Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 3 * 2013
Nghiên cứu Y học
KHẢO SÁT ĐẶC ĐIỂM GIẢI PHẪU BỆNH VÀ ĐỘT BIẾN GEN EGFR
TRONG 116 TRƯỜNG HỢP UNG THƯ PHỔI KHÔNG TẾ BÀO NHỎ
Trần Minh Thông*, Phạm Hùng Vân**, Đoàn Trọng Nghĩa*, Nguyễn Thúy Hằng*
TÓM TẮT
Tổng quan: Ung thư phổi chiếm tỉ lệ cao nhất và cũng là nguyên nhân tử vong hàng đầu trong tất cả
các bệnh ung thư. Phần lớn ung thư phổi là loại không tế bào nhỏ và loại tế bào nhỏ. Ung thư phổi thường
cho di căn rất sớm đến các hạch trung thất và các cơ quan ngoài phổi khác, đặc biệt là não và tủy xương.
Điều trị ung thư phổi không tế bào nhỏ với hóa trị đơn thuần đã không đem lại nhiều hiệu quả. Tuy nhiên,
đối với những bệnh nhân ung thư phổi không tế bào nhỏ có đột biến EGFR, nếu được điều trị với các thuốc
ức chế tyrosin kinase của EGFR sẽ cải thiện đáng kể hiệu quả điều trị. Do đó, ngày này việc chẩn đoán phát
hiện đột biến EGFR trong ung thư phổi đóng vai trò rất quan trọng trong việc lựa chọn phác đồ điều trị
nhắm trúng đích phân tử cho bệnh nhân.
Mục tiêu nghiên cứu: Khảo sát đặc điểm giải phẫu bệnh và đột biến gen EGFR của ung thư phổi không tế
bào nhỏ từ tháng 06‐2010 đến tháng 02‐2012 tại bệnh viện Chợ Rẫy.
Phương pháp nghiên cứu: hồi cứu mô tả hàng loạt ca.
Kết quả: Tỷ lệ nam/nữ = 1,8/1. Khoảng tuổi mắc bệnh từ 30 đến 89, độ tuổi trung bình 55, trên 50 tuổi
chiếm đa số (85,96%).Tỉ lệ đột biến gen EGFR là 54,3%. Đột biến thường gặp ở bệnh nhân nữ (66%), loại
mô học carcinôm tuyến (54%). Hai loại đột biến thường gặp nhất là mất đoạn ở exon 19 (38%) và L858R ở
exon 21 (27%).
Kết luận: Xét nghiệm phát hiện đột biến EGFR là một xét nghiệm quan trong và nên được thực hiện
thường quy.
Từ khóa: carcinôm phế quản phổi nguyên phát, ung thư phổi không tế bào nhỏ, đột biến gen EGFR.
ABSTRACT
RETROSPECTIVE STUDY OF HISTOPATHOLOGICAL FEATURES & EPIDERMAL GROWTH
FACTOR RECEPTOR (EGFR) MUTATIONS OF 116 NON‐SMALL CELL LUNG CANCER CASES
Tran Minh Thong, Doan Trong Nghia, Tran Thi Thuy Hang, Nguyen Thuy Hang
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 17 ‐ Supplement of No 3 ‐ 2013: 68 ‐ 71
Background: Lung cancer is the most frequently diagnosed of all cancer and is the most common cause of
death due to malignant tumors. There are two main type of lung cancer, including non‐small cell lung cancer
(NSCLC) and small cell lung cancer. First‐line treatment of first‐line treatment of advanced NSCLC often
involves platinum‐based combination chemotherapy but this treatment continues to be restricted. However, in
patients with NSCLC and an activating mutation of the epidermal growth factor receptor (EGFR), targeted
treatment has undergone a significant change. Testing for mutations in EGFR is therefore an important step in
the treatment‐decision pathway.
Objective: To evaluate the histopathological features and EGFR mutations of 116 bronchial non‐small cell
carcinoma cases that were diagnosed at Cho Ray hospital between June 2010 and February 2012.
Study methods: Descriptive cross sectional study
* Khoa Giải phẫu bệnh, Bệnh viện Chợ Rẫy; ** Đại học Y Dược TP. HCM
Tác giả liên lạc: BSCKII. Trần Minh Thông,
ĐT: 0918202941
Email:
Chuyên Đề Giải Phẫu Bệnh
67
Nghiên cứu Y học
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 3 * 2013
Results: Our study group included male and female with ratio 1.8/1, patients aged between 40 to 69 years
with mean age of 55 years. Percentage of EGFR mutations is 54.3%. Mutations were more frequently found in
women (66%) and in those with adenocarcinomas (54%). The most common mutations were deletions in exon 19
(38%) and L858R in exon 21 (27%).
