Tải bản đầy đủ (.pdf) (6 trang)

Đặc điểm procalcitonin trong chẩn đoán nhiễm trùng huyết sơ sinh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (322.58 KB, 6 trang )

Nghiên cứu Y học 

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014

ĐẶC ĐIỂM PROCALCITONIN TRONG CHẨN ĐOÁN  
NHIỄM TRÙNG HUYẾT SƠ SINH 
Trần Thị Lam*, Lâm Thị Mỹ** 

TÓM TẮT 
Đặt vấn đề: Chẩn đoán và điều trị sớm nhiễm trùng huyết (NTH) ở sơ sinh là rất cần thiết để ngăn ngừa 
những biến chứng nghiêm trọng, cải thiện tỷ lệ tử vong. Procalcitonin (PCT) được xem như một xét nghiệm 
giúp chẩn đoán sớm NTH. Ở Việt Nam chưa có nghiên cứu nào về PCT trong NTH sơ sinh. Nghiên cứu này 
nhằm mục đích khảo sát đặc điểm PCT trong chẩn đoán NTH ở trẻ sơ sinh. 
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu tiến cứu mô tả hàng loạt ca trong khoảng thời gian 
từ 10/2012 đến 04/2013 tại khoa sơ sinh Bệnh Viện Nhi Đồng 2. Tất cả các bệnh nhân nghi ngờ NTH sẽ được 
làm phết máu ngoại biên, CRP, cấy máu và PCT ngay lúc nhập viện và trước khi dùng kháng sinh. Bệnh nhân 
được  chia  làm  3  nhóm  tuỳ  theo  kết  quả  phết  máu,  CRP  và  cấy  máu:  nhóm  nhiễm  trùng  huyết  xác  định( 
NTHXĐ), nhóm nhiễm trùng huyết có thể( NTHCT) và nhóm không nhiễm trùng huyết( KNTH).  
Kết  quả:  Có 50 bệnh nhân được đưa vào nhóm nghiên cứu với 10 ca thuộc nhóm NTHXĐ, 10 ca thuộc 
nhóm NTHCT và 30 ca thuộc nhóm KNTH. PCT dương tính 90%( 9/10) ở nhóm NTHXĐ, 70% (7/10) ở nhóm 
NTHCT và 46,7% (14/30) ở nhóm KNTH. Giá trị trung vị của PCT ở NTHXĐ là 4,9ng/l (0,2‐36,7ng/l) cao 
hơn nhóm NTHCT là 2,3ng/l (0,1‐32,7ng/l) và thấp nhất ở nhóm KNTH là 0.4 ng/l (0,1‐11,6ng/l). Trong nhiễm 
trùng sơ sinh( NTSS) sớm, PCT dương tính 88,9% trong khi trong NTSS muộn là 100%. Tỷ lệ dương tính của 
PCT  trong  đủ  tháng  là  100%,  cao  hơn  so  với  non  tháng  là  85,7%.  So  với  các  xét  nghiệm  khác  trong  nhóm 
NTHXĐ,tỷ lệ dương tính của PCT là 90% (9/10), thay đổi số lượng bạch cầu là 60% (6/10), thay đổi tiểu cầu là 
40% (4/10), thay đổi chất lượng BC là 30% (3/10), CRP là 30% (3/10). 
Kết luận: PCT có tỷ lệ dương tính cao trong các ca NTHXĐ là 90% (9/10 ca). 
Từ khoá: nhiễm trùng huyết, nhiễm trùng huyết sơ sinh, Procalcitonin 

ABSRACT 
CHARACTERISTICS OF PROCALCITONIN IN DIAGNOSIS NEONATAL SEPSIS 


Tran Thi Lam, Lam Thi My * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 18 ‐ Supplement of No 1 ‐ 2014: 234 ‐ 239 
Background:  Early  diagnosis  and  treatment  neonatal  sepsis  are  very  important  to  prevent  critical 
complications and lower mortality rates. Procalcitonin has been known as a marker for early diagnosis sepsis. In 
Viet Nam, there haven’t been any researches about PCT in neonatal sepsis. The aim of this study is to describe the 
characteristics of Procalcitonin in diagnosis neonatal sepsis.  
Material  and  method:  Series  of  prospective  study  are  described  from  October  2012  to  April  2013  at 
Neonatology  Department  of  Children  Hospital  Number  2.  All  neonates  with  suspected  infection  would  be 
collected blood for peripheral blood smear, C‐reactive protein  (CRP),  blood  culture  and  PCT  at  admission  and 
before starting antibiotic treatment. Patients were categorised into three groups on basis of blood for peripheral 
blood smear, CRP and blood culture results: ‘definite sepsis’, ‘possible sepsis’ and ‘no sepsis’. 
Results: There were 50 patients in study divided into three groups: ‘definite sepsis’ (n=10), ‘possible sepsis’ 
(n=10) and ‘no sepsis’ (n=30). PCT were positive 90% (9/10) in definite sepsis group, 70% (7/10) in possible 
*Bệnh viện Nhi Đồng 2  ** Bộ môn Nhi, Đại học Y Dược TP. Hồ Chí Minh 
Tác giả liên lạc: Bs. Trần Thị Lam  ĐT: 0932684767 
Email:  

