Nghiên cứu Y học
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Số 6 * 2013
NGHIÊN CỨU TÌNH TRẠNG ĐỀ KHÁNG INSULIN VÀ CHỨC NĂNG
TẾ BÀO BETA Ở BỆNH NHÂN ĐÁI THÁO ĐƯỜNG TÍP 2
MỚI ĐƯỢC CHẨN ĐOÁN
Nguyễn Thị Thu Thảo*
TÓM TẮT
Mục tiêu nghiên cứu: Nghiên cứu tình trạng đề kháng insulin, chức năng tế bào beta và độ nhạy insulin ở
bệnh nhân đái tháo đường típ 2 mới được chẩn đoán.
Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu tiến cứu, mô tả cắt ngang, lấy mẫu thuận lợi, và chia 2 nhóm:
nhóm ĐTĐ và nhóm chứng, cả 2 nhóm đều được khám và làm xét nghiệm theo mẫu tại thời điểm mới chẩn
đoán.
Kết quả: Tổng số có 383 đối tượng đồng ý tham gia nghiên cứu gồm có 281 bệnh nhân ĐTĐ típ 2 mới chẩn
đoán và 102 người trưởng thành khoẻ mạnh đủ tiêu chuẩn vào nghiên cứu. Tuổi phát hiện bệnh đái tháo đường
típ 2 thường gặp 50 ‐ 59 tuổi, tăng HA chiếm 45,2%, RLLM 86,8%, béo phì 33,1%, béo bụng 56,9%, HCCH
42%. Ở nhóm ĐTĐ nồng độ insulin, C‐peptid cao hơn nhóm chứng (p < 0,001), nếu tính theo thứ tự insulin và
C‐peptid thì kháng insulin tăng 93,62% và 98,7%, chức năng tế bào beta giảm 51,91% và 57,52%, độ nhạy
insulin giảm 36,32 và 44,79%, tỉ lệ bệnh nhân kháng insulin chiếm 68,3% và 84,7% và giảm chức năng tế bào
beta chiếm 82,2% và 76,9%.
Kết luận: Bệnh nhân ĐTĐ típ 2 mới được chẩn đoán có tuổi trung bình 50 – 59, tăng HA chiếm 45,2%,
RLLM 86,8%, béo phì 33,1%, béo bụng 56,9%, HCCH 42%. Nồng độ insulin và C‐peptid ở nhóm ĐTĐ cao
hơn so với nhóm chứng. Tại thời điểm bệnh ĐTĐ típ 2 mới chẩn đoán đề kháng insulin tăng 96,32% và 98,7%;
chức năng tế bào beta giảm 51,91% và 57,52% độ nhạy insulin giảm 36,32 và 44,79%, tỉ lệ bệnh nhân kháng
insulin chiếm 68,3% và 84,7% và giảm chức năng tế bào beta chiếm 82,2% và 76,9% tính theo thứ tự insulin và
C‐peptid. Sinh bệnh học bao gồm đề kháng insulin và giảm chức năng tế bào beta tương đương nhau.
Từ khóa: Đề kháng insulin, chức năng tế bào beta, độ nhạy insulin, nồng độ insulin, C‐peptid, mô hình
HOMA2
ABSTRACT
THE STUDY OF INSULIN RESISTANCE AND BETA CELL FUNCTION
IN NEWLY–DIAGNOSED TYPE 2 DIABETIC PATIENTS
Nguyen Thi Thu Thao * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 17 ‐ No 6 ‐ 2013: 74 ‐ 80
Objective: To study insulin resistance, beta cell function and insulun sensitivity in newly–diagnosed type 2
diabetic patients.
Methods: Cross‐sectional descriptive study, convenience sampling, and divided into two groups: diabetic
and control groups. Both the two groups were performed the tests in the form at the time diagnosed.
Result: A total of 383 subjects agreed to participate in the study and were divided into two groups: 281
newly diagnosed type 2 diabetes patients and 102 had with control group enough criteria into the study. The
prevalence of newly ‐ diagnosed type 2 diabetes was highest at 50 ‐ 59 ages. Hypertension was found in 45.2%,
dyslipidemia in 86.8%, metabolic syndrome 42%, obesity 32.8% with abdominal obesity 56.8%. At the time of
newly diagnosed type 2 diabetes insulin and C‐peptide levels in diabetic group were higher than control group
* Khoa Nội Tiết Thận ‐ Bệnh viện Nhân Dân Gia Định
Tác giả liên lạc: TS.BS.Nguyễn Thị Thu Thảo ĐT : 0908.458.498 Email :
74
Hội Nghị Khoa Học Công Nghệ BV. Nhân Dân Gia Định năm 2013
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Số 6 * 2013
Nghiên cứu Y học
with statistical significance (p <0.001), insulin resistance increased 93.62% and 98.7%; beta‐cell function
reduces 51.91% and 57.52%, insulin sesitivity decreased 36.32 và 44.79%; insulin resistance and beta cell
function reducing patient rate 68.3%, 76.9% and 84.7% 82.2% for calculating insulin and C‐peptid.
