage, 9 cases of postoperative nasal 
bleeding.  There  were  no  carotid  lesion  and  infection.  The  complete  resection  was  done  in  104  cases,  subtotal 
resection  in  45  and  no  resection  in  1.  The  comlete  resection  was  higher  in  microadenoma  (p<0,01),  in 
prolactinoma (p<0,05) and in ACTH group (p<0,05). 
Conclusion: The endoscopic endonasal transsphenoidal surgery is safe and effective method in the treatment 
of pituitary adenoma. 
Key words: endoscopic transsnasal surgery, pituitary adenoma, transsphenoidal approach). 

ĐẶT VẤN ĐỀ 
Phẫu thuật cắt bỏ khối u tuyến yên đã được 
Victor  Horsley  thực  hiện  từ  1889  bằng  đường 
* Bệnh viện Việt Đức 
Tác giả liên lạc: PGS.TS. Đồng Văn Hệ;  

Bệnh Lý Sọ Não 

mổ ở nắp sọ. Đường mổ qua xoang bướm cắt bỏ 
khối u tuyến yên năm 1907 bởi Schoffler. Trong 
thời  gian  đầu  tiên,  phẫu  thuật  được  thực  hiện 

ĐT: 01205226868  

Email:  

275



Nghiên cứu Y học 

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014

 
không  kính  vi  phẫu.  Mãi  tới  năm  1960,  Yasagil 
đưa kính hiển vi vào trong phẫu thuật. Kỹ thuật 
vi  phẫu  cắt  bỏ  khối  u  tuyến  yên  được  coi  là 
phương pháp quan trọng nhất để cắt bỏ khối u 
tuyến  yên  trong  thời  gian  dài.  Năm  1993, 
Jankovski  thực  hiện  thành  công  phẫu  thuật  nội 
soi u tuyến yên lần đầu tiên. Đây được coi là cột 
mốc quan trọng trong phẫu thuật nội soi tuyến 
yên  nói  riêng  và  phẫu  thuật  nội  soi  sọ  não  nói 
chung. Ngày nay, phẫu thuật nội soi cắt bỏ khối 
u tuyến yên là phương pháp được sử dụng rộng 
rãi ở hầu hết các trung tâm phẫu thuật thần kinh 
lớn  tại  các  nước  phát  triển(2,3,5,8,9).  Tại  Việt  Nam, 
chúng  tôi  đã  thực  hiện  thành  công  phẫu  thuật 
nội  soi  u  tuyến  yên  năm  2008.  Trong  thời  gian 
hơn 4 năm, tôi đã phẫu thuật cho 150 bệnh nhân 
với kỹ thuật này. Mục đich của nghiên cứu này 
nhằm: đánh giá kết quả phẫu thuật nội soi qua 
mũi xoang bướm. 

PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
Nghiên cứu tiến cứu dựa trên 150 bệnh nhân 
u  tuyến  yên  được  phẫu  thuật  bằng  phẫu  thuật 

nội  soi  qua  mũi‐xoang  bướm.  Tiêu  chuẩn  chọn 
bệnh  nhân  nghiên  cứu:  Khám  lâm  sàng,  đánh 
giá  tình  trạng  trước  mổ,  thực  hiện  phẫu  thuật 
nội soi, đánh giá kết quả phẫu thuật khi ra viện 
và sau phẫu thuật > 3 tháng. Giải phẫu bệnh là 
khối  u  tuyến  yên.  Bệnh  nhân  được  khám  lâm 
sàng,  xét  nghiệm  nội  tiết  tuyết  yên,  chụp  cộng 
hưởng từ sọ não, và/hoặc chụp cắt lớp vi tính sọ 
não,  cắt  lớp  vi  tính  hố  yên‐mũi‐xoang  bướm. 
Phẫu thuật được thực hiện khi: u tuyến yên tăng 
tiết  GH,  u  tuyến  yên  tăng  tiết  ACTH,  u  tuyến 
yên không tăng tiết. Đối với u tuyến yên tăng tiết 
prolactine,  bệnh  nhân  được  chỉ  định  mổ  nếu 
điều trị nội khoa không kết quả hoặc u lớn, chèn 
ép  gây  tăng  áp  lực  trong  sọ,  chèn  ép  làm  giảm 
thị lực, chảy máu trong u, suy tuyến yên. Phẫu 
thuật  thực  hiện  qua  hai  mũi.  Dụng  cụ  nội  soi 
chuyên  dụng  dành  cho  phẫu  thuật  nền  sọ.  Kỹ 
thuật mổ nội soi cắt u tuyến yên qua mũi‐xoang 
bướm  theo  kỹ  thuật  với  5  bước:  xác  định  lỗ 
thông  xoang  bướm,  mở  thành  trước  và  vách 