234

Chuyên Đề Sức Khỏe Sinh Sản và Bà Mẹ Trẻ em 


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014 

Nghiên cứu Y học

sepsis group and 46,7% (14/30) in no sepsis group. The median value of PCT in definite sepsis was 4,9ng/l (0.2‐
36.7ng/l), higher than in possible sepsis was 2.3ng/l (0.1‐32.7ng/l) and minimum in ‘no sepsis’ was 0.4ng/l (0.1‐
11.6ng/l). In early‐onset sepsis, PCT were positive 88.9% in other hand in late‐onset sepsis were 100%. Positive 
rates of PCT were 100% in term, higher than in preterm 85.7%. To compare to other markers in definite sepsis 
group, PCT were positive 90% (9/10), white blood cells count were 60% (6/10), platelet count were 40% (4/10), 

changes in white blood cell charisteristics were 30% (3/10) and CRP were 30% (3/10). 
Conclusions: PCT were strongly positive in denfinite sepsis group 90% (9/10). 
Keywords: sepsis, neonatal sepsis, Procalcitonin. 

ĐẶT VẤN ĐỀ 
Chẩn  đoán  và  điều  trị  sớm  nhiễm  trùng  sơ 
sinh  (NTSS)  nói  chung  mà  đặc  biệt  là  nhiễm 
trùng huyết (NTH) là rất cần thiết để ngăn ngừa 
những biến chứng nghiêm trọng, cải thiện tỷ lệ 
tử vong. Tuy nhiên, điều đó không dễ dàng bởi 
các biểu hiện lâm sàng nhiễm trùng ở trẻ sơ sinh 
thường  không  rõ  ràng  và  không  đặc  hiệu.  Kết 
quả  cấy  máu  được  xem  là  tiêu  chẩn  vàng  để 
chẩn đoán NTH lại thường mất nhiều thời gian, 
ít nhất là 48‐72 giờ và tỷ lệ dương tính còn thấp. 
Trong khi đó, công thức bạch cầu (BC), protein 
phản  ứng  C  (CRP)  vì  có  đặc  điểm  đơn  giản, 
nhanh chóng và kinh tế đã được sử dụng rộng 
rãi  trong  hỗ  trợ  chẩn  đoán  NTSS  tại  Việt  Nam. 
Tuy  nhiên,  CRP  và  số  lượng  bạch  cầu  đa  nhân 
trung  tính  (BCĐNTT)  chịu  ảnh  hưởng  của  rất 
nhiều  yếu  tố.  Cách  sanh,  giảm  bạch  cầu  máu, 
thời  điểm  làm  xét  nghiệm….  làm  giá  trị  CRP 
thay đổi. Còn số lượng BCĐNTTcũng chịu ảnh 
hưởng  của  cách  sanh,  ngày  tuổi,  sanh  non  hay 
đủ  tháng.  Những  điều  đó  làm  cho  giá  trị  chẩn 
đoán  của  CRP  và  BC  giảm  trong  nhiễm  trùng 
huyết  sơ  sinh  (NTHSS).  Gần  đây,  Procalcitonin 
(PCT) được nghiên cứu với nhiều giá trị hứa hẹn 
hơn  CRP,  BC  trong  chẩn  đoán  NTH(6,8).  PCT 

không  chịu  ảnh  hưởng  bởi  sự  giảm  BC  hạt, 
không hoặc ít thay đổi trong các đáp ứng viêm 
không do nhiễm khuẩn, tăng sớm hơn CRP khi 
có  tình  trạng  nhiễm  khuẩn  xảy  ra.  Theo 
JeanGuibourdenche,  PCT  có  độ  nhạy  87%,  đặc 
hiệu  90%,  giá  trị  tiên  đoán  dương  96%,  giá  trị 
tiên  đoán  âm  93%  so  với  CRP  lần  lượt  là  68%, 
80%, 81%, 72% trong chẩn đoán NTH sơ sinh(3). 
Tại  Việt  Nam  trong  nghiên  cứu  của  tác  giả  Lê 
Xuân  Trường  phân  biệt  viêm  màng  não  do  vi 