Conclusion: Patients with type 2 diabetes newly diagnosed with average age 50 – 59t, hypertension
accounted for 45.2%, dyslipidemia 86.8%, obesity 33.1%, abdominal obesity 56, 9% and 42% metabolic
syndrome. In newly diagnosed type 2 diabetic patients had insulin and C‐peptid levels that were higher than
control group with statistical significance (p <0.001), insulin resistance increased 93.62% and 98.7%; beta cell
function reduced 51.91% and 57.52%, insulin sesitivity decreased 36.32% and 44.79%; insulin resistance and
beta cell function reducing patient rate 68.3%, 76.9% and 84.7% 82.2% for calculating insulin and C‐peptid.
The pathological mechanism with insulin resistance is equal beta‐cell function failure.
Viết tắt: BVNDGĐ: Bệnh Viện Nhân Dân Gia Định; C‐PEP: C‐Peptid; ĐTĐ: đái tháo đường; ĐH: đường
huyết; HOMA: Homeostasis Model Assessment; INS: Insulin; WHO: World Health Organization
Keywords: Insulin resistance, beta cell function, insulun sensitivity, insulin, C‐peptide, model HOMA2
chứng.
ĐẶT VẤN ĐỀ
Sinh bệnh học của bệnh đái tháo đường
(ĐTĐ) típ 2 rất phức tạp bao gồm 2 bất thường
lớn đó là tình trạng kháng insulin và giảm chức
năng tế bào beta. Các nhà nghiên cứu cho rằng
tình trạng kháng insulin xuất hiện nhiều năm
trước khi bệnh ĐTĐ típ 2 xuất hiện trên lâm
sàng và tại thời điểm bệnh mới được chẩn đoán
chức năng tế bào beta chỉ còn khoảng 50%(18,11,12).
Bệnh thường đi kèm với nhiều yếu tố nguy cơ
và diễn tiến âm ỉ trong nhiều năm(19), hơn 50%
vẫn còn bị bỏ sót chẩn đoán. Trên thế giới có rất
nhiều nghiên cứu về kháng insulin trên bệnh
nhân ĐTĐ dựa vào mô hình HOMA1, QUICKI,
HOMA2 nhưng vẫn còn nhiều vấn đề chưa rõ
trong cơ chế bệnh sinh. Tại Việt Nam chưa có
nhiều nghiên cứu về vấn đề này, do đó chúng
tôi thực hiện đề tài “Nghiên cứu tình trạng đề
kháng insulin và chức năng tế bào beta ở bệnh
nhân đái tháo đường típ 2 mới được chẩn đoán”
dựa trên mô hình HOMA2 vi tính.
Mục tiêu nghiên cứu
Khảo sát tình trạng đề kháng insulin, chức
năng tế bào beta và độ nhạy insulin ở bệnh nhân
ĐTĐ típ 2 mới được chẩn đoán.
ĐỐI TƯỢNG ‐ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Nghiên cứu tiến cứu mô tả cắt ngang, theo
dõi dọc có can thiệp kết hợp phân tích, có so
sánh đối chứng giữa nhóm ĐTĐ và nhóm
Nhóm ĐTĐ là tất cả các bệnh nhân nội ngoại
trú BVNDGĐ mới được chẩn đoán ĐTĐ típ 2 và
chưa dùng thuốc hạ glucose huyết trước đó.
Loại trừ tình trạng lâm sàng quá nặng.
Nhóm chứng là các đối tượng trưởng thành
khỏe mạnh không có tăng HA, béo phì, béo
bụng, rối loạn đường huyết đói hay ĐTĐ và
đồng ý tham gia nghiên cứu.
Chẩn đoán ĐTĐ theo tiêu chuẩn WHO công
bố năm 1998(26).
Chẩn đoán tăng HA theo tiêu chuẩn JNC 7(14)
Đánh giá kháng insulin, độ nhạy insulin và
chức năng tế bào beta: dựa vào đường huyết
đói, insulin máu, C‐peptid theo mô hình
HOMA2 vi tính đã được cập nhật hoàn chỉnh
năm 2004(23).
Các chỉ số HOMA2 sẽ được tính toán theo
từng cặp:
‐ HOMA2 ‐ IR (insulin) và HOMA2‐IR (C‐
peptid)
‐ HOMA2 ‐ %B(insulin) và HOMA2‐%B (C‐
peptid).
‐ HOMA2 ‐ %S(insulin) và HOMA2‐%S (C‐
peptid).
Chẩn đoán kháng insulin (HOMA2‐IR): lấy
điểm cắt giới hạn ở tứ phân vị trên của nhóm
chứng (WHO 1998)(13,26).