276

xoang  bướm,  mở  sàn  hố  yên  và  mở  màng  não, 
cắt bỏ khối u, đóng vết mổ. Phẫu thuật sử dụng 
hệ  thống  định  vị  thần  kinh  (neuronavigation). 
Ống  nội  soi  sử  dụng  loại  o  độ,  30  độ  và  45  độ. 
Tai  biến  và  biến  chứng  trong  mổ,  sau  mổ  cần 
phải  theo  dõi  bao  gồm:  chảy  máu,  tổn  thương 

động  mạch  cảnh  trong,  tổn  thương  dây  thần 
kinh thị giác, chảy máu trong sọ, chảy máu dưới 
màng  mềm,  chảy  máu  não  thất,  tổn  thương 
mạch máu khác trong sọ (động mạch thần nền, 
nhánh  của  hệ  động  mạch  willis),  rò  nước  não 
tủy,  nhiễm  trùng,  suy  tuyến  yên,  tổn  thương 
dưới đồi. Mức độ cắt bỏ khối u: cắt bỏ hoàn toàn, 
cắt bỏ gần hoàn toàn, cắt bỏ một phần, sinh thiết. 
Kết quả trước khi ra viện: tỷ lệ tử vong, nguyên 
nhân  tử  vong,  chảy  máu,  mổ  lại,  rò  nước  não 
tủy,  suy  tuyến  yên,  biến  chứng  nhiễm  trùng, 
biến chứng khác. Kết quả khám lại sau 3 tháng: 
tỷ  lệ  sống,  tử  vong,  tái  phát,  mổ  lại,  suy  tuyến 
yên, hình ảnh khối u tuyến yên trên cộng hưởng 
từ, xét nghiệm nội tiết. 

KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU 
Trong thời gian hơn 4 năm (1/2010‐6/2014), 
150 bệnh nhân được tác giả phẫu thuật nội soi 
qua  mũi  xoang  bướm  tại  Bệnh  viện  Việt  Đức. 
Tuổi  trung  bình  35±9,5.  Thấp  nhất  17  tuổi  và 
cao nhất 79 tuổi. Gồm 58 bệnh nhân nam và 92 
nữ  (61,33%).  Trong  số  đó  15  bệnh  nhân  đã 
được  mổ  u  tuyến  yên  1‐3  lần,  5  bệnh  nhân 
được xạ trị và 29 bệnh nhân được điều trị nội 
không kết quả. U tuyến yên không tăng tiết 61 
bệnh nhân, u tuyến yên tăng tiết prolactine 41, 
u tuyến yên tăng tiết GH 38 và 10 u tuyến yên 
tăng  tiết  ACTH.  U  tuyến  yên  lớn 
(macroadenoma)  ở  135  bệnh  nhân  và  u  tuyến 

yên nhỏ (microadenoma) ở 15 bệnh nhân. 
Kết  quả  phẫu  thuật:  thời  gian  phẫu  thuật 
trung bình 80±15 phút (ngắn nhất 50 phút và dài 
nhất  210  phút).  Cắt  bỏ  hoàn  toàn  khối  u  104 
bệnh  nhân,  cắt  gần  hết  45  và  không  cắt  được 
khối  u  1  (Bảng  2).  Mức  độ  cắt  bỏ  khối  u  liên 
quan  tới  một  số  yếu  tố  như  loại  u  tuyến  yên, 
mức  độ  và  hướng  xâm  lấn,  điều  trị  trước  khi 

Chuyên Đề Phẫu Thuật Thần Kinh 


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014 

Nghiên cứu Y học

 
phẫu thuật. Chúng tôi không cắt được khối u ở 1 
bệnh nhân vì hệ thống mạch máu phía dưới khối 
u  phát  triển  (có  thể  là  mạng  lưới  tĩnh  mạch 
xoang  hang  hai  bên  phát  triển).  Đây  là  bệnh 
nhân u tuyến yên tăng tiết prolactine, u to trung 
bình  2cm  nên  chúng  tôi  dừng  phẫu  thuật  và 
điều trị nội. Kiểm tra sau 4 năm: bệnh nhân ổn 
định,  prolactine  máu  1000  đơn  vị  với  dostinex, 
đẻ 1 con sau điều trị. Xét nghiệm nội tiết trở về 
bình thường ở 55/86 bệnh nhân (63,95%). 
Bảng 1‐Tỷ lệ biến chứng và di chứng liên quan tới 
phẫu thuật 
Biến chứng