Nhi Khoa

trùng và không vi trùng ở người lớn thì PCT có 
giá trị chẩn đoán cao, PCT không tăng trong các 
bệnh lý nhiễm siêu vi và ký sinh trùng(5). Tác giả 
Nguyễn  Thị  Thanh  tiến  hành  mô  tả  về 
Procalcitonin  trong  hội  chứng  đáp  ứng  viêm 
toàn thân ở trẻ em đầu tiên ở Việt Nam cho thấy 
PCT  có  thể  phân  biệt  tình  trạng  nhiễm  khuẩn 
hay  không  nhiễm  khuẩn  trong  hội  chứng  đáp 
ứng  viêm  toàn  thân(9).  Cho  đến  nay,  chưa  có 
nghiên cứu nào về Procalcitonin ở những trẻ sơ 
sinh  nghi  ngờ  NTH  tại  Việt  Nam  được  tiến 
hành.  Chính  vì  những  điều  đó,  chúng  tôi  thực 
hiện  nghiên  cứu  này  để  tìm  hiểu  đặc  điểm  của 
PCT ở những ca sơ sinh nghi ngờ NTH.  

Mục tiêu nghiên cứu 
Khảo sát đặc điểm Procaclcitonin trong chẩn 

đoán nhiễm trùng huyết ở trẻ sơ sinh. 

ĐỐI TƯỢNG ‐ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
 Phương pháp 
Nghiên cứu tiến cứu mô tả hàng loạt ca. 

Đối tượng nghiên cứu 
Trẻ sơ sinh được chẩn đoán theo dõi NTH 
nhập  khoa  sơ  sinh  bệnh  viện  Nhi  Đồng  2  từ 
10/2012‐04/2013. 

Tiêu chí chọn mẫu 
Theo  phác  đồ  điều  trị  bệnh  lý  sơ  sinh  của 
Nhi Đồng 2, trẻ theo dõi NTH khi có các yếu tố 
nguy cơ và biểu hiện lâm sàng gợi ý NTH 

Tiêu chí loại trừ 
Trẻ đa dị tật 
Trẻ được điều trị kháng sinh trước đó.  
Cha  mẹ  hoặc  người  giám  hộ  không  đồng  ý 
làm xét nghiệm Procalcitonin. 

235


Nghiên cứu Y học 

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014
Acinobacter  Spp,  Staphylococcus  Coagulase  (‐)  và 
Burkhoderia Cepacia. 


3 nhóm bệnh nhân 
NTH xác định (NTHXĐ) khi có:  
‐ Yếu tố nguy cơ VÀ 
‐  Biểu  hiện  lâm  sàng  khi  nhập  viện  gợi  ý 
nhiễm trùng huyết VÀ 
‐ Có từ 2 cận lâm sàng dương tính (đã nêu ở 
trên) VÀ 
‐ Cấy máu dương tính. 

Tỷ lệ PCT dương tính ở các nhóm 
Bảng 1: Tỷ lệ PCT dương tính ở các nhóm 

NTH có thể (NTHCT) khi có: 

Đặcđiểm

‐ Yếu tố nguy cơ VÀ 
‐  Biểu  hiện  lâm  sàng  gợi  ý  nhiễm  trùng 
huyết VÀ 
‐ Có từ 2 cận lâm sàng dương tính (đã nêu ở 
trên) VÀ 
‐ Cấy máu âm tính. 
Không NTH (KNTH) khi có:  
‐ Yếu tố nguy cơ VÀ 
‐  Biểu  hiện  lâm  sàng  gợi  ý  nhiễm  trùng 
huyết VÀ 
‐ Có ít hơn 2 cận lâm sàng dương tính (đã 
nêu ở trên) VÀ 
‐ Cấy máu âm tính. 

PCT  dương  tính  khi  >0,5ng/l  và  được  đo 
bằng  phương  pháp  định  lượng  miễn  dịch  ánh 
sáng huỳnh quang hoá điện.  