Chẩn đoán giảm độ nhạy insulin (HOMA2‐
Hội Nghị Khoa Học Công Nghệ BV. Nhân Dân Gia Định năm 2013
75
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Số 6 * 2013
Nghiên cứu Y học
%S): lấy điểm cắt giới hạn < X ‐ 1SD của nhóm
chứng.
Chẩn đoán giảm CNTB beta (HOMA2‐%):
lấy điểm cắt giới hạn < X ‐ 1SD của nhóm chứng.
Chẩn đoán béo phì theo tiêu chuẩn mới của
WHO và IDF cho người châu Á khi BMI ≥
25kg/m2 và béo bụng khi vòng bụng ở nam ≥ 90
cm và ≥ 80 cm ở nữ(1,9).
Chẩn đoán rối loạn lipid máu theo hướng
dẫn của NCEP ‐ ATP III(6).
Chẩn đoán HCCH theo tiêu chuẩn của Liên
đoàn ĐTĐ Quốc tế áp dụng cho người châu Á(10)
Dùng toán thống kê tính tỉ lệ, trung bình và
phép kiểm Chi bình phương (2 ‐ test), phương
trình hồi quy với phần mềm vi tính SPSS 16.
Nam
Nữ
Chung
p
(n = 135)
(n = 146)
(n = 281)
RLLM 118 (87,4%) 126(86,3%) 244 (86,8%) > 0,05
Béo phì 39 (28,9%) 54 (37%)
93 (33,1%) > 0,05
<
Béo bụng 47 (34,8%) 111(76%) 158 (56,9%)
0,001
<
HCCH
32 (23,7%) 86 (58,9%) 118 (42,0%)
0,001
Yếu tố
nguy cơ
Kháng insulin và mối liên quan với một số
yếu tố lâm sàng và cận lâm sàng
Nồng độ insulin và C‐peptid ở nhóm ĐTĐ
cao hơn nhóm chứng (p < 0,001).
Ở nhóm ĐTĐ nồng độ insulin máu tăng
chiếm 43,8%, nồng độ C‐peptid tăng 54,8% cao
hơn nhóm chứng (p < 0,001).
Bảng 2: Chỉ số giới hạn của nồng độ insulin và
Cpeptid.
KẾT QUẢ
Đặc điểm chung của dân số nghiên cứu
Nghiên cứu được thực hiện tại BVNDGĐ từ
12/2009 – 11/2011, có 383 đối tượng đồng ý tham
gia nghiên cứu được chia 2 nhóm: Nhóm ĐTĐ
có 281 trường hợp (146 nữ và 135 nam) nhóm
chứng có 102 trường hợp (63 nữ và 39 nam).
Tuổi mắc bệnh ĐTĐ cao nhất ở độ tuổi 50 – 59, tỉ
lệ mắc bệnh giữa 2 giới tương đương nhau (p >
0,05), không có sự khác biệt về tuổi và giới giữa
nhóm chứng và nhóm ĐTĐ (P > 0,05).
Tăng HA chiếm 45,2%, RLLM 86,8%, béo phì
33,1%, béo bụng 56,9% và HCCH 42%.
Bảng 1: Các yếu tố nguy cơ liên quan đến đề kháng
insulin
Yếu tố
nguy cơ
Tăng HA
Nam
(n = 135)
66 (48,9%)
Nhóm Nhóm ĐTĐ
chứng
p
(n = 281)
(n =102)
10,97 ± < 0,001
7,27 ± 3,22
X ± SD
7,06
Chỉ số giới hạn
4,05 –
10,49
1,85 ± 0,58 2,81 ± 1,35 < 0,001
( X ± SD)
Chỉ số giới hạn 1,27 – 2,43
Giảm (<4,05)
9 (8,8%) 34 (12,1%) > 0,05
Bình thường
124
78 (76,5%)
< 0,001
(4,05 - 10,49)
(44,1%)
Tăng (> 10,49) 15 (14,7%)
123
< 0,001
(43,8%)
Giảm (< 1,27)
8 (7,8%) 19 (6,8%) > 0,05
Bình thường
108
78 (76,5%)
< 0,001
(1,27 - 2,43)
(38,4%)
Tăng (> 2,43) 16 (15,7%)
154
< 0,001
(54,8%)
Thông số
Insulin
(µU/ml)
C-peptid
(ng/ml)
Insulin
(µU/ml)
C-peptid
(ng/ml)
Nữ
Chung
p
(n = 146)
(n = 281)
61 (41,8%) 127 (45,2%) > 0,05
Kháng insulin, chức năng tế bào beta và độ nhạy insulin ở bệnh nhân ĐTĐ típ 2
Bảng 3: Tỉ lệ bệnh nhân kháng insulin theo HOMA2–IR (Ins) và HOMA2–IR (Cpep)
HOMA2
- IR (Ins)
- IR (Cpep)
76
Nhóm chứng (n =102) Nhóm ĐTĐ (n = 281)