Conclusions: Testing for mutation in EGFR is crucial one and should be done routinely.
Keywords: primary bronchial carcinoma, bronchial non‐small cell carcinoma, EGFR mutations
ĐẶT VẤN ĐỀ
Ung thư phổi là bệnh lý ung thư thường
nhất và cũng là nguyên nhân tử vong hàng đầu
trong tất cả các bệnh ung thư(3). Theo Globocan
2008, trên thế giới, hàng năm có 1,61 triệu bệnh
nhân ung thư phổi chiếm tỉ lệ 12,7% với 1,38
triệu bệnh nhân tử vong(3). Tại Việt Nam, ung
thư phổi có xuất độ cao với tỉ lệ 24,6 bệnh nhân
/100.000 dân TP.HCM và 38,8 bệnh nhân
/100.000 dân Hà Nội.
Về mặt mô học, ung thư phổi được chia
thành hai nhóm chính là ung thư phổi không tế
bào nhỏ (chiếm tỉ lệ 60%) và ung thư phổi tế bào
nhỏ (chiếm tỉ lệ 14%)(2). Ung thư phổi không tế
bào nhỏ là một tập hợp mô học không đồng
nhất gồm bất cứ carcinôm phổi nào xuất phát từ
các tế bào biểu mô của các cuống phổi trung tâm
cho đến các phế nang tận cùng. Các loại thường
gặp là carcinôm tuyến, carcinôm tế bào gai và
carcinôm tế bào lớn. Các loại này thường được
xếp gộp vào vì việc chẩn đoán, xếp giai đoạn và
điều trị là tương tự nhau. Nhóm ung thư này
nói chung thường cho di căn rất sớm đến các
hạch trung thất và các cơ quan ngoài phổi khác,
đặc biệt là não và tủy xương. Điều trị bước một
trong ung thư phổi không tế bào nhỏ tiến xa là
hóa trị với phác đồ có cisplatin. Mặc dù đã có
nhiều nghiên cứu nhằm tối ưu hóa các phác đồ
điều trị nhưng việc điều trị với hóa trị đơn thuần
đã đem lại hiệu quả rất hạn chế(1). Tuy nhiên, đối
với những bệnh nhân ung thư phổi không tế
bào nhỏ có đột biến EGFR, nếu được điều trị với
các thuốc ức chế tyrosin kinase của EGFR sẽ cải
thiện đáng kể hiệu quả điều trị. Do đó, ngày này
việc chẩn đoán phát hiện đột biến EGFR trong
ung thư phổi đóng vai trò rất quan trọng trong
việc lựa chọn phác đồ điều trị nhắm trúng đích
phân tử cho bệnh nhân.
68
Đột biến gen EGFR trong ung thư phổi
không tế bào nhỏ được báo cáo lần đầu tiên năm
2004 trên nhóm bệnh nhân có đáp ứng với trị
liệu gefitinib(4). Đột biến xảy ra tại các exon 18 –
21. Trong đó, hai loại đột biến thường gặp nhất
là đột biến mất các nucleotid tại exon 19 (chiếm
48,2%) và đột biến thay thế các nucleotid tại
exon 21 (chiếm 42,7%)(8). Do các đột biến rất đa
dạng, kỹ thuật giải trình tự chuỗi DNA được
xem là tốt nhất để khảo sát các đột biến EGFR.
Việc lựa chọn và chuẩn bị mẫu cho xét
nghiệm phát hiện đột biến EGFR đóng vai trò
rất quan trọng để có kết quả chính xác. Phương
pháp lấy mẫu, vận chuyển mẫu rất khác nhau
đối với từng loại bệnh phẩm và cần phải được
thực hiện một cách bài bản để có được kết quả
xét nghiệm chính xác. Vai trò của giải phẫu bệnh
trong việc phát hiện đột biến EGFR cũng rất
quan trọng. Giải phẫu bệnh giúp chẩn đoán xác
định có phải là ung thư phổi không tế bào nhỏ
hay không và khoanh vùng có tế bào ung thư
trên lame hay chọn đúng bloc FFPE.
ĐỐI TƯỢNG – PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Đối tượng nghiên cứu
Khảo sát đặc điểm giải phẫu bệnh và đột
biến gen EGFR của ung thư biểu mô phế quản
phổi từ tháng 06‐2010 đến tháng 02‐2012 tại
bệnh viện Chợ Rẫy. Các bệnh phẩm lấy từ 3
đường: sinh thiết, phẫu thuật và dịch màng
phổi, tất cả các mẫu bệnh phẩm đều được chẩn
đoán xác định bằng nhuộm HE thường qui và
hóa mô miễn dịch, sau đó xác định đột biến
EFGR ở nhóm ung thư phổi không tế bào nhỏ
bằng phương pháp RT PCR với bộ kit EGFR
RGQ PCR dựa trên kỹ thuật Scorpion ARMS cua
Qiagen.