KẾT QUẢ 
Trong  7  tháng  tại  Bệnh  Viện  Nhi  Đồng  2, 
từ tháng 10/2012 đến hết tháng 04/2013, chúng 
tôi  đã  khảo  sát  được  50  ca  có  đủ  tiêu  chuẩn 
đưa vào nhóm nghiên cứu. Chúng tôi ghi nhận 
kết quả sau: 
Dịch tễ: nhóm NTHXĐ có tỷ lệ sanh non là 
70% (7/10), mẹ bệnh lý lúc sanh là 80% (8/10 ca). 
Lâm  sàng:  NHTXĐ  có  các  triệu  chứng 
thường  gặp  là  tiêu  hoá  100%  (10/10),  thần  kinh 
80% (8/10), ổ nhiễm trùng khu trú 60% (6/10). 
Cận lâm sàng: NTHXĐ có xét nghiệm thay đổi 
số lượng BC, CRP và lactate có tỷ lệ dương tính lần 
lượt  là  60%,  30%  và  70%.  Kết  quả  cấy  máu  của 
nhóm NTHXĐ chủ yếu làE.Coli chiếm 50%, còn lại 
là  Klebsiella  pneumoniae,  Enterobacter  Cloacae, 

236

Điều trị: 100% các ca được dùng kháng sinh 
ngay  từ  đầu  với  chủ  yếu  là  công  thức 
Cefotaxim+  Ampicillin  (56%)  và  Cefotaxim+ 
Ampicillin+  Amikacin  (40%).  Thời  gian  điều  trị 
kháng sinh ở nhóm NTHXĐ là 18,5 ngày 

NTHXĐ NTHCT

n=10 (%) n=10 (%)

KNTH
n=30 (%)

Tổng
N=50 (%)

PCT> 0,5ng/l 9/10 (90) 7/10 (70) 14/30 (46,7) 30/50 (60)

Tỷ  lệ  PCT  dương  tính  cao  nhất  ở 
nhómNTHXĐ  là  9/10  ca  (90%),  kếđếnlà  nhóm 
NTHCT với 7/10 ca (70%), cao hơn nhómKNTH14/30 
ca (46,7%).  

Giá trị trung vị của PCT ở các nhóm 
Bảng 2: Giá trị trung vị của PCT ở các nhóm 
NTHXĐ
NTHCT
KNTH
Đặcđiểm Trung vị (giới Trung vị (giới Trung vị (giới
hạn)
hạn)
hạn)
PCT (ng/l) 4,9 (0,2-36,7) 2,3 (0,1-32,7) 0,4 (0,1-11,6)

Giá trị trung vị của PCT ở NTHXĐ là 4,9ng/l 
(0,2‐36,7ng/l)  cao  hơn  nhóm  NTHCT  là  2,3ng/l 
(0,1‐32,7ng/l)  và  thấp  nhất  ở  nhóm  KNTH  là 
0,4ng/l (0,1‐11,6ng/l).  


Tỷ  lệ  PCT  dương  tính  theo  ngày  tuổi 
phát bệnh 
Bảng 3: Tỷ lệ PCT dương tính theo ngày tuổi 
phát bệnh 
Đặcđiểm

NTHXĐ NTHCT
KNTH
n=10 (%) n=10 (%) n=30 (%)

Tổng
N=50 (%)

PCT>0,5ng/l
<7 ngày 8/9 (88,9) 6/6 (100) 8/13 (61,5) 22/28 (78,6)
≥7 ngày 1/1 (100) 1/4 (25) 6/17 (35,3) 8/22 (36,4)

Nhìn  chung,  tỷ  lệ  số  ca  có  PCT  >  0,5  ng/l  ở 
nhóm  <7  ngày  cao  hơn  nhóm≥7  ngày.  Sự  khác 
biệt này có ý nghĩa thống kê (χ2= 6,5; P=0,01). 
Nhóm  NTHXĐ  PCT  dương  tính  trong8/9 
ca  <  7  ngày  và  1/1  ca  ≥7  ngày  cũng  có  PCT 
dương  tính.  Tỷ  lệ  dương  tính  của  PCT  trong 
nhóm  NTHCT  và  KNTH  ở  trẻ  <  7  ngày  cao 
hơn nhóm ≥7 ngày. 

Chuyên Đề Sức Khỏe Sinh Sản và Bà Mẹ Trẻ em 



Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014 
Tỷ  lệ  PCT  dương  tính  ở  các  nhóm  theo 
tuổi thai 
Tỷ  lệ  trẻ  có  PCT  >  0,5ng/l  ở  nhóm  non 
tháng  (15/27  ca)  thấp  so  với  đủ  tháng  (15/23 
ca). Trong nhóm NTHXĐ thì tỷ lệ PCT>0,5 ng/l 
ở trẻ đủ tháng cao hơn trẻ non tháng. Điều này 
cũng  giống  nhóm  KNTH  và  trái  ngược  với 
nhóm NTHCT. 