( X ± SD)
Tứ phân vị trên
Độ lệch TB
- IR (Ins) (>1,14)
0,94 ± 0,42
( X ± SD)
Tứ phân vị trên
p
1,82 ± 1,19
< 0,001
25 (24,5%)
192 (68,3%)
< 0,001
1,36 ± 0,43
3,06 ± 2,05
< 0,001
1,14
93,62%
1,54
Hội Nghị Khoa Học Công Nghệ BV. Nhân Dân Gia Định năm 2013
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Số 6 * 2013
HOMA2
Độ lệch TB
- IR (Cpep) (> 1,54)
- %B (Ins)
- %B (Cpep)
- %S (Ins)
- %S (Cpep)
Nghiên cứu Y học
Nhóm chứng (n =102) Nhóm ĐTĐ (n = 281)
98,70%
24 (23,5%)
238 (84,7%)
( X ± SD)
Chỉ số giới hạn
Độ lệch TB
Giảm (< 60,27%)
( X ± SD)
Chỉ số giới hạn
Độ lệch TB
Giảm ( < 72,05%)
( X ± SD)
Chỉ số giới hạn
Độ lệch TB
Giảm ( < 74,74%)
( X ± SD)
Chỉ số giới hạn
Độ lệch TB
Giảm ( < 58,33%)
Nhận xét: Tính theo cặp insulin và Cpeptid,
kháng insulin tăng 93,62% và 98,7%; chức năng
tế bào beta giảm 59,91% và 57,52%; độ nhạy
insulin giảm 36,32% và 44,79% so với nhóm
chứng. Tỉ lệ BN kháng insulin là 68,3% và 84,7%,
giảm chức năng tế bào beta 82,2% và 76,9%,
giảm độ nhạy insulin lần lượt là 59,8% và 78,3%.
BÀN LUẬN
Trong tổng số 383 đối tượng tình nguyện
tham gia nghiên cứu chúng tôi đã phân tích,
đánh giá theo các mục tiêu đã đề ra của nghiên
cứu bao gồm nhóm chứng là 102 đối tượng
chiếm tỉ lệ 26,6% và nhóm ĐTĐ là 281 đối tượng
chiếm tỉ lệ 73,4%. Tuổi trung bình nhóm chứng
là 51,18 ± 12,72, không có sự khác biệt về tuổi và
giới giữa nhóm chứng và nhóm bệnh (p > 0,05).
Các nghiên cứu cho thấy bệnh ĐTĐ típ 2
thường được phát hiện sau tuổi 30 – 40(20,1,3),
tần suất bệnh gia tăng theo tuổi chiếm tỉ lệ cao
nhất ở độ tuổi 50 ‐ 59 sau đó giảm dần. Trong
nghiên cứu này chúng tôi nhận thấy tuổi mắc
bệnh ĐTĐ xảy ra nhiều nhất ở độ tuổi 50 – 59,
tỉ lệ nam/nữ mắc bệnh tương đương nhau (p >
0,05), kết quả này phù hợp với các nghiên cứu
trong và ngoài nước(22,17,16,20).
93,23 ± 32,96
37,38 ± 32,13
p
0,001
< 0,001
60,27 - 126,19
Giảm 59,91%
18 (17,6%)
231 (82,2%)
< 0,001
122,21 ± 50,16
< 0,001
51,91 ± 37,41
72,05 - 172,37%
Giảm 57,52%
1 (1,0%)
216 (76,9%)
125,78 ± 51,04
80,09 ± 21,76
74,74 – 176,82%
Giảm 36,32%
15 (14,7%)
168 (59,8%)
80,09 ± 21,76
44,22 ± 25,01
58,33 - 101,85%
Giảm 44,79%
20 (19,6%)
220 (78,3%)
< 0,001
< 0,001
<0,01
< 0,001
< 0,001
Theo y văn tăng huyết áp, rối loạn lipid
máu, béo phì, béo phì bụng và hội chứng
chuyển hoá góp phần làm gia tăng đề kháng
insulin và là yếu tố nguy cơ cho bệnh mạch
vành(6,107). Trong nghiên cứu này chúng tôi ghi
nhận tăng huyết áp ở bệnh nhân ĐTĐ típ 2
mới được chẩn đoán chiếm tỉ lệ khá cao 45,2%,
RLLM đến 86,8%, béo phì 33,1%, béo phì bụng
56,9% và hội chứng chuyển hoá chiếm 42%
phù hợp với các tác giả trong và ngoài nước
với cùng tiêu chuẩn chẩn đoán. Do đó cần phải
kiểm tra các chỉ số trên thường xuyên ở các đối
tượng có nguy cơ cao, đặc biệt là ở bệnh nhân
ĐTĐ típ 2 mới chẩn đoán.