Chuyên Đề Giải Phẫu Bệnh
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 3 * 2013
Nghiên cứu Y học
Phương pháp nghiên cứu
Hồi cứu mô tả hàng loạt ca.
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
Đặc điểm dịch tễ học
Trong 116 bệnh nhân, khoảng tuổi mắc bệnh
là từ 30 đến 89, độ tuổi trung bình 55, trên 50
tuổi chiếm đa số (85,96%). Tỉ lệ nam/nữ là 1,8/1
(p=0,000).
Bảng 1. Tỉ lệ đột biến EGFR theo giới và theo mô học
Biểu đồ 1. Tỉ lệ các loại mô học trong mẫu nghiên
cứu
Tổng
Giới tính
Mô học
Nam Nữ Carcinôm Carcinôm Carcinôm
gai
gai tuyến tuyến
75
41 5 (4,3%) 5 (4,3%)
106
Tổng 116
(65%) (35%)
(91,4%)
36
27 2 (40%) 4 (80%) 57 (54%)
EGFR 63
dương (54,3%) (48%) (66%)
tính
39
14 3 (60%) 1 (20%) 49 (46%)
EGFR 53
(52%) (34%)
âm
tính
Đột biến EGFR
Trong nghiên cứu của chúng tôi, 63/116
bệnh nhân ung thư phổi không tế bào nhỏ có
mang đột biến EGFR, chiếm tỉ lệ 54,3%. Trong
đó, 24/63 trường hợp (38%) đột biến ở exon 19,
12/63 trường hợp (19,0%) đột biến ở exon 20,
19/63 trường hợp (30,1%) đột biến ở exon 21 và
8/63 trường hợp (12,7%) đột biến ở 2 exon
Đặc điểm giải phẫu bệnh
Về mặt mô học, loại giải phẫu bệnh thường
gặp nhất là carcinôm tuyến, chiếm tỉ lệ 91,4%.
Bảng 2. Các loại đột biến trong mẫu nghiên cứu theo mô học
Đột biến Del
Mô học
22
Carcinôm tuyến
0
Carcinôm gai
2
Carcinôm gai tuyến
Del, S768I, Ins. G719
S768I
L858R
L861Q
T790M
INS
TỔNG
7
0
1
3
1
0
16
0
1
2
0
0
2
0
0
5
1
0
57
2
4
Xét theo mô học, carcinôm gai tuyến có tỉ lệ
đột biến EGFR cao nhất (80% so với 40% của
carcinôm gai và 54% của carcinôm tuyến). Tuy
nhiên, do số mẫu của carcinôm gai và carcinôm
gai tuyến quá ít nên các sự khác biệt này là
không có ý nghĩa thống kê (p>0,05). Và cũng do
số bệnh nhân trong hai nhóm còn lại quá ít nên
trong nghiên cứu của mình, chúng tôi chỉ tập
trung phân tích nhóm các bệnh nhân carcinôm
tuyến. Trong carcinôm tuyến, các đột biến ở
exon 19 và 21 vần là những vị trí thường gặp
nhất với tỉ lệ lần lượt là 38,6% và 31,6%.
BÀN LUẬN
Các nghiên cứu hiện nay trên thế giới cho
thấy tỉ lệ đột biến EGFR trong ung thư phổi
Chuyên Đề Giải Phẫu Bệnh
không tế bào nhỏ rất khác nhau giữa các nghiên
cứu (tỉ lệ này có thể từ 8% đến 60% tùy theo
nghiên cứu)(1). Nguyên nhân là do tỉ lệ đột biến
này tùy thuộc vào nhiều yếu tố như chủng tộc,
giới tính, tiền căn hút thuốc và loại mô học.
Trong nghiên cứu của chúng tôi không ghi nhận
được yếu tố tiền căn hút thuốc nên chúng tôi sẽ
tập trung bàn luận vào ba yếu tố còn lại.
Trong nghiên cứu chúng tôi, tỉ lệ có đột
biến EGFR trong 116 bệnh nhân ung thư phổi
không tế bào nhỏ là 54,3%. Kết quả này phù
hợp với nhiều nghiên cứu được tiến hành ở
châu Á(5,6). Tỉ lệ này cao hơn nhiều so với các
nghiên cứu ở châu Âu. Theo Christian Boch và
cộng sự, tỉ lệ đột biến EGFR trong các bệnh
nhân ung thư phổi không tế bào nhỏ ở châu
69
Nghiên cứu Y học
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 3 * 2013
Âu là chỉ khoảng 4,9%(1). Theo một nghiêu cứu
khác được tiến hành trên 2105 bệnh nhân ở
Tây Ban Nha, tỉ lệ này cũng chỉ là 16,6 %(7).