Nghiên cứu Y học

Bảng4: Tỷ lệ PCT dương tính ở các nhóm theo tuổi 
thai 
Đặcđiểm

NTHXĐ NTHCT
KNTH
n=10 (%) n=10 (%) n=30 (%)

Tổng
N=50 (%)

PCT>0,5 ng/l
<37 tuần 6/7 (85,7) 3/4 (75) 6/16 (37,5) 15/27 (55,6)
≥37 tuần 3/3 (100) 4/6 (66,7) 8/14 (57,1) 15/23 (65,2)

Tỷ lệ dương tính của BC, TC, CRP, PCT ở các nhóm 
Bảng 5. Tỷ lệ dương tính của BC, TC, CRP, PCT ở các nhóm 
Đặcđiểm

PCT> 0,5ng/l
Thay đổi số lượng BC
Thay đổi chất lượng BC
CRP ≥10mg/l
Thay đổi TC

NTHXĐ, n=10 (%)
9/10 (90)
6/10 (60)
3/10 (30)
3/10 (30)
4/10 (40)

NTHCT, n=10 (%)
7/10 (70)
5/10 (50)
4/10 (40)
4/10 (40)
2/10 (20)

Trong cả 2 nhóm NTHXĐ và nhóm NTHCT 
thì PCT luôn có tỷ lệ dương tính cao nhất so với 
các  xét  nghiệm  tầm  soát  NTHSS  khi  mới  vào 
viện. Trong khi đó, các xét nghiệm thường quy 
như CRP, chỉ số BC và TC thay đổi ít hơn và gần 
như nhau giữa nhóm NTHXĐ và NTHCT.  
Tỷ  lệ  các  xét  nghiệm  dương  tính  ở  nhóm 
NTHXĐ  và  NTHCT  cao  hơn  so  với  nhóm 
KNTH.  Không  có  ca  nào  thay  đổi  số  lượng  BC 
trong nhóm KNTH. 


BÀN LUẬN 
Từ bảng 1, chúng tôi nhận thấy tỷ lệ dương 
tính của PCT cao nhất ở nhóm NTHXĐ (90%), 
kế đến là nhóm NTHCT (70%) và thấp nhất là 
KNTH  (46,7%).  Ở  Việt  Nam,  chưa  có  nghiên 
cứu nào về PCT ở trẻ sơ sinh, chỉ có các nghiên 
cứu  ở  trẻ  lớn  hay  người  lớn.  Nghiên  cứu  tiến 
hành trên trẻ từ 2 tháng tuổi ở bệnh viện Nhi 
Đồng 2 của Nguyễn Thị Thanh (năm 2006) cho 
thấy  tỷ  lệ  PCT  dương  tính  trong  hội  chứng 
nhiễm  khuẩn  toàn  thân  là  86,6%,  cao  hơn 
nhóm  không  có  hội  chứng  nhiễm  khuẩn  toàn 
thân, 33,3% (P<0,001)(9). Trong một nghiên cứu 
trên  bệnh  nhân  người  lớn  tại  khoa  Nhiệt  Đới 
bệnh  viện  Chợ  Rẫy,  tác  giả  Lê  Xuân  Trường 
(năm  2009)  ghi  nhận  PCT  có  độ  nhạy  là 
88,61%, độ đặc hiệu là 88,52%, giá trị tiên đoán 
dương  là  90,91%(5).  Nhiều  nghiên  cứu  nước 

Nhi Khoa

KNTH, n=30 (%)
14/30 (46,7)
0/30 (0)
1/30 (3,3)
6/30 (20)
1/30 (3,3)

Tổng, N=50 (%)