Chúng tôi ghi nhận nồng độ insulin máu và
nồng độ C‐Peptid trung bình lúc đói ở nhóm
chứng trong nghiên cứu này là 7,27 ± 3,22 μU/ml
và 1,85 ± 0,58ng/ml, thấp hơn so với nghiên cứu
ở Malaysia là 11,7 ± 6,5 μU/ml vì nhóm chứng
trong nghiên cứu Malaysia không loại trừ các
đối tượng có béo phì và béo bụng như nghiên
cứu chúng tôi; mà béo phì và béo bụng là yếu tố
chỉ điểm của kháng insulin biểu hiện bởi tăng
insulin máu rất sớm(85).
Ở nhóm ĐTĐ chúng tôi nhận thấy nồng độ
insulin máu trung bình 10,97 ± 7,06μU/ml và
Hội Nghị Khoa Học Công Nghệ BV. Nhân Dân Gia Định năm 2013
77
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Số 6 * 2013
Nghiên cứu Y học
nồng độ C‐peptid trung bình 2,81 ± 1,35ng/ml
(Bảng 2). Khi so sánh 2 nhóm nghiên cứu
chúng tôi ghi nhận nồng độ insulin và C‐
peptid ở nhóm bệnh cao hơn so với nhóm
chứng rõ rệt (p < 0,001).
Dựa vào cách tính điểm cắt chỉ số giới hạn
như đã nêu trên, mức insulin máu được coi là
thấp khi < 4,05μU/ml và được coi là tăng khi >
10,49μU/ml, tương tự mức C‐peptid được coi là
thấp khi < 1,27ng/ml và được coi là tăng khi >
2,43ng/ml. Chúng tôi nhận thấy ở bệnh nhân
ĐTĐ típ 2 mới được chẩn đoán tỉ lệ bệnh nhân
có tăng insulin máu và tăng C‐peptid chiếm
43,8% và 54,8% (Bảng 2) cao hơn nhóm chứng
(14,7% và 15,7%) có ý nghĩa thống kê (p < 0,001),
tương tự kết quả của tác giả Nguyễn Đức Ngọ
và cộng sự(15) cho thấy hơn 50% bệnh nhân ĐTĐ
típ 2 có nồng độ insulin và C‐peptid trong giới
hạn bình thường.
Theo đề nghị của WHO năm 1998(26) sử dụng
điểm cắt giới hạn của chỉ số HOMA ‐ IR là tứ
phân vị trên của nhóm chứng làm tiêu chuẩn
chẩn đoán kháng insulin. Theo tính toán chúng
tôi có điểm cắt giới hạn của HOMA‐IR ở tứ phân
vị trên của nhóm chứng tính theo insulin là 1,14
và 1,54 tính theo C‐peptid, khi lớn hơn các giá trị
này thì được coi là có kháng insulin.
Khi khảo sát chỉ số kháng insulin HOMA2
‐IR trung bình ở nhóm ĐTĐ theo cặp ĐH‐
insulin là 1,82 ± 1,19μU/ml (nhóm chứng là
0,94 ± 0,42μU/ml), theo cặp ĐH‐C‐peptid là
3,06 ± 2,05μU/ml (nhóm chứng là 1,36 ±
0,43ng/ml). Chỉ số kháng insulin ở nhóm ĐTĐ
cao hơn nhóm chứng có ý nghĩa thống kê (p <
0,001), khi so sánh với chỉ số giới hạn HOMA‐
IR ở tứ phân vị trên của nhóm chứng cho thấy
kháng insulin ở bệnh ĐTĐ típ 2 mới được chẩn
đoán tính theo (ins) và (C‐pep) tăng 93,62% và
98,70% (p < 0,001). Các kết quả trên thấp hơn
so với kết quả nghiên cứu ở Malaysia(8) với 161
bệnh nhân ĐTĐ típ 2 mới được chẩn đoán cho
thấy HOMA‐IR ở nhóm nghiên cứu là 6,4 ±
5,3μU/ml so với nhóm chứng là 2,5 ±
1,5μU/ml, sự khác biệt này có thể do nhóm
78
chứng ở nghiên cứu Malaysia có nhiều yếu tố
nguy cơ gây kháng insulin như béo phì, béo
bụng, rối loạn lipid máu, trong khi ở nhóm
chứng trong nghiên cứu chúng tôi các yếu này
đã bị loại trừ và ở nhóm bệnh ĐTĐ cũng có
nhiều yếu tố nguy cơ hơn như tỉ lệ béo phì,
béo bụng, rối loạn lipid máu, tăng HA… đều
cao hơn so với nhóm bệnh ĐTĐ trong nghiên
cứu chúng tôi.