Điều này càng cho thấy vai trò quan trọng của
xét nghiệm phát hiện của xét nghiệm phát hiện
đột biến EGFR ở bệnh nhân Việt Nam. Vì khác
với các bệnh nhân ở châu Âu, tỉ lệ đột biến
EGFR ở bệnh nhân châu Á nói chung và Việt
Nam nói riêng, tuy cao nhưng cũng chỉ nằm
trong khoảng 50‐60%, do đó nếu không thực
hiện xét nghiệm này thì khoảng 50% bệnh
nhân sẽ không nhận được kế hoạch điều trị
phù hợp với các thuốc nhắm trúng đích.
Trong nghiên cứu của chúng tôi, tỉ lệ bệnh
nhân nam/nữ là 1,8/1 (p=0,000). Nhưng ngược
lại, tỉ lệ bệnh nhân nữ có đột biến EGFR lại cao
hơn so với bệnh nhân nam (66% so với 48%,
p=0,0628). Mặc dù sự khác biệt này chưa đạt đến
mức có ý nghĩa thống kê (có thể do ảnh hưởng
của cỡ mẫu nhỏ) nhưng nhiều nghiên cứu đã
xác nhận sự khác biệt này giữa hai giới(1,6).
Một yếu tố khác ảnh hưởng đến tỉ lệ đột
biến EGFR trong ung thư phổi không tế bào nhỏ
là loại mô học. Trong nhiều nghiên cứu, tỉ lệ đột
biến EGFR của carcinôm tuyến cao hơn nhiều so
với các loại mô học khác không phải là carcinôm
tuyến. Theo y văn, tỉ lệ đột biến EGFR trong
carcinôm tuyến là khoảng 32%‐54%(1). Trong
nghiên cứu của chúng tôi, tỉ lệ này là 54% nghĩa
là rất phú hợp các y văn.
Về vị trí xảy ra đột biến thì exon 19 và exon
21 là hai vị trí thường gặp nhất. Cụ thể, hai loại
đột biến thường gặp nhất là mất đoạn ở exon 19
và đột biến điểm L858R với tỉ lệ lần lượt là 38%
và 27%. Kết quả này cũng phù hợp với rất nhiều
nghiên cứu tương tự trên thế giới(1,7).
KẾT LUẬN
Xét nghiệm xác định EGFR trong ung thư
phổi không tế bào nhỏ là xét nghiệm rất quan
trong vì nó giúp lựa chọn phù hợp cho bệnh
nhân. Do đó, xét nghiệm này nên thực hiện
thường quy. Đột biến thường gặp ở những bệnh
nhân nữ, loại mô học carcinôm tuyến. Vị trí đột
biến thường gặp là exon 19 và 21.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.
2.
3.
4.
5.
6.
7.
8.
Boch C, Kollmeier J, Roth A, et al (2013) “The frequency of
EGFR and KRAS mutations in non‐small cell lung
cancer(NSCLC): routine screening data for central Europe
from a cohort study”; BMJ Open 2013
File://seer.cancer.gov/csr/1975_2004/results_merged/sect_15_l
ung_bronchus.pdf
GLOBOCAN 2008. />Lynch TJ, Bell DW et al (2004) “Activating Mutations in the
Epidermal
Growth
Factor
Receptor
Underlying
Responsiveness of Non–Small‐Cell Lung Cancer to Gefitinib”;
N Engl J Med,350, pp. 2129‐2139
Mitsudomi T, Kosaka T, Yatabe Y (2006) “ Biological and
clinical implications of EGFR mutations in lung cancer”. Int J
Clin Oncol; 11; pp.190 –198
Mitsudomi T, Yatabe Y (2007) “Mutations of the epidermal
growth factor receptor gene and related genes as
determinants of epidermal growth factor receptor tyrosine
kinase inhibitors sensitivity in lung cancer”; Cancer Sci; vol.
98; pp. 1817–1824
Rosell R, Moran T, Queralt Cet al (2009) “Screening for
epidermal growth factor receptor mutations in lung cancer”;
N Engl J Med;361; pp. 958–67
Yamamoto H, Toyooka S, Mitsudomi T (2008). “Impact of
EGFR mutation analysis in non‐small cell lung cancer”; Lung
Cancer, Volume 63, Issue 3, pp. 315–321
70
Chuyên Đề Giải Phẫu Bệnh