Tải bản đầy đủ (.pdf) (5 trang)

Nang ống Nuck: Hình ảnh siêu âm và chụp cắt lớp (Nhân một trường hợp được phát hiện tại Bệnh viện E)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (373.24 KB, 5 trang )

TẠP CHÍ Y - DƯỢC HỌC QUÂN SỰ SỐ 4-2013

NANG ỐNG NUCK: HÌNH ẢNH SIÊU ÂM VÀ CHỤP CẮT LỚP.
NHÂN MỘT TRƯỜNG HỢP ĐƯỢC PHÁT HIỆN TẠI BỆNH VIỆN E
Nguyễn Trường Đức*; Hữu Hoài Anh*
Vũ Hồng Anh*; Trần Đình Dưỡng**
TÓM TẮT
Nang của ống Nuck là một bệnh lý hiếm gặp ở nữ giới do sự bít tắc không hoàn toàn của ống Nuck,
dẫn tới tích đọng dịch và tạo nang trong ống bẹn. Siêu âm có vai trò quan trọng trong chẩn đoán xác
định và phân biệt bệnh lý này. MRI và CT giúp xác định những trường hợp siêu âm không rõ.
Nhân một trường hợp được chẩn đoán nang của ống Nuck trên siêu âm và CT tại Bệnh viện E
được chúng tôi ghi nhận đối chiếu với kết quả phẫu thuật và giải phẫu bệnh.
* Từ khóa: Nang ống Nuck; Siêu âm; Chụp cắt lớp.

cyst of the canal of nuck: ultrasonographic image
and ct-scanner: A case diagnosed at e hospital
Summary
Hydrocele (or cyst) of the canal of Nuck is a rare disease in females, resulting from incomplete
obliteration of the canal and entrapment of fluid in the inguinal canal. Ultrasonography plays an important
role in diagnosis, determination and differentiate from the other diseases with inguinal swelling. MRI
and CT-scan can help identify an inguinal cystic mass when sonographic findings are not clear.
We report a case of hydrocele of the canal of Nuck that was diagnosed with ultrasonography and
CT-scan, and then compared with surgery and pathology result at E Hospital.
* Key words: Hydrocele of canal of Nuck; Ultrasonography; CT-scan.

ĐẶT VẤN ĐỀ
Trong thời kỳ bào thai hình thành bộ
phận sinh dục nữ, một phần của phúc mạc
lõm xuống di chuyển theo dây chằng tròn
chui qua lỗ bẹn sâu vào ống bẹn ra lỗ bẹn
nông và tận cùng ở môi lớn tạo thành ống


phúc mạc gọi là ống Nuck. Bình thường
ống này bị tắc trong khoảng một năm đầu,
khi có biểu hiện không bít tắc hoặc bít tắc

từng đoạn kèm theo nguyên nhân nào đó
làm mất cân bằng bài tiết, hấp thu ở phúc
mạc trong lòng của ống Nuck, dẫn tới tích
tụ dịch tạo thành nang gọi là nang của ống
Nuck. Các nguyên nhân gây tăng tiết hoặc
giảm hấp thu có thể là: viêm nhiễm, chấn
thương, do bạch mạch… Ống Nuck nằm
phía trước dây chằng tròn, có cấu tạo lớp
trong cùng là phúc mạc thành, sau đó là tổ
chức mỡ và có rất ít mạch máu [1, 4, 7].

* Bệnh viện E
* Bệnh viện 103
Chịu trách nhiệm nội dung khoa học: GS. TS. Hoàng Văn Lương
GS. TS. Lê Trung Hải

132


TẠP CHÍ Y - DƯỢC HỌC QUÂN SỰ SỐ 4-2013
Dấu hiệu lâm sàng chủ yếu là có khối u
mềm ở vùng bẹn, không di động, ấn không
xẹp, một số ít BN có triệu chứng đau tại
khối u. Dựa vào lâm sàng để chẩn đoán
chính xác trước mổ gặp nhiều khó khăn, dễ
nhầm với các bệnh lý khác cũng có khối u ở

vùng bẹn. Do vậy, đa số BN được chẩn
đoán xác định sau mổ [5]. Chẩn đoán hình
ảnh (đặc biệt là siêu âm Dopper) có vai trò
rất quan trọng để chẩn đoán xác định, ngoài
ra nó còn có giá trị cao trong chẩn đoán
phân biệt nang ống Nuck với các bệnh lý
khác. Một số tác giả đã mô tả hình ảnh siêu
âm và cộng hưởng từ, cắt lớp của nang
Nuck là nang có vỏ mỏng được tưới máu
rất ít, hình ống, xúc xích, quả tạ hoặc hình
dấu phẩy [1, 3, 4, 6, 7]. Nhờ đó, BN được