Chúng tôi ghi nhận có 68,3% bệnh nhân
ĐTĐ típ 2 mới được chẩn đoán có kháng insulin
nếu tính theo cặp HOMA ‐IR (ins) và 84,7%
bệnh nhân kháng insulin nếu tính theo cặp
HOMA ‐IR (Cpep) và tỉ lệ kháng insulin ở nhóm
ĐTĐ cao hơn nhóm chứng (p < 0,001) phù hợp
với kết quả nghiên cứu của tác giả Nguyễn Đức
Ngọ và cộng sự ghi nhận(15) có đến 81% bệnh
nhân ĐTĐ típ 2 có kháng insulin.
Ở nhóm ĐTĐ chức năng tế bào beta
HOMA2‐%B trung bình theo cặp ĐH‐insulin là
37,38 ± 32,13% và theo cặp ĐH‐Cpep là 51,91 ±
37,41% (nhóm chứng là 93,23 ± 32,96% và 122,21
± 50,16%) Để đánh giá chức năng tế bào beta đa
số các tác giả chọn điểm cắt X ± 1SD như theo
đề nghị của Tổ chức y tế thế giới, chúng tôi tính
được chỉ số giới hạn của HOMA2‐%B là 60,27 ‐
126,19% tính theo insulin và 72,05 ‐ 172,37% tính
theo C‐peptid. Khi so sánh với điểm cắt của các
chỉ số giới hạn trên, chúng tôi nhận thấy tại thời
điểm bệnh ĐTĐ típ 2 mới được chẩn đoán chức
năng tế bào beta giảm 51,91% tính theo insulin
và giảm 57,52% nếu tính theo C‐peptid, phù hợp
với kết quả nghiên cứu của tác giả Hui F.S. và
cộng sự(5) cho thấy chức năng tế bào beta giảm
53,3% so vói nhóm chứng.
Trong nghiên cứu chúng tôi ghi nhận tỉ lệ
bệnh nhân có giảm chức năng tế bào beta chiếm
82,2% nếu tính theo insulin và 76,9% nếu tính
theo C‐peptid, chỉ có 16% bệnh nhân có chức
năng tế bào beta còn trong giới hạn bình thường
nếu tính theo insulin và 22,4% nếu tínhtheo C‐
peptid. Điều này cũng phù hợp với nhận định
của nghiên cứu UKPDS(24) cho thấy chức năng tế
bào beta đã suy giảm nhiều năm trước khi có
Hội Nghị Khoa Học Công Nghệ BV. Nhân Dân Gia Định năm 2013
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Số 6 * 2013
tăng đường huyết do khiếm khuyết chức năng
tế bào beta của đảo tụy xảy rất sớm trước khi có
ĐTĐ và liên quan đến cơ chế điều hòa glucose
huyết và giảm nhạy cảm ở các mô.
Độ nhạy insulin chính là tỉ lệ phần trăm
nghịch đảo của kháng insulin, trên bệnh nhân
ĐTĐ típ 2 giảm chức năng tế bào beta, giảm độ
nhạy insulin và giảm khối lượng tế bào beta là
nét đặc trưng thường gặp trong sự phát triển
của bệnh, bởi vì hoạt động tiết insulin của tế bào
beta xảy ra liên tục và tế bào beta phải tiếp xúc
với nhiều loại tác động của các sản phẩm quá
trình glycat hóa như protein bị glycat hóa, tổn
thương hệ võng nội mô và bào tương(19). Khi
khảo sát chỉ số độ nhạy insulin HOMA2 ‐ %S
theo cặp GH ‐ insulin cho thấy chỉ số HOMA2‐
%S trung bình ở nhóm ĐTĐ là 80,09 ± 21,76%
(nhóm chứng là 125,78 ± 51,04%) và 44,22 ±
25,01% theo cặp ĐH‐C‐peptid (nhóm chứng là
80,09 ± 21,76%). Độ nhạy insulin ở nhóm ĐTĐ
thấp hơn nhóm chứng có ý nghĩa thống kê (p <
0,001) phù hợp với nhận định của tác giả Đỗ
Đình Tùng(4). Chúng tôi lấy điểm cắt giới hạn ở
nhóm chứng của HOMA2‐%S là X ± 1SD và
tính được chỉ số giới hạn của HOMA2‐%S (Ins)
là 74,74 ‐ 176,82% và của HOMA2‐%S (C‐pep) là
58,33 ‐ 101,85%, khi so sánh với chỉ số giới hạn
của HOMA2‐%S ở nhóm chứng chúng tôi nhận
thấy tại thời điểm bệnh ĐTĐ típ 2 mới được
chẩn đoán độ nhạy insulin giảm 36,32% nếu
tính theo cặp ĐH‐insulin và giảm 44,79% nếu
tính theo cặp ĐH‐Cpeptid. Chúng tôi ghi nhận
có đến 59,8% bệnh nhân ĐTĐ típ 2 tại thời điểm
mới được chẩn đoán có giảm độ nhạy insulin
nếu tính theo cặp ĐH‐insulin và 78,3% nếu tính
theo cặp ĐH‐Cpeptid, độ nhạy insulin còn bình
thường chỉ có 33,5% tính theo insulin và 17,4%
tính theo C‐peptid (Bảng 2).