Số trường
hợp

Chết

2

Rò nước não
tủy

5

Suy tuyến yên

35

Nhìn mờ hơn

1

Biến chứng
Chảy máu trong
não thất
Chảy máu mũi
sau mổ
Tổn thương động
mạch cảnh
Liệt dây thần kinh
sọ khác


Số trường
hợp
8
9
0
2

Bảng 2‐Mức độ cắt bỏ khối u tuyến yên 
Kết quả

Tổng số
U không tăng tiết
Tăng tiết
Prolactine
Tăng tiết GH
Tăng tiết ACTH
Macroadenoma
Microadenoma

Cắt hoàn Cắt gần hết Sinh Không
toàn
u
thiết cắt được
n (%)
n (%)
n (%) n (%)
45 (30%)
0
1

104
(69,33%) 29 (47,54%) 0
0
32 (52,45%) 5 (12,19%) 0
1
35 (85,36%) 10 (26,32%) 0
0
28 (73,68%)
1
0
0
9 (90%) 45 (33,33%) 0
1
89 (65,92%)
0
0
0
15 (100%)

Bảng 3‐Mối liên quan giữa tỷ lệ lấy hết u với xâm 
lấn khối u: 
Não thất Xoang tĩnh
III
mạch hang
Cắt hết u
67
2
Cắt gần hết
5
25

Tổng số
72
27
Xâm lấn

Thái
dương
0
15
15

Xuống
dưới
35
0
35

Tỷ  lệ  cắt  hết  khối  u  nhóm  u  tăng  tiết 
prolatine  cao  hơn  nhóm  u  không  tăng  tiết 
(p<0,01) nhưng không cao hơn nhóm u tăng tiết 
GH (p=0,1217); nhóm u tăng tiết ACTH cắt hết u 
nhiều  hơn  nhóm  không  tăng  tiết  (p=0,02,  95%; 
CI:  0,9729‐68,3746,  OR=8),  nhưng  không  hơn 
nhóm u tăng tiết GH (p=0,2747). Tỷ lệ cắt u hoàn 

Bệnh Lý Sọ Não 

toàn  nhóm  u  tuyến  yên  nhỏ  cao  hơn  nhóm  u 
tuyến yên lớn (p<0,05). 
Nhóm u xâm lấn xoang tĩnh mạch hang cắt 

hết  u  ít  hơn  nhóm  u  xâm  lấn  não  thất  III 
(p<0,001),  ít  hơn  nhóm  u  xâm  lấn  xuống  dưới 
(p<0,001)  nhưng  bằng  nhóm  u  xâm  lấn  thái 
dương (p>0,05). 
Bảng 4‐Mối liên quan giữa mức độ cắt hết u với tiền 
sử điều trị: 
Tiền sử điều
trị
Cắt hết u
Cắt gần hết u

Phẫu thuật Xạ trị Điều trị Chưa điều
1-3 lần
nội
trị
2
1
27
74
13
5
2
15

Nhóm  u  chưa  điều  trị  cắt  hết  u  nhiều  hơn 
nhóm  đã  phẫu  thuật  (p<0,001),  cắt  hết  u  nhiều 
hơn  nhóm  đã  xạ  trị  (p<0,01)  nhưng  bằng  với 
nhóm đã điều trị nội (u tăng tiết prolactine). 

