Tải bản đầy đủ (.pdf) (6 trang)

Đánh giá lại tính hợp lý của chỉ định phẫu thuật và các biến chứng trong sử dụng ống ghép ở bệnh nhân lọc máu định kỳ tại Bệnh viện Thống Nhất

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (444.03 KB, 6 trang )

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 3 * 2013 

Nghiên cứu Y học

ĐÁNH GIÁ LẠI TÍNH HỢP LÝ CỦA CHỈ ĐỊNH PHẪU THUẬT  
VÀ CÁC BIẾN CHỨNG TRONG SỬ DỤNG ỐNG GHÉP Ở BỆNH NHÂN 
LỌC MÁU ĐỊNH KỲ TẠI BỆNH VIỆN THỐNG NHẤT 
Nguyễn Bách*, Đỗ Kim Quế  

TÓM TẮT 
Mở đầu và mục tiêu: Đánh giá lại tính hợp lý về nội khoa, ngoại khoa trong chỉ định phẫu thuật đặt ống 
ghép tại Khoa Thận‐Lọc máu, bệnh viện Thống Nhất, Tp HCM. Tìm hiểu các biến chứng sau mổ và trong quá 
trình sử dụng ống ghép ở bệnh nhân suy thận mạn lọc máu định kỳ tại Khoa Thận‐Lọc máu, bệnh viện Thống 
Nhất, Tp HCM. 
Đối tượng ‐ phương pháp nghiên cứu: Đây là nghiên cứu tiến cứu, cắt dọc. Trong số 96 bệnh nhân (BN) 
suy thận mạn (STM) giai đoạn 5 được mổ đặt ống ghép, có 32 BN được theo dõi dọc, liên tục trong khoảng thời 
gian 2002‐2012 đưa vào nghiên cứu. Tiêu chuẩn chọn bệnh: thoã mãn đủ 2 tiêu chuẩn: (1) BN STM giai đoạn 5 
được  bác  sĩ  ngoại  mạch  máu  chỉ  định  mổ  đặt  ống  ghép  tại  Khoa  Thận‐Lọc  máu,  bệnh  viện  Thống  Nhất,  Tp 
HCM; (2) BN được theo dõi liên tục trong suốt quá trình sử dụng ống ghép. Tiêu chuẩn loại trừ: BN được đặt 
mổ ống ghép tại bệnh viện Thống Nhất nhưng không được theo dõi liên tục. Xử lý và phân tích các số liệu: sử 
dụng các thuật toán thông thường với phần mềm thống kê SPSS 13.0.  
Kết  quả:  Tỷ lệ BN được đặt ống ghép sống thêm < 1 năm: 18,75%. Tỷ lệ BN được đặt ống ghép nhưng 
không cần chọc cả 2 kim trên ống ghép: 15,6%.  Tỷ lệ BN đã mổ ống ghép nhưng sau đó được mổ lại cầu nối 
động tĩnh mạch sử dụng được mạch tự thân: 15,6%. Tỷ lệ BN có các biến chứng như tắt ống ghép, nhiễm khuẩn 
cạnh ống ghép, lưu lượng qua ống ghép quá mạnh cần mổ lại và có triệu chứng thiếu máu nuôi bàn tay theo thứ 
tự là 15,6%; 12,5%; 12,5% và 3,1%. 
Kết luận: Qua theo dõi dọc, liên tục 32 bệnh nhân được phẫu thuật đặt ống ghép làm đường mạch máu để 
lọc máu định kỳ tại bệnh viện Thống Nhất, Tp Hồ Chí Minh, nghiên cứu này rút ra kết luận sau: Chỉ định phẫu 
thuật ống ghép chưa thực sự hợp lý có cả yếu tố thuộc về nội khoa và ngoại khoa. Về nội khoa, các điểm chưa hợp 
lý là tỷ lệ bệnh nhân được phẫu thuật chuẩn bị sẵn trước khi vào lọc máu định kỳ thấp (9,38%); có tỷ lệ bệnh 
nhân có thời gian sống thêm ngắn < 1 năm (18,75%). Về ngoại khoa, có tỷ lệ bệnh nhân sau phẫu thuật đặt ống 