30/50 (60)
11/50 (22)
8/50 (16)
13/50 (26)
7/50 (14)

ngoài cũng cho thấy PCT tăng cao trong nhóm 
nhiễm trùng huyết so với nhóm không nhiễm 
trùng(1,3,7).  Nghiên  cứu  tại  Ý  của  Chiesa  (năm 
1998)  trên  126  trẻ  bệnh  nặng  và  83  trẻ  khoẻ 
mạnh  cho  thấy  PCT  có  độ  nhạy  92,6%  và  độ 
đặc  hiệu  97,5%  trong  chẩn  đoán  NTHSS  sớm 
và  cả  hai  giá  trị  này  là  100%  trong  chẩn  đoán 
NTHSS muộn(1). Theo  Guibourdenche J et al, 
với  điểm  cắt  là  2,5ng/ml,  PCT  có  giá  trị  chẩn 
đoán  rất  cao,  với  độ  nhạy  87%,  độ  đặc  hiệu 
90%,  giá  trị  tiên  đoán  dương  86%,  giá  trị  tiên 
đoán âm 93%(3). Monneret et al nhận định PCT 
là  một  chỉ  tố  nhạy  trong  chẩn  đoán  NTHSS(7). 
Qua  các  nghiên  cứu  trên  cho  thấy  PCT  có  giá 
trị trong chẩn đoán NTHSS.  
Tuy  nhiên,  trong  nhóm  KNTH,  PCT  cũng 
dương  tính  khoảng  46,7%  các  trường  hợp.  Một 
số nghiên cứu chỉ ra rằng PCT không là một dấu 
ấn sinh học có độ nhạy và độ đặc hiệu cao giúp 
chẩn  đoán  sớm  NTHSS.  Các  nghiên  cứu  cho 
thấy nồng độ PCT tăng khi có thủ thuật hồi sức 
sau sanh, ngạt chu sinh, xuất huyết nội sọ, tràn 
khí  màng  phổi.  Chính  những  yếu  tố  đó  sẽ  làm 
giảm  độ  đặc  hiệu  của  PCT  trong  chẩn  đoán 

NTHSS sớm cho dù những thay đổi này chỉ làm 
tăng PCT không quá cao và thoáng qua(2). Đó là 
một trong những lý do khiến PCT không còn là 
một dấu ấn được lựa chọn hàng đầu trong chẩn 

237


Nghiên cứu Y học 

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014

đoán  NTHSS.  Tuy  nhiên,  các  nghiên  cứu  còn 
chưa thuần nhất, tiêu chí chọn mẫu và điểm cắt 
PCT  còn  khác  nhau  nhiều  nên  giá  trị  của  PCT 
trong NTHSS vẫn còn tiếp tục tranh cãi. Cần có 
thêm nghiên cứu về các yếu tố ảnh hưởng và chỉ 
ra giới hạn tham khảo nồng độ PCT để làm tiền 
đề cho các nghiên cứu về giá trị PCT trong NTH 
một cách thống nhất và thuyết phục. 
Giá  trị  trung  bình  của  PCT  ở  NTHXĐ  là 
5,62±7,2mg/l  cao  hơn  KNTH  (1,47±2,63  ng/l)  và 
thấp hơn NTHCT (11,09±14,24ng/l). Giá trị trung 
vị của PCT là 2,69 ng/l ở nhóm NTH cao hơn ở 
nhóm không NTH là 0,43 ng/l.  
Trị  số  trung  bình  hay  trung  vị  của  PCT  ở 
các nghiên cứu khác nhau cũng dao động khác 
nhau(4,3).  Tuy  nhiên,  điểm  chung  của  các 
nghiên cứu là nồng độ PCT ở nhóm NTH luôn 
cao  hơn  nhóm  không  NTH  một  cách  có  ý 

nghĩa thống kê. Sự khác nhau giữa các nghiên 
cứu có thể là do phương pháp định lượng, thời 
gian  và  đối  tượng  nghiên  cứu  khác  nhau.  Từ 
những  điều  đã  phân  tích  trên  đây,  chúng  tôi 
nhận thấy PCT có nhiều khả năng là một chỉ tố 
cận lâm sàng hữu ích,  hỗ trợ cho các  nhà  lâm 
sàng  trong  chẩn  đoán  và  xa  hơn  nữa  là  theo 
dõi,  điều  trị,  tiên  lượng  bệnh  nhân  nghi  ngờ 
NTH. Trong khuôn khổ nghiên cứu của mình, 
chúng  tôi  bước  đầu  có  cái  nhìn  về  trị  số  PCT 
giữa  các  nhóm  NTH  và  không  NTH  ở  trẻ  sơ 
sinh. Cần có nghiên cứu với cỡ mẫu lớn hơn để 
khẳng định giá trị PCT trong chẩn đoán NTH 
ở trẻ sơ sinh Việt Nam bởi mặc dù đã có nhiều 
nghiên  cứu  về  PCT  trên  thế  giới  nhưng  sự 
khác biệt nhiều về giá trị điểm cắt trên những 
đối tượng khác nhau khiến cho việc ứng dụng, 
so  sánh  và  giá  trị  PCT  bị  hạn  chế  trong 
NTHSS. 
Trong nhóm NTHXĐ, chúng tôi ghi nhận tỷ 
lệ  dương  tính  của  PCT  trong  NTSS  sớm  88,9%, 
NTSS  muộn  100%.  Đa  số  các  nghiên  cứu  đều 
cho thấy  vai  trò  của  PCT  trong  chẩn  đoán  sớm 
NTHSS, đặc biệt là NTSS muộn cũng như giá trị 
tiên  đoán  âm  rất  cao  (>90%)(3,10).  Theo  Emine 
Kocabaş(4),  PCT  có  nồng  độ  trung  bình  trong 