BÀN LUẬN 

Phẫu thuật nội soi qua mũi‐xoang bướm để 
cắt  bỏ  khối  u  tuyến  yên  là  phương  pháp  phẫu 
thuật hiện đại được nhiều trung tâm phẫu thuật 
thần  kinh  trên  thế  giới  sử  dụng.  Chúng  tôi  bắt 
đầu  sử  dụng  phẫu  thuật  này  từ  năm  2008.  Với 
ống nội soi 0 độ, 30 độ và 45 độ, chúng ta kiểm 
soát được nhiều vị trí hay “góc chết” của khối u 
nhằm  cắt  bỏ  khối  u,  tránh  biến  chứng  và  giảm 
thiểu  rủi  ro.  Chúng  tôi  cắt  bỏ  khối  u  ở  149/150 
bệnh  nhân.  Bệnh  nhân  duy  nhất  không  thể  cắt 
bỏ  được  do  chảy  máu  khi  mở  màng  cứng.  Hệ 
thống tĩnh mạch màng cứng rất tăng sinh, chảy 
máu  nhiều.  Tôi  quyết  định  dừng  phẫu  thuật  vì 
bệnh nhân khối u tuyến yên tăng tiết prolactine 
ở bệnh nhân nữ 28 tuổi Nguyễn Th T. Bệnh nhân 
này có khối u tuyến yên 2cm, không có giảm thị 
lực,  thị  trường  bình  thường,  mất  kinh,  tiết  sữa, 
vô sinh thứ phát (đã có một con), Bệnh nhân đã 
được điều trị nội nhưng đau đầu, khó chịu nên 
chấp nhận phẫu thuật. Sau khi không thể cắt bỏ 
khối  u,  chúng  tôi  tiếp  tục  điều  trị  nội  với 
dostinex 1 viên/tuần. Bệnh nhân ổn định. Lượng 
prolactine  giảm  từ  15  000  xuống  1000  đơn  vị.  2 
năm sau bệnh nhân đẻ thêm 1 con. Hiện tại khối 
u  to  hơn  2,2cm,  đau  đầu  ít,  prolactine  1200  và 

277


Nghiên cứu Y học 


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014

 
vẫn đang điều trị dostinex. Thời gian trung bình 
phẫu thuật 80±15 phút. Phẫu thuật dài nhất 210 
phút  ở  bệnh  nhân  u  tuyến  yên  tăng  tiết  GH. 
Phẫu  thuật  ở  bệnh  nhân  này  khá  khó  khăn  do 
cuốn mũi lớn, chảy máu ở niêm mạc và xương, 
xương dày và khối u chảy máu nhiều trong khi 
cắt bỏ.  
Trong  số  150  bệnh  nhân:  tử  vong  2  trường 
hợp  do  chảy  máu  não  thất,  hôn  mê  sau  phẫu 
thuật,  phẫu  thuật  dẫn  lưu  não  thất  ra  ngoài 
nhưng  không  hiệu  quả.  Hai  bệnh  nhân  này  có 
khối u lớn, xâm lấn não thất III, tăng sinh mạch 
nhiều  và  chảy  máu  nhiều  trong  phẫu  thuật. 
Không  thể  cắt  bỏ  hoàn  toàn  khối  u  ở  hai  bệnh 
nhân  này.  Khi  không  cắt  bỏ  hoàn  toàn  khối  u, 
chảy máu sau mổ thường nặng. Chảy máu nhiều 
trong u vỡ vào não thất gây chảy máu trong não 
thất, não úng thủy. Một số tác giả cho thấy tỷ lệ 
tử  vong  sau  phẫu  thuật  nội  soi  u  tuyến  yên 
thường do tổn thương động mạch cảnh trong, rò 
nước não tủy gây nhiễm trùng, viêm màng não 
hoặc chảy máu, tổn thương mạch trong sọ(9,10,11,12). 
Chúng  tôi  không  gặp  trường  hợp  nào  tổn 
thương động mạch cảnh trong, động mạch thân 
nền hay mạch máu lớn trong não. Phẫu thuật cắt 
bỏ khối u hầu hết thực hiện trong bao. Rò nước 

não tủy gặp ở 5 bệnh nhân. Chọc tháo dẫn lưu 
nước não tủy ở thắt lưng 5‐8 ngày sau khi phát 
hiện rò nước não tủy đã điều trị khỏi hoàn toàn. 
Cả  5  bệnh  nhân  này  có  rò  nước  não  tủy  trong 
quá  trình  phẫu  thuật  nhưng  không  chọc  tháo 
nước não tủy ngay sau mổ. Những trường hợp 
sau này, chúng tôi chủ động chọc tháo dẫn lưu 
nước  não  tủy  ở  lưng  cho  tất  cả  những  trường 
hợp  rò  nước  não  tủy  trong  khi  mổ.  Khi  thấy 
nước não tủy xuất hiện khi phẫu tích cắt bỏ khối 
u,  đóng  vết  mổ  cẩn  thận  với  mỡ,  cân  cơ  đùi, 
gelfoame. Tôi chỉ dùng keo sinh học ở 2 trường 
hợp  và  không  nhận  thấy  sự  cần  thiết  sử  dụng 
keo trong phẫu thuật này. Tôi không gặp trường 
hợp  nhiễm  trùng  nặng  như  viêm  màng  não, 
viêm  não  sau  phẫu  thuật.  Biến  chứng  hay  gặp 
nhất là suy tuyến yên tạm thời sau mổ: 35 bệnh 
nhân. Trong số này có 15 bệnh nhân có biểu hiện 