ghép không phải chọc trên ống ghép (15,6%) và cũng có tỷ lệ bệnh nhân đã mổ ống ghép nhưng sau đó được mổ 
lại cầu nối động tĩnh mạch dùng được mạch tự thân (15,6%). Các biến chứng thường gặp khi sử dụng ống ghép 
theo thứ tự là tắt ống ghép, nhiễm khuẩn cạnh ống ghép và lưu lượng qua ống ghép mạnh.  
Từ khoá: lọc máu định kỳ, ống ghép, cầu nối động tĩnh mạch 

ABSTRACT 
REEVALUATING INDICATIONS OF ARTERIAL VENOUS GRAFT OPERATION AND 
COMPLICATIONS IN ITS USE IN CHRONIC HEMODIALYSIS PATIENTS  
IN THONG NHAT HOSPITAL 
Nguyen Bach, Do Kim Que 
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 17 ‐ Supplement of No 3‐ 2013: 113 ‐ 118  
Background  and  objectives:  Reevaluating  rationality  of  indication  regarding  to  AVG  operation  at 
* Khoa Nội thận ‐ Bệnh Viện Thống Nhất Tp HCM  
Tác giả liên hệ: TS.BS CKII Nguyễn Bách,
ĐT. 838640339.

Chuyên Đề Thận ‐ Niệu 

Email: 

113


Nghiên cứu Y học 

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 3 * 2013

department of nephrology and dialysis, Thong Nhat Hospital,  HCM  City.  Investigating  complications  of  post 
AVG operation and complications occurred during hemodialysis by AVG of these patients.  
Patients and methods: This is a prospective and cohort study. 32 CRF stage 5 indicated AVG operation at 

Thong Nhat hospital for hemodialysis and followed up continuously during period of 2002‐ 2012 were included. 
Statistical analysis: SPSS 13.0. 
Results:  Percentage  of  AVG  operation  patients  with  survival  time  less  than  one  year  was  18.75%. 
Percentage of AVG operation patients who were not inserted both two needles on graf was 15.6%. Percentage of 
AVG  operation  patients  who  were  reoperated  other  vascular  access  by  using  native  vein  (AVF)  was  15.6%. 
Percentage of AVG patients who occurred complications graft occlusion, infection, high flow through graft and 
hand ischemia was 15.6%; 12.5%; 12.5% and 3.1% respectively. 
Conclusions:  Indications  for  AVG  operation  were  not  rational  regarding  to  internal  and  sugical  aspects. 
Regaring to internal issues, unreasonable characteristics were vacsular access preperation, short survival time. 
As the surgical aspects were concerned, some patients were not needed inserting both two needles on graft and 
some other patients were reoperated other AVF with native vein. Complications during using AVG were graft 
occlusion, infection, high flow through graft and hand ischemia. 
Keywords: chronic hemodialysis, arterial venous graft 
hiện  nay  cho  thấy  kỷ  thuật  viên  của  các  trung 
ĐẶT VẤN ĐỀ 
tâm lọc máu chưa được hướng dẫn theo dõi, sử 
Theo khuyến cáo của hội thận – lọc máu thế 
dụng ống ghép đúng quy trình kỷ thuật.  
giới  năm  2008  (NKF  K/DOQI  vascular  access 
Có  điều  kiện  theo  dõi  liên  tục  bệnh  nhân 
clinical practice guidelines), phẫu thuật đặt ống 
trong  thời  gian  sử  dụng  ống  ghép  cho  phép 
ghép  ở  bệnh  nhân  suy  thận  mạn  lọc  máu  định 
đánh  giá  lại  chỉ  định  mổ  ống  ghép  trên  từng 
kỳ được chỉ định ở những bệnh nhân không thể 
bệnh  nhân  một  cách  chính  xác  hơn  cũng  như 
dùng mạch tự thân làm cầu nối động‐tĩnh mạch 
phân  tích  các  biến  chứng  trong  quá  trình  sử 
(chọn lựa hàng thứ 2). Tuy nhiên, việc áp dụng 
dụng ống ghép. Qua đó có thể thu được một số 