238

NTH  sớm  là18,7±29,1ng/l;  trong  NTH  muộn  là 

19,4±21,8ng/l.  Theo  Gendrel  et  al  thì  nồng  độ 
PCT không thay đổi đáng kể giữa các trẻ sơ sinh 
khoẻ mạnh và trẻ  lớn,  người  lớn.  Điều  này  trái 
ngược  với  ghi  nhận  của  Chiesa  et  al  và 
Monneret  et  al  rằng  PCT  thay  đổi  trong  48  giờ 
đầu sau sanh(1,7). Do đó, sự thay đổi của PCT có 
bị  ảnh  hưởng  của  ngày  tuổi  phát  bệnh  hay 
không thì còn cần nhiều nghiên cứu hơn nữa để 
có câu trả lời cho vấn đề này. 
Trong  NTHXĐ,  tỷ  lệ  dương  tính  của  PCT 
trong  đủ  tháng  là  100%,  cao  hơn  so  với  non 
tháng  là  85,7%.  Theo  Chiesa  et  al  thì  nồng  độ 
PCT  không  bị  ảnh  hưởng  bởi  các  yếu  tố  như 
cân nặng, tuổi thai và một số yếu tố khác ngoại 
trừ  đái  tháo  đường  thai  kỳ(1).  Tương  tự, 
Guibourdenche J et al cũng ghi nhận nồng độ 
PCT  ở  trẻ  không  nhiễm  trùng  cũng  không  bị 
ảnh hưởng bởi tuổi thai(3). Vậy yếu tố tuổi thai 
không  ảnh  hưởng  đến  kết  quả  PCT.  Đây  là 
một  điểm  thuận  lợi  để  ứng  dụng  PCT  trong 
chẩn đoán NTHSS. 
Từ bảng 5 chúng tôi thấy PCT luôn có tỷ lệ 
dương tính cao nhất so với các xét nghiệm khác 
tầm soát NTHSS khi mới vào viện. Trong nhóm 
NTHXĐ,  tỷ  lệ  dương  tính  của  PCT  nhiều  gấp 
gần 2,5 lần CRP, các thay đổi TC và chất lượng 
BC và gấp 1,5 lần so với thay đổi số lượng BC. 
Trong nghiên cứu của Guibourdenche J et al trên 
136 trẻ sơ sinh bị NTH và KNTH tại Pháp, PCT 
có giá trị chẩn đoán rất cao, với độ nhạy 87%, độ 

đặc  hiệu  90%,  giá  trị  tiên  đoán  dương  86%,  giá 
trị  tiên  đoán  âm  93%;  trong  khi  CRP  có  giá  trị 
thấp  hơn  trong  chẩn  đoán  NTH  với  các  giá 
tương  ứng  lần  lượt  là  68%,  80%,  81%,  72%(3). 
Nghiên cứu tại Hàn Quốc của Kim trên 77 bệnh 
nhân người lớn NTH có nhóm chứng cũng cho 
thấy độ nhạy của PCT (95%) cao hơn CRP (85%) 
trong chẩn đoán NTH. Monneret et al nhận thấy 
PCT  có  tương  quan  mức  độ  nhiễm  khuẩn,  sự 
thay đổi nồng độ PCT diễn ra nhanh hơn so với 
CRP(7).  Kết  quả  của  một  nghiên  cứu  phân  tích 
gọp cho thấy PCT là một chỉ điểm chính xác hơn 
CRP trong chẩn đoán phân biệt tình trạng nhiễm 

Chuyên Đề Sức Khỏe Sinh Sản và Bà Mẹ Trẻ em 


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014 
2.