278

suy  tuyến  yên  từ  trước  mổ.  Suy  tuyến  yên  ổn 
định sau khi phẫu thuật 3 tháng ở 25 bệnh nhân, 
suy  tuyến  yên  cần  điều  trị  tiếp  tục  ở  10  bệnh 
nhân khác. Suy tuyến yên có thể do tổn thương 
tuyến yên trong quá trình phẫu tích khối u hoặc 
đốt  điện  gây  tổn  thương  u.  Chảy  máu  mũi  sau 
mổ 10 ngày tới 35 ngày ở 9 bệnh nhân. Hai trong 
số đó phải phẫu thuật cấp cứu cầm máu vì chảy 
máu  tái  phát,  huyết  áp  tụt,  nhét  mèche  mũi 

không kết quả. Nội soi qua mũi xác định nhánh 
của động mạch chân bướm khẩu cái chảy máu. 
Đốt  điện  cầm  máu  và  bệnh  nhân  ổn  định.  Tôi 
cho  rằng, nếu  bệnh  nhân  có  chảy máu mũi  sau 
phẫu  thuật  nội  soi  qua  mũi  xoang  bướm,  phải 
phẫu  thuật  lại  bằng  nội  soi  để  xác  định  nguồn 
chảy  máu  và  điều  trị.  Không  nên  nhét  meche 
cầm  máu  và  chờ  đợi  vì  có  thể  nguy  hiểm  cho 
bệnh  nhân.  Tổn  thương  dây  thần  kinh  sọ  ở  3 
bệnh nhân: 1 bệnh nhân mờ mắt hơn sau mổ và 
2 bệnh nhân sụp mí mắt, lác ngoài. Biến chứng 
này có thể do tổn thương dây thần kinh II, III và 
VI trong quá trình phẫu tích cắt u. 
Chúng  tôi  cắt  bỏ  khối  u  hoàn  toàn  ở  104 
bệnh  nhân,  cắt  bỏ  gần  hoàn  toàn  khối  u  ở  45 
bệnh nhân. Mức độ cắt bỏ hoàn toàn khối u phụ 
thuộc  vào  nhiều  yếu  tố  như  kinh  nghiệm  phẫu 
thuật  viên,  loại  u  tuyến  yên,  mức  độ  xâm  lấn, 
tình  trạng  bệnh  nhân  trước  mổ,  mức  độ  mềm 
chắc của khối u, kích thước khối u, mức độ tăng 
sinh  mạch  của  khối  u,  vị  trí  khối  u…(4,6,8,9).  Khi 
khảo  sát  các  yếu  tố  trên,  chúng  tôi  thấy  rằng: 
khối  u  tuyến  yên  nhỏ  cắt  bỏ  hoàn  toàn  100% 
trong khi khối u tuyến yên lớn cắt bỏ hoàn toàn 
ở  65,92%  (p<0,05).  Khối  u  tuyến  yên  nhỏ  hơn 
10mm  rất  dễ  cắt  bỏ  hoàn  toàn  vì  khối  u  không 
xâm lấn, tuyến yên lành rất dễ xác định. Khối u 
tuyến  yên  lớn  xâm  lấn  nhiều  vị  trí,  sang  bên, 
xâm  lấn  xoang  tĩnh  mạch  hang.  Vì  vậy,  cắt  bỏ 
hoàn toàn khối u tuyến yên nhỏ dễ hơn nhiều so 

với khối u tuyến yên lớn. Tỷ lệ cắt bỏ hoàn toàn 
khối  u  tuyến  yên  tăng  tiết  prolactine  cũng  cao 
hơn  nhóm  u  không  tăng  tiết  (p<0,01)  và  nhưng 
không cao hơn u tăng tiết GH (p=0,1217). Khối u 
tuyến  yên  tăng  tiết  prolactine  thường  mềm,  dễ 

Chuyên Đề Phẫu Thuật Thần Kinh 


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014 

Nghiên cứu Y học

 
hút bằng máy hút, u nhỏ hơn do triệu chứng rối 
loạn  nội  tiết  làm  bệnh  nhân  đi  khám  sớm  hơn. 
Khối  u  tuyến  yên  tăng  tiết  ACTH  cắt  bỏ  hoàn 
toàn 90% cao hơn so với khối u tuyến yên không 
tăng tiết (p<0,001) nhưng không cao hơn u tuyến 
yên  tăng  tiết  GH  (p=0,2747);  Bệnh  Cushing 
thường  có  khối  u  tuyến  yên  nhỏ,  ít  khi  chẩn 
đoán khi khối u lớn. 