Hình ảnh siêu âm.
* Hình ảnh CT-scan:
Cấu trúc dạng nang dịch tỷ trọng 1 - 5 HU,
ranh giới rõ, không xâm lấn thành ống bẹn,
kích thước 32 x 29 mm, nằm phía dưới của
dây chằng tròn trong ống bẹn phải. Kết luận:
hình ảnh nang của ống Nuck bên phải.

chẩn đoán chính xác trước mổ [4].
Tháng 1 - 2013 tại Bệnh viện E, một BN
được chẩn đoán trên siêu âm và chụp CT
nang ống Nuck, sau đó đối chiếu với kết
quả phẫu thuật và giải phẫu bệnh.
CA LÂM SÀNG
BN nữ Kim Thị T, 51 tuổi, vào viện với lý
do: đau vùng bẹn phải. BN tình cờ phát
hiện khối vùng bẹn phải trước khi vào viện
1 tháng, 1 ngày trước khi vào viện đau âm ỉ.

Thăm khám vùng bẹn phải có khối mềm
như quả trứng, ít di động, không to lên khi
ho rặn, ấn không nhỏ đi và đau tức nhẹ.
* Hình ảnh siêu âm:
Hình ảnh nang trống âm, có tăng âm
phía sau, thành mỏng, kích thước 44 x 24
mm nằm trong ống bẹn phải, ấn không xẹp.
Kết luận: Hình ảnh nang trong ống bẹn phải.

Hình ảnh chụp CT.

134


TẠP CHÍ Y - DƯỢC HỌC QUÂN SỰ SỐ 4-2013
* Phẫu thuật:
Chẩn đoán trước mổ: nang ống Nuck.
Mở bụng theo đường ngang bên phải 5 cm,
mở cân chéo lớn vào ống bẹn, nang nước
kích thước 41 x 29 mm, nằm trong ống bẹn
phía trước dây chằng tròn, hình như quả
trứng thuôn nhỏ lại ở lỗ bẹn sâu, vỏ mỏng,
ít mạch máu. Phẫu tích bóc toàn bộ nang,
cắt cổ nang đóng cân chéo lớn, da.

Nuck là bệnh lý rất hiếm gặp. Trên thế giới
có một số báo cáo, nhưng với số liệu BN rất
ít, trong nhiều năm chúng tôi cũng chỉ gặp
1 BN [4]. Dấu hiệu lâm sàng có u vùng bẹn
không di động, ranh giới rõ, ấn không xẹp,

đôi khi đau. Vì vậy, đa số tác giả cho rằng
chẩn đoán trước mổ rất khó khăn, dễ nhầm
với các bệnh lý có khối u vùng bẹn như:
thoát vị bẹn, thoát vị đùi, hạch vùng bẹn,
phình mạch, khối áp xe… [5]. BN của chúng
tôi cũng có khối u bẹn phải không di động,
ấn không xẹp và có đau. Do vậy, chúng tôi
cân nhắc rất kỹ để chẩn đoán phân biệt với
thoát vị bẹn.
Các tác giả trên thế giới cho rằng chẩn
đoán hình ảnh, đặc biệt siêu âm Doppler rất
có giá trị trong chẩn đoán phân biệt nang
ống Nuck với các nguyên nhân khác [4].
* Hình ảnh siêu âm:

Hình ảnh phẫu thuật.
* Kết quả giải phẫu bệnh:
Đại thể: nang kích thước 41 x 29 mm,
trong lòng nước, vỏ mỏng.
Vi thể: thành nang là tổ chức xơ, mỡ.
BÀN LUẬN
Ống Nuck được mô tả lần đầu tiên bởi
Anton Nuck vào năm 1691. Nang của ống

Nang của ống Nuck thường hình ống, bầu
dục hoặc dấu phẩy, nằm trong ống bẹn, có
vỏ mỏng ít mạch máu, cấu trúc trống âm và
tăng âm phía sau nang, không xâm lấn
thành ống bẹn. Trong lòng nang có thể có
vách do di chứng của tổn thương viêm và

chảy máu, đôi khi có hình ảnh nang trong
nang. Có ít mạch trong và quanh nang, làm
biện pháp Valsalva không thấy thay đổi kích
thước và vị trí nang [1, 3, 7]. Qua siêu âm,
chúng tôi thấy nang trống âm, có tăng âm
phía sau, thành mỏng, kích thước 44 x 24
mm nằm trong ống bẹn phải, ấn không xẹp,
tương tự như mô tả của các tác giả. Chẩn
đoán nang ống Nuck, tuy nhiên để củng cố
thêm chẩn đoán chúng tôi thống nhất tiến
hành chụp CT để đối chiếu kết quả.
* Hình ảnh chụp CT:
Cấu trúc nang dịch đồng nhất, có thể có
vách, thành nang ít ngấm thuốc, nằm trong
ống bẹn lan tới môi lớn và không xâm lấn ra
thành ống bẹn [4, 6]. Trên hình ảnh chụp CT:

135


TẠP CHÍ Y - DƯỢC HỌC QUÂN SỰ SỐ 4-2013
trong ống bẹn ở phía trước dây chằng tròn
có cấu trúc dạng nang, tỷ trọng 1 - 5 HU,
ranh giới rõ, kích thước 32 x 29 mm, không
bắt thuốc cản quang, khối này không tiếp
giáp với quai ruột, các quai ruột không giãn.
Như vậy, hình ảnh này phù hợp với dấu
hiệu lâm sàng, hình ảnh siêu âm của nang
ống Nuck.
* Hình ảnh chụp MRI:

Cấu trúc dạng nang dịch tăng tín hiệu
trên T2 và giảm tín hiệu trên T1, vách trong
nang có ngấm thuốc nhẹ sau tiêm thuốc
tương phản từ, không xâm lấn thành ống
bẹn. Chụp cộng hưởng từ cũng có giá trị
chẩn đoán cao, tuy nhiên, tại Bệnh viện
chúng tôi chưa có máy, vì vậy chóng tôi chỉ
chụp CT [1, 2, 3].
Tiến hành hội chẩn và thống nhất chẩn
đoán nang của ống Nuck, chúng tôi chẩn đoán
loại trừ với thoát vị bẹn nghẹt không mổ cấp
cứu và để BN mổ theo chương trình. Kết quả:
trong mổ: nang nước kích thước 41 x 29 mm,
nằm trong ống bẹn phía trước dây chằng
tròn, hình quả trứng, thuôn nhỏ lại ở lỗ bẹn
sâu, vỏ mỏng và giải phẫu bệnh lý, đó là tổ
chức xơ, kết quả này hoàn toàn phù hợp
giữa lâm sàng, giải phẫu bệnh, siêu âm và
chụp cắt lớp.

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Edmund Soh, Kenneth Sheah, Keh Oon
Ong. Hydrocele of the canal of Nuck: Ultrasound
and MRI findings. Reports in Medical Imaging
2011, 4, pp.15-17.
2. S J Park, H K Lee, H S Hong, H C Kim, D
H Kim, and E J Shin. Hydrocele of the canal of
Nuck in a girl: ultrasound and MRI appearance.
The British Journal of Radiology. 2004, 77,
pp.243-244. DOI: 10.1259/bjr/51474597.

3. Safak AA, Erdogmus B, Yazici B, Gokgoz
AT. Hydrocele of the canal of Nuck: sonographic
and MRI appearances. J Clin Ultrasound. 2007,
35 (9), pp.531-532.
4. Ranjeet Jagdale, Saurabh Agrawal, Sarabjeet
Chhabra, Shehreen Youlaena Jewan. Hydrocele
of the canal of nuck: Value of Radiological Diagnosis
Case Reports. Journal of Radiology. 2012, Jun,
6 (6), pp.18-22.
5. YM Choi, et al. Two cases of female hydrocele
of the canal of Nuck. Korean J Pediatr. 2012, 55 (4),
pp.143-146.
6. YC Manjunatha, YC Beeregowda and A
Bhaskaran. Hydrocele of the canal of Nuck: imaging
findings. Acta Radiologica Short Reports 2012,
1:12. DOI: 10.1258 /arsr.2012.11 0016.
7. Walter H Stickel, Martin Manner. Female
hydrocele (Cyst of the Canal of Nuck) Sonographic
Appearance of a Rare and Little-Known Disorder.
J Ultrasound Med. 2004, 23, pp.429-432.

KẾT LUẬN
Nang ống Nuck là bệnh lý hiếm gặp ở nữ,
gợi ý chẩn đoán khi có khối u mềm vùng
bẹn không di động, ấn không xẹp.
Chẩn đoán hình ảnh có vai trò rất quan
trọng trong chẩn đoán xác định nang của
ống Nuck. Trên hình ảnh siêu âm, cộng
hưởng từ và cắt lớp, thấy: nang nằm trong
ống bẹn trước dây chằng tròn có vỏ mỏng

được tưới máu rất ít, hình ống, xúc xích,
quả tạ hoặc hình dấu phẩy.

Ngày nhận bài: 28/2/2012
Ngày giao phản biện: 25/3/2013
Ngày giao bản thảo in: 26/4/2013

136


TẠP CHÍ Y - DƯỢC HỌC QUÂN SỰ SỐ 4-2013

137



×