Như vậy kết quả nghiên cứu chúng tôi với
281 bệnh nhân ĐTĐ típ 2 mới được chẩn đoán
tại bệnh viện Nhân dân Gia Định cho thấy cơ
chế bệnh sinh bao gồm kháng insulin và giảm
chức năng tế bào beta, tỉ lệ kháng insulin là
68,3% và 84,7%, giảm chức năng tế bào beta là
Nghiên cứu Y học
82,2% và 76,9% tính theo thứ tự insulin và C‐
peptid, không cái nào chiếm ưu thế hơn cái nào;
trong khi đó nhiều nghiên cứu ở Châu Á(3,9) thì
cho rằng rối loạn tiết insulin lại đóng vai trò
quan trọng trong cơ chế bệnh sinh của đái tháo
đường, ngược lại các nghiên cứu trên cộng đồng
dân da đỏ Pima và dân Mỹ gốc Mexico thì cho
rằng kháng insulin chiếm ưu thế hơn suy giảm
chức năng tế bào beta(21). Đây là kết quả lần đầu
tiên được ghi nhận, tại Việt Nam chưa có nghiên
cứu nào đề cập về vấn đề này. Tuy nhiên cần có
nhiều nghiên cứu với cỡ mẫu lớn hơn để làm
sáng tỏ thêm cơ chế bệnh sinh vốn rất phức tạp
của bệnh đái tháo đường.
KẾT LUẬN
Qua nghiên cứu 281 trường hợp bệnh nhân
đái tháo đường típ 2 mới chẩn đoán chúng tôi
thu được kết quả như sau:
Bệnh đái tháo đường típ 2 thường gặp 50 ‐
59 tuổi, tăng HA chiếm 45,2%, RLLM 86,8%, béo
phì 33,1%, béo bụng 56,9%, HCCH 42%.
Tại thời mới chẩn đoán, nồng độ insulin
máu và C‐peptid ở nhóm ĐTĐ cao hơn nhóm
chứng (p < 0,001), tăng insulin máu chiếm 43,8%
và tăng C‐peptid là 54,8%, kháng insulin tăng
93,62% và 98,7%, giảm chức năng tế bào beta là
59,91% và 57,52%, độ nhạy insulin giảm 36,32%
và 44,79%; tỉ lệ bệnh nhân kháng insulin chiếm
68,3% và 84,7% và giảm chức năng tế bào beta
chiếm 82,2% và 76,9% tính theo thứ tự insulin và
C‐peptid.
Cơ chế bệnh sinh bao gồm kháng insulin và
giảm chức năng tế bào beta tương đương nhau,
khác biệt không có ý nghĩa thống kê.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.
2.
3.
Anuurad E et al. (2003), “The new BMI criteria for Asians by the
regional office for the Western Pacific region of WHO are
suitable for screening of overweight to prevent metabolic
syndrome in elder Japanese workers”. Journal of Occupation
health, 45 (6), pp. 335 ‐ 343.
Centers for Disease Control and Prevention (2011). “National
diabetes fact sheet: National estimates and general information
on diabetes and prediabetes in the United States, 2011”, Atlanta,
GA: U.S. Department of Health and Human Services, Centers for
Disease Control and Prevention.
Deerochanawong C (2010), “Insulin secretion and insulin
Hội Nghị Khoa Học Công Nghệ BV. Nhân Dân Gia Định năm 2013
79
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Số 6 * 2013
Nghiên cứu Y học
4.
5.
6.
7.
8.
9.
10.
11.
12.
13.
14.
15.
80
sensitivity in Asian type 2 diabbetees”, In: Abstract book ‐ 2010
IDF WPR Congress, 119.
Đỗ Đình Tùng (2008), Nghiên cứu chức năng tế bào β, độ nhạy
insulin qua Computer Homeostatic Model Assessment (HOMA2) ở
người bệnh đái tháo đường type 2 được chẩn đoán lần đầu, Luận văn
Thạc sĩ Y học.
Effective Health Care (1999), “Complication of diabetes.
Screening for retinopathy management of foot ulcer”, The Royal
Society of Medecine Press Limited, 6 (1), pp. 3 ‐ 4.
Grundy SM et al. (2004), “NCEP Report: Implications of recent
clinical trials for the National Cholesterol Education Program
Adult Treatment Panel III Guidelines”, Circulation, 110, pp. 227 ‐
239.
Harkless L et at (1998), “The diabetic foot”, Ralph AF, Current
therapy of diabetes mellitus. Mosby, pp. 195 ‐ 196.