KẾT LUẬN 
Phẫu  thuật  cắt  bỏ  khối  u  tuyến  yên  bằng 
phương  pháp  nội  soi  qua  mũi  xoang  bướm  là 
phương  pháp  hiệu  quả,  tỷ  lệ  khỏi  bệnh  cao,  tử 
vong thấp, biến chứng thấp. Tỷ lệ cắt bỏ khối u 
hoàn  toàn  cao  ở  nhóm  bệnh  nhân  u  tuyến  yên 
nhỏ,  u  tuyến  yên  tăng  tiết  ACTH,  tăng  tiết 

prolactine,  u  tuyến  yên  xâm  lấn  xuống  dưới,  u 
tuyến yên không xâm lấn xoang tĩnh mạch hang 
và hố thái dương. 

TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1.

Đồng  Văn  Hệ  (2011),  Phẫu  thuật  u  tuyến  yên  bằng  phương 
pháp nội soi, Y học thực hành. 

2.

Albertina M et al (2011), Results of endoscopic transsphenoidal 
pituitary  surgery  in  40  patients  with  a  growth  hormone‐
secreting macroadenoma, Acta Neurochir, 153, 1391‐1399. 

3.

Cappabianca  P  et  al  (1999),  Endoscopic  Endonasal 
Transsphenoidal  Approach:  An  Additional  Reason  in  Support 

of Surgery in the Management of Pituitary Lesions, Skull Base 
Surgery, 9, 2, 109‐117. 
4.

Choe  J  H  et  al  (2008),  Endocrine  Outcome  of  Endoscopic 
Endonasal  Transsphenoidal  Surgery  in  Functioning  Pituitary 
Adenomas, J Korean Neurosurg Soc, 44, 151‐155. 

5.


Gady  H  E  and  Roxanne  Todor  (2003),  Endoscopic  transnasal 
transsphenoidal  pituitary  surgery,  Operative  techniques  in 
otolaryngology‐head and neck surgery, 14, 3, 204‐206. 

6.

Gordon  D  C  and  Dandie  M  B  et  al  (1996),  Endoscopic 
transsphenoidal  approach  to  the  pituitary  fossa  technical  note, 
Journal of Clinical Neuroscience, 3 (1):65‐68.  

7.

Hill  M  et  al  (2010),  Endoscopic  transsphenoidal  approaches  to 
the sella, Operative Techniques in otolaryngology, 21, 51‐55. 

8.

Locatelli  D  et al  (2010),  Endoscopic  endonasal  transsphenoidal 
surgery  for  sellar  tumors  in  children,  International  Journal  of 
Pediatric Otorhinolaryngology, 74, 1298‐1302. 

9.

Nyquist  G  G  et  al  (2010),  Middle  Turbinate  Preservation  in 
Endoscopic Transsphenoidal Surgery of the Anterior Skull Base, 
Skull Base, 20, 5, 343‐348. 

10. Romero  A  D  C  B  et  al  (2010),  Cerebrospinal  fluid  fistula  after 
endoscopic  transsphenoidal  surgery,  Arq  Neuropsiquiatr,  68, 

414‐417. 
11. Santos A R et al (2010), Endoscopic endonasal transsphenoidal 
approach  for  pituitary  adenomas,  Arq  Neurosiquiatr,  68,  608‐
612. 
12. Zhang  X  et  al  (2008),  Endoscopic  endonasal  transsphenoidal 
surgery  for  invasive  pituitary  adenoma,  Journal  of  Clinical 
Neuroscience 15, 241‐245. 

 
Ngày nhận bài báo:  

 

 

24/10/2014 

Ngày phản biện nhận xét bài báo:  

02/11/2014 

Ngày bài báo được đăng:  

05/12/2014 

 

 

Bệnh Lý Sọ Não 


279



×