guideline này vào từng bệnh nhân cụ thể là rất 
kinh nghiệm giúp cho việc chỉ định phẫu thuật 
khó, nhất là vào thời điểm phẫu thuật do phần 
và  sử  dụng  ống  ghép  được  tốt  hơn  cho  những 
lớn bệnh nhân không được chuẩn bị sẵn đường 
bệnh nhân khác sau này. 
mạch máu và lại ở trong tình trạng chưa thuận 
Mục tiêu nghiên cứu  
lợi cho phẫu thuật mạch máu (như suy tim còn 
nặng, kiểm soát huyết áp, phù chưa tốt và chưa 
‐ Đánh giá lại tính hợp lý về nội khoa, ngoại 
rõ  thời  gian  tiên  lượng  sống  thêm)…  trong  khi 
khoa trong chỉ định phẫu thuật đặt ống ghép ở 
đó bác sĩ nội thận cần sớm có ngay đường mạch 
bệnh nhân lọc máu định kỳ. 
máu để lọc máu thay cho sử dụng catheter tạm 
‐ Tìm hiểu  các  biến  chứng  sau  mổ  và  trong 
thời với nguy cơ nhiễm trùng tăng cao theo thời 
quá  trình  sử  dụng  ống  ghép  ở  bệnh  nhân  lọc 
gian lưu catheter. Do vậy, việc quyết định phẫu 
máu định kỳ tại Khoa Thận‐Lọc máu, bệnh viện 
thuật  đặt  ống  ghép  trong  hoàn  cảnh  như  vậy 
Thống Nhất, Tp Hồ chí Minh. 
chắc chắn khó đạt được độ chính xác cao.  
Bên cạnh đó việc chăm sóc, sử dụng và theo 
dõi ống ghép đúng kỷ thuật cũng là một vấn đề 
quan  trọng,  quyết  định  thời  gian  sử  dụng  ống 
ghép  và  tỷ  lệ  xảy  ra  các  biến  chứng.  Hội  thận 
học ‐ Lọc máu cũng đưa ra các guideline hướng 
dẫn  cụ  thể  về  các  vấn  đề  trên.  Nhưng  thực  tế 


114

BỆNH NHÂN ‐ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
Bệnh nhân 

Trong  số  96  bệnh  nhân  (BN)  suy  thận  mạn 
(STM) giai đoạn 5 được mổ đặt ống ghép, có 32 
BN  được  theo  dõi  dọc,  liên  tục  trong  khoảng 
thời  gian  2002‐2012  đưa  vào  nghiên  cứu.  Tiêu 

Chuyên Đề Thận ‐ Niệu  


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 3 * 2013 

Nghiên cứu Y học

chuẩn chọn bệnh: thoả mãn đủ  cả 2 tiêu chuẩn 
sau 

Sử  dụng  aspirin,  clodopidogren  nếu  không 
có chống chỉ định(6).  

BN STM giai đoạn 5 được bác sĩ ngoại mạch 
máu  chỉ  định  mổ  đặt  ống  ghép  tại  Khoa  Thận‐
Lọc máu, bệnh viện Thống Nhất, Tp HCM. 

Theo dõi sát liều kháng đông trong lọc máu 
để điều chỉnh. 


BN  được  theo  dõi  liên  tục  trong  suốt  quá 
trình sử dụng ống ghép. 