Hui FH et al. (2011), Insulin resistance is the predominant
pathophysiologic feature of hyperglycemia in newly diagnosed
overweight and obese type 2 diabetes mellitus in two university
hospitals in Malaysia”, JAFES, 26 (2), pp. 143 ‐ 149.
Inoue S et at (2002), “The Asia ‐ Pacific perspective: Redefining
obesity and its treatment”, Health Communications Australia Pty
Limited, pp. 18 ‐ 25.
International Diabetes Federation (2006), “The IDF consensus
worldwide definition of the metabolic syndrome”, IDF
Communications.
Kahn SE (2003), “The relative contributions of insulin resistance
and beta ‐ cell dysfuntion to the pathophysiology of type 2
diabetes”, Diabetologia, 46, pp. 3 ‐ 19.
Kuznar W (2009), “Insulin resistance, beta ‐ cell dysfunction
start several years before diabetes diagnosis”, Nguồn: Medical
Economic,
Địa
chỉ
truy
cập:
/>Medicine+Conference+News/ADA‐2009‐Insulin‐resistance‐
beta‐cell‐dysfunction‐ArticleStandard/Article/detail/602343,
Modern Medecine, ngày truy cập: 08/09/2009.
Lee S et al. (2006), “Cutoff values of surrogate measures of
insulin resistance for metabolic syndrome in korean non‐
diabetic adults”, J Korean Med Sci, Vol.21(4), 695 ‐ 700.
NIH (2003), “JNC 7 Express: The Seventh report of the joint
National Committee on: Prevention, Detection, Evaluation, and
Treatment of high blood pressure” NIH publication No 03 5233.
Nguyễn Đức Ngọ (2008), Nghiên cứu tình trạng kháng insulin ở
bệnh nhân nam đái tháo đường týp 2 có rối loạn lipid máu, Luận án
tiến sĩ y học.
16. Nguyễn Thị Thịnh và cs (2001), “Tình hình đặc điểm bệnh ĐTĐ
ở tỉnh Hà Tây”, Kỷ yếu toàn văn các đề tài khoa học, Đại hội
“Nội tiết ‐ Đái tháo đường Việt Nam” lần thứ nhất ‐ Hà Nội, NXB Y
học Hà Nội, tr. 348 ‐ 349.
17. Nguyễn Thu Minh và cs (2003), “Nghiên cứu một số biến
chứng mạn tính gặp ở bệnh nhân ĐTĐ tập 2 tại bệnh viện đa
khoa Trung ương Thái Nguyên”, Hội nghị khoa học toàn quốc lần
II, NXB Y học, tr. 73 ‐ 79.
18. Nguyễn Thy Khuê (2007), “Bệnh đái tháo đường”, Nội tiết học
đại cương, NXB Y học TPHCM, tr. 373 ‐ 449.
19. Paterson KR et al. (1993), “Population screening for diabetes
mellitus. Professional Advisory Committee of the British
Diabetic Association”, Diabet Med, 10 (8), pp. 777 ‐ 781.
20. Phạm Đình Tuấn (2003), “Khảo sát tỉ lệ ĐTĐ trong cộng đồng
dân cư Tp Long Xuyên, tỉnh An Giang”, Y học Tp Hồ Chí Minh,
Chuyên đề Nội tiết, 7 (1), tr. 17.
21. Romero JE et al. (2010), “Differences in Insulin Resistance in
Mexican and U.S. Pima Indians with Normal Glucose
Tolerance” The Journal of Clinical Endocrinology &
Metabolism. 95(11), E358 ‐ E362.
22. Tô Văn Hải và cs (2003), “Điều tra dịch tễ học bệnh ĐTĐ ở
người từ 16 tuổi trở lên thuộc 3 quận, huyện Hà Nội”, Hội nghị
khoa học toàn quốc lần II, NXB Y học, tr. 12 ‐ 17.
23. The Oxford Center for Diabetes, “Endocrinology and
Metabolism,
“HOMA
caculator:
Home
page”,
/>24. UKPDS (1995), “U.K. Prospective Diabetes Study 16. Overview
of 6 years’ therapy of type II diabetes: a progressive disease”,
Diabetes, 44, pp. 1249 ‐ 1258.
25. Ullrich S et al. (2011), “Beta cell death”, In: The European
Association for the study of diabetes, Abstract Volume 47thAnnual
meeting, S 205.
26. World Health Organization (1999), “Definition, diagnosis and
classification of diabetes mellitus and its complications: Report
of a WHO consultation. Part 1: Diagnosis and classification of
diabetes mellitus”. Geneva, World Health Org, pp. 31 ‐ 33.
Ngày nhận bài báo: 15/8/2013
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 17/12/2012
Ngày bài báo được đăng: 10/12/2013
Hội Nghị Khoa Học Công Nghệ BV. Nhân Dân Gia Định năm 2013