khuẩn với tình trạng viêm không nhiễm khuẩn, 
phân biệt nhiễm khuẩn và siêu vi. Độ nhạy của 
PCT là 88% (95% KCT 80‐93%), so với 75% (KTC 
62‐84%  95%)  cho  nồng  độ  CRP.  Độ  đặc  hiệu 
cũng  cao  hơn  đáng  kể  so  với  CRP  là  81  % 
(95%KTC 67‐90%) so với 67% (95% KTC 56‐77%) 
(6).  Tuy  nhiên,  các  nghiên  cứu  khác  nhau  lại  có 
độ  nhạy,  độ  đặc  hiệu,  giá  trị  tiên  đoán  dương, 
giá trị tiên đoán dương khác nhau. Điều này có 
thể  do  sự  khác  nhau  về  đối  tượng  nghiên  cứu, 

tiêu chí phân chia nhóm, thời điểm khảo sát và 
điểm cắt PCT giữa các nghiên cứu.  

3.

4.

5.

6.

KẾT LUẬN 
PCT  có  tỷ  lệ  dương  tính  cao  trong  các  ca 
NTHXĐ.  Cần  có  thêm  nghiên  cứu  với  thời 
gian  và  cỡ  mẫu  lớn  hơn  về  giá  trị  PCT  trong 
nhiễm trùng sơ sinh để từ đó làm cơ sở cho chỉ 
định PCTtrong chẩn đoán ban đầu; hoặc phối 
hợp  PCT  vớicông  thức  máu  và  CRP  để  tăng 
cao mức độ chẩn đoán ở các trường hợp nặng, 
nghi ngờ NTH. 

TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1.

Chiesa  C,  et  al  (1998).  ʺReliability  of  procalcitonin 
concentrations  for  the  diagnosis  of  sepsis  in  critically  ill 
neonatesʺ. Clin Infect Dis, Mar; 26 (3), pp. 664‐72.  

7.
8.

9.

10.

Nghiên cứu Y học

Chiesa C, et al (2003). ʺC‐Reactive Protein, Interleukin‐6, and 
Procalcitonin in the Immediate Postnatal Period: Influence of 
Illness  Severity,  Risk  Status,  Antenatal  and  Perinatal 
Complications, and Infectionʺ. Clinical Chemistry; 49 (1), pp. 
60‐68. 
Guibourdenche  J,  et  al,(2002).  ʺBiochemical  markers  of 
neonatal  sepsis:  value  of  procalcitonin  in  the  emergency 
settingʺ. Ann Clin Biochem, 39 (2), pp. 130‐35. 
Kocabaş E, Sarikçioğlu A, et al,(2007). ʺRole of procalcitonin, 
C‐reactive  protein,  interleukin‐6,  interleukin‐8  and  tumor 
necrosis  factor‐α  in  the  diagnosis  of  neonatal  sepsisʺ.  The 
Turkish Journal of Pediatrics; 49, pp. 7‐20. 
Lê  Xuân  Trường,(2009).  ʺGiá  trị  chẩn  đoán  của  xét  nghiệm 
Procalcitonin trên bệnh nhân viêm màng nãoʺ. Tạp chí Y Học 
TPHCM, tập 13 (1), tr. 209‐1 
Mirjam  Christ‐Cr,  Beat  M  (2005).  ʺProcalcitonin  in  bacterial 
infections ‐hype, hope, more or less?ʺ. Swiss Med Wkly, 134 
pp. 451‐60. 
Monneret G, et al (1997). ʺProcalcitonin and C‐reactive protein 
levels in neonatal infectionsʺ. Acta Paediatr, 86 (2), pp. 209‐12.  
Ng PC (2004). ʺDiagnostic markers of infection in neonatesʺ. 
Arch Dis Child Fetal Neonatal Ed, 89, pp. 229–35. 
Nguyễn  Thị  Thanh  (2006).  Khảo  sát  sự  thay  đổi  Procalcitonin, 
CRP, bạch cầu máu trong hội chứng đáp ứng viêm toàn thân ở trẻ 

em tại bệnh viện Nhi Đồng 2. Luận  án  chuyên  khoa  2,  chuyên 
ngành Nhi. Đại học Y Dược T.PHCM. 
Yu Z, Liu J, et al (2010). ʺThe accuracy of the procalcitonin test 
for the diagnosis of neonatal sepsis: a meta‐analysis.ʺ. Scand J 
Infect Dis, 42(10), pp. 723‐33. 

 
Ngày nhận bài báo:  

 

 

30/10/2013 

Ngày phản biện nhận xét bài báo:  

05/11/2013 

Ngày bài báo được đăng:  

05/01/2014 

 

 

Nhi Khoa

239




×