Chỉ định đặt ống ghép cho BN STM lọc máu 
hợp lý:  

Tiêu chuẩn loại trừ: bệnh nhân được đặt mổ 
ống  ghép  tại  bệnh  viện  Thống  Nhất  và  chỉ  lọc 
máu  tại  khoa  trong  thời  gian  ngắn  sau  đó  về 
điều trị tại địa phương và không được theo dõi 
liên tục. 

+  Về  mặt  nội  khoa:  BN  có  thời  gian  sống 
thêm (survival time) > 1 năm  

Phương pháp nghiên cứu  
Tiến cứu, theo dõi dọc. 
Tiêu  chuẩn  chẩn  đoán  STM  giai  đoạn  5: 
bệnh  thận  mạn  có  độ  lọc  cầu  thận  <  10ml/p  ở 
bệnh nhân không có đái tháo đường và < 15ml/p 
ở bệnh nhân đái tháo đường(5) 
Chỉ định mổ đặt ống ghép trong nghiên cứu 
theo guideline của Hội Thận ‐ Lọc máu quốc tế, 
khi không thể dùng mạch tự thân để làm cầu nối 
động tĩnh mạch được(6). Trong  nghiên  cứu  này, 
bác  sĩ  ngoại  mạch  máu  quyết  định  dựa  vào 
khám  lâm  sàng  chẩn  đoán  hệ  mạch  máu  nhỏ, 
kém phát triển không thể dùng mạch tự nhiên. 
Ống ghép sử dụng trong nghiên cứu: PTFE 

do hãng B.Braun sản xuất 
Phương  pháp  sử  dụng  ống  ghép  trong 
nghiên cứu:  
Thời điểm chọc ống ghép: sau mổ ≥ 14 ngày, 
khi  vết  mổ  khô  liền  tốt,  bớt  hoặc  hết  phù  nề 
tay(6). 
Vị trí chọc: hạn chế tối đa sử dụng 2 kim trên 
ống  ghép,  ưu  tiên  sử  dụng  mạch  tự  nhiên  (tay 
khác,  chân  hoặc  chọc  mạch  ở  vị  trí  trên  ống 
ghép). 
Chọc kim hợp mặt da tối thiểu 45 độ, kéo da 
theo kỷ thuật two sticks(6).  
Cầm máu: áp lực băng ép vừa phải, kiểm tra 
có  tiếng  rù  sau  khi  băng  ép,  nới  băng  dần  và 
tháo băng sau lọc máu 30 – 60 phút. 

Chuyên Đề Thận ‐ Niệu 

Đánh giá lại chỉ định đặt ống ghép: 

+ Về ngoại khoa: cần phải chọc 1‐2 kim trên 
ống ghép, nghĩa là bệnh nhân phải thực sự kiệt 
hết các mạch tự nhiên. 
Chỉ định đặt ống ghép chưa hợp lý: 
+ Về nội khoa (chọn bệnh đặt ống ghép): khi 
bệnh  nhân  tử  vong  do  bệnh  lý  nội  khoa  trong 
khi  thời  gian  sử  dụng  ống  ghép  ngắn,  chỉ  <  1 
năm. 
+ Về ngoại khoa khi xảy ra 1 trong các tình 
huống  sau:  BN  sử  dụng  cả  2  kim  ở  mạch  tự 

nhiên  (không  cần  phải  chọc  trên  ống  ghép); 
những lần mổ lại cầu nối lần sau sử dụng được 
mạch tự nhiên (cầu nối động ‐ tĩnh mạch thông 
thường). 
Các  biến  chứng  trong  quá  trình  sử  dụng: 
khảo sát các biến chứng như huyết khối gây tắt 
ống ghép, nhiễm khuẩn quanh ống ghép và lưu 
lượng qua ống ghép quá mạnh. 

KẾT QUẢ 
Bảng 1. Một số đặc điểm của bệnh nhân trong 
nghiên cứu 
Đặc điểm
Tuổi
Tuổi ≥ 60, n (%)
Giới nam, n (%)
Đái tháo đường, n (%)
Tăng huyết áp, n (%)
Ống ghép được phẫu thuật
chuẩn bị trước khi vào chương
trình lọc máu định kỳ, n(%)
Chỉ định mổ đặt ống ghép ngay
từ đầu, n (%)

Số BN
(n=32)

Trị trung bình

X ±SD

71,53±9,24

27(84,4)
18(56,3)
11(34,4)
19(59,4)
3(9,38)
20(62,5)

115


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 3 * 2013

Nghiên cứu Y học 

Bảng 4. Đặc điểm của những bệnh nhân có biến 
chứng trong quá trình sử dụng 

81.25

100
80

Biến chứng

60
40

< 1 năm


18.75

> 1 năm

20
0

BN mổ AVG sống thêm < 1
năm

 
Biểu đồ 1. Tỷ lệ bệnh nhân có thời gian sống thêm < 
1 năm  
45

43.8 40.6

40
35

Chọc 2 kim

30
25

15.6

20
15


Chọc 1 kim
Chọc mạch tự
nhiên

10
5
0
Chọc kim ở ống ghép

Biểu đồ 2. Vị trí chọc kim vào ống ghép  
Bảng 2. Biến chứng liên quan đến kỷ thuật ngay sau 
mổ đặt ống ghép. 
Biến chứng
Chảy máu khó cầm phải mổ lại, n (%)
Phù nề tay ống ghép, n (%)
Tắt ống ghép sớm sau mổ, n (%)
Thiếu máu nuôi dưỡng bàn tay sau mổ
đặt ống ghép, n (%)
Nhiễm trùng sau mổ, n (%)
Tử vong, n (%)

Số BN/ Tỷ lệ (%)
(n=32)
0(0)
32(100)
1(3,13)
0(0)
0(0)
0(0)


Bảng 3. Biến chứng trong quá trình sử dụng ống 
ghép 
Biến chứng
Số BN/ Tỷ lệ (%)
trong quá trình sử dụng ống ghép
(n=32)
Tắc ống ghép, n (%)
5(15,6)
Nhiễm khuẩn cạnh ống ghép, n (%)
4(12,5)
Lưu lượng qua ống ghép mạnh phải mổ
4(12,5)
lại, n (%)
Có triệu chứng thiếu máu nuôi bàn tay, n
1(3,1)
(%)

116

Đặc điểm
Số BN
-Chọc 2 kim trên ống ghép
2
-Thời gian sử dụng ống ghép
29,40±14,4
(tháng)
< 12 tháng
0
Tắc ống ghép

12-24 tháng
2
(n=5)
≥ 24 tháng
3
- Đã được xử trí:
Thay ống mới, lấy huyết khối
3
Làm FAV mạch tự thân
2
-Chọc 2 kim trên ống ghép
4
-Thời gian sử dụng trung bình
10,25±1,71
Nhiễm khuẩn
(tháng)
ống ghép
< 12 tháng
3
(n=4)
12-24 tháng
1
- Lọc máu tại trung tâm khác
4
Đã được xử trí
Lưu lượng
qua ống
- Làm hẹp miệng nối
1
ghép quá

- Làm FAV ở tay khác
3
mạnh (n=4)

BÀN LUẬN 
Bảng 1 cho thấy một số đặc điểm của bệnh 
nhân  suy  thận  mạn  được  phẫu  thuật  đặt  ống 
ghép:  84,4%  bệnh  nhân  ≥  60  tuổi  với  độ  tuổi 
trung bình cao (71,53±9,24). Nguyên nhân gây 
suy  thận  mạn  là  tăng  huyết  áp  và  đái  tháo 
đường.  Đây  cũng  được  xem  là  các  nguyên 
nhân gây tổn thương hệ mạch máu, xơ vữa và 
xơ cứng mạch làm cho phẫu thuật tạo cầu nối 
khó khăn hơn. 
Về nội khoa, nghiên cứu này cho thấy chuẩn 
bị  và  chọn  bệnh  nhân  để  phẫu  thuật  ống  ghép 
chưa tốt và lẽ ra có thể làm tốt hơn kết quả này. 
Về  chuẩn  bị  bệnh  nhân:  kết  quả  ở  bảng  1  cho 
thấy mặc dù hệ mạch máu rất khó nhưng chỉ có 
9,38%  bệnh  nhân  STM  giai  đoạn  5  được  phẫu 
thuật  chuẩn  bị  trước  khi  vào  chương  trình  lọc 
máu định kỳ. Cần phải chuẩn bị cho bệnh nhân 
STM  giai  đoạn  5  một  đường  mạch  máu  trước 
khi  vào  lọc  máu  định  kỳ  như  hướng  dẫn  hội 
Thận‐Lọc máu (trước khoảng 3‐6 tháng)(6). Điều 
này sẽ có thuận lợi hơn cho phẫu thuật và hạn 
chế  phải  đặt  catheter  tạm  thời  làm  đường  lọc 
máu. Để thực hiện được điều này bác sĩ chuyên 
khoa Thận học cần có sự quản lý tốt hơn những 


Chuyên Đề Thận ‐ Niệu  


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 3 * 2013 
bệnh  nhân  STM  và  bệnh  nhân  cần  được  giải 
thích  rõ  để  chuẩn  bị  đường  mạch  máu  sẵn.  Về 
chọn bệnh nhân đặt ống ghép cũng nên dựa vào 
yếu tố thời gian tiên lượng sống thêm (survival 
time). Kết quả biểu đồ 1 cho thấy có 6 bệnh nhân 
(18,75%)  tử  vong  sớm  <  1  năm  do  bệnh  lý  nội 
khoa.  Theo  chúng  tôi,  những  trường  hợp  này 
không  nên  đặt  vấn  đề  phẫu  thuật  ống  ghép  vì 
đây  là  phẫu  thuật  tương  đối  “nặng”  đối  với 
bệnh nhân suy thận mạn trong khi đó thời gian 
cần  để  sử  dụng  ống  ghép  lại  ngắn.  Các  trường 
hợp này nên chỉ định đặt catheter có đường hầm 
là hợp lý hơn. 
Về tính hợp lý của chỉ định mổ đặt ống ghép 
ở góc độ ngoại khoa, biểu đồ 2 cho thấy có 15,6% 
các  trường  hợp  sau  phẫu  thuật  tạo  ống  ghép 
không  phải  chọc  kim  vào  và  ra  trên  ống  ghép. 
Đây là những trường hợp có thể sử dụng mạch 
tự  thân  được  và  đây  cũng  chính  là  điểm  chưa 
hợp  lý  trong  chỉ  định  đặt  ống  ghép  (chỉ  định 
“quá”, “rộng”). Để minh hoạ thêm cho nhận xét 
này,  bảng  4  mô  tả  một  số  ca  xử  trí  các  biến 
chứng của ống ghép (tắc, nhiễm khuẩn và tăng 
lưu  lượng)  bằng  cách  quay  trở  lại  mổ  cầu  nối 
động  tĩnh  mạch  với  mạch  tự  thân.  Theo  chúng 
tôi nguyên nhân của điểm bất hợp lý khi quyết 

định đặt ống ghép này là các bác sĩ ngoại khoa 
chỉ  dựa  vào  việc  khám  lâm  sàng  mạch  máu  và 
kinh nghiệm riêng  lẽ  của  từng  phẫu  thuật  viên 
mà không đánh giá thêm siêu âm mạch và hoặc 
chụp hệ mạch. Khám lâm sàng mạch máu ở thời 
điểm bệnh nhân nặng: còn phù, thiếu máu, suy 
tim nặng, huyết áp còn cao…thường khó chính 
xác. Chúng tôi đề xuất ở các bệnh nhân STM giai 
đoạn 5 nên dựa theo hướng dẫn hội Thận‐ Lọc 
máu là nên đưa vào quy trình thường quy đánh 
giá  trước  mổ  bao  gồm  siêu  âm  mạch  (do  phẫu 
thuật viên tự tay thực hiện hoặc do 1 bác sĩ siêu 
âm có kinh nghiệm về vấn đề này) hoặc chụp hệ 
động  tĩnh  mạch  (nếu  cần)(4).  Với  phương  pháp 
đánh giá chặt chẽ như trên có thể hy vọng quyết 
định mổ đặt ống ghép sẽ chính xác hơn hiện tại. 
Về các biến chứng sau mổ, kết quả ở bảng 2 
cho  thấy  phẫu  thuật  tạo  ống  ghép  tại  khoa 

Chuyên Đề Thận ‐ Niệu 

Nghiên cứu Y học

Ngoại, bệnh viện Thống Nhất khá an toàn. Phù 
nề bàn tay sau mổ rất thường gặp do hiện tượng 
thoát dịch qua  ống  ghép  và  thường  tự  ổn  định 
sau  đó  1‐3  tuần.  Sau  mổ,  bệnh  nhân  cần  được 
hướng  dẫn  kê  tay  cao  và  ngủ  không  nằm 
nghiêng về phía tay mổ. Khi giảm hoặc hết phù 
nề tay có thể sử  dụng ống ghép ngay (sớm) và 

đây  cũng  được  xem  là  một  điểm  thuận  lợi  của 
ống ghép. 
Quan  trọng  hơn  cả  vẫn  là  các  biến  chứng 
trong quá trình sử dụng ống ghép. Bảng 3 trình 
bày  các  biến  chứng  thường  gặp.  So  với  tác  giả 
Afshar R, tỷ lệ tắc ống ghép của chúng tôi thấp 
hơn  (15,6%  của  chúng  tôi  so  với  25,3%  của  tác 
giả) và tỷ lệ nhiễm khuẩn ống ghép tương tự tác 
giả  này  (12,5%  của  chúng  tôi  so  với  14,5%  của 
tác giả)(1). Đối với biến chứng tắc ống ghép, kết 
quả  nghiên  cứu  này  cho  thấy  thời  gian  dùng 
trung  bình  ống  ghép  là  29,40±14,45  tháng, 
nguyên  nhân  tắc  ống  ghép  là  do  huyết  khối. 
Nguyên  nhân  gây  huyết  khối  ống  ghép  là  do 
sang  thương  khi  chọc  trên  ống  ghép,  có  thể  do 
thao  tác  cầm  máu  (ép  mạnh)  sau  khi  lọc  máu 
xong và có thể do tình trạng tăng đông ở một số 
bệnh  nhân.  Để  giảm  biến  chứng  này  cần  thay 
đổi  chổ  chọc  thường  xuyên,  hạn  chế  chọc  cả  2 
kim trên ống ghép, băng ép với lực vừa phải sau 
khi  lọc  máu  xong  và  nới  băng  dần  dần  sau  đó 
càng sớm càng tốt. Theo kết quả của nghiên cứu 
của  các  tác  giả  Bradley  S  Dixon,  nên  dùng 
aspirin cho tất cả các bệnh nhân này nếu không 
có chống chỉ định(2,3). Nếu thực hiện tốt tất cả các 
điểm nêu trên hy vọng rằng có thể kéo dài thời 
gian  sử  dụng  ống  ghép  được  lâu  hơn  nữa.  Đối 
với  biến  chứng  nhiễm  khuẩn  quanh  ống  ghép: 
xảy ra sớm (< 1 năm), thường gặp khi phải chọc 
cả  2  kim  trên  ống  ghép  và  các  bệnh  nhân  này 

đều  được  lọc  máu  ở  các  địa  phương  khác.  Để 
giảm  biến  chứng  này,  theo  chúng  tôi  các  trung 
tâm  khi  có  bệnh  nhân  sử  dụng  ống  ghép  cần 
làm  tốt  khâu  sát  khuẩn  trong  lọc  máu(6).  Biến 
chứng lưu lượng quá mạnh sau mổ cần được các 
bác sĩ lọc máu theo dõi trong quá trình sử dụng 
ống ghép. Phát hiện biến chứng này dựa vào các 
dấu  hiệu  như  khó  cầm  máu,  áp  lực  đường  về 

117


Nghiên cứu Y học 

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 3 * 2013

cao, huyết áp cao khó kiểm soát, suy tim…Biến 
chứng  này  phụ  thuộc  rất  nhiều  vào  kỷ  thuật 
khâu miệng nối của phẫu thuật viên. 

KẾT LUẬN 
Qua  theo  dõi  dọc,  liên  tục  32  bệnh  nhân 
được phẫu thuật đặt ống ghép làm đường mạch 
máu  để  lọc  máu  định  kỳ  tại  bệnh  viện  Thống 
Nhất,  Tp  Hồ  Chí  Minh  trong  khoảng  thời  gian 
2002‐2012, nghiên cứu này rút ra kết luận sau: 
Chỉ định phẫu thuật ống ghép chưa thực sự 
hợp lý có cả yếu tố thuộc về nội khoa và ngoại 
khoa. Về nội khoa, các điểm chưa hợp lý là tỷ lệ 
bệnh nhân được phẫu thuật chuẩn bị sẵn trước 

khi  vào  lọc  máu  định  kỳ  thấp  (9,38%);  có  tỷ  lệ 
bệnh nhân có thời gian sống thêm ngắn < 1 năm 
(18,75%). Về ngoại khoa, có tỷ lệ bệnh nhân sau 
phẫu  thuật  đặt  ống  ghép  không  phải  chọc  trên 
ống ghép (15,6%) và cũng có tỷ lệ bệnh nhân đã 
mổ ống ghép nhưng sau đó được mổ lại cầu nối 
động tĩnh mạch tự thân thành công (15,6%).  
Các  biến  chứng  thường  gặp  khi  sử  dụng 
ống  ghép  theo  thứ  tự  là  tắc  ống  ghép,  nhiễm 

khuẩn  cạnh  ống  ghép  và  lưu  lượng  qua  ống 
ghép mạnh.  

TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1.

2.

3.

4.

5.

6.

Afshar  R,  Salimi  J,  Savavi  SR  (2004).  One‐Year  efficacy  of 
expanded  polytetrafluoroethylene  vascular  graft  in  eighty‐
three hemodialysis patients. Urology Journal UNRC/IUA, Vol 
1, N.3. 188‐190.  

Dixon BS, Beck GJ (2009). Effect of dipyridone plus aspirin on 
hemodialysis  graft  patency.  The  New  England  Journal  of 
Medicine. 360, 21, pp 2191‐2201. 
Dixon  BS,  Beck  GJ  (2011).  Use  of  aspirin  associated  with 
longer  primary  patency  of  hemodialysis  grafts.  J  Am  Soc 
Nephrol 22: 773‐781. 
Ravari  H,  Kazemzade  GH  (2010).  Patency  rate  and 
complications of polytetrafluroethylene grafts compared with 
polyurethan grafts for hemodialysis access. Upsala Medical of 
Medical science. 115; 245‐248. 
National  kidney  foundation  (2008).  Classification  of  CKD 
based on GFR as proposed by the Kidney Disease Outcomes 
Quality Initiative (KDOQI) guidelines and modified by NICE 
in 2008. Kidney International Supplements. Volume 3. Issue 2. 
June, pp 109‐213. 
Nephrology  Kidney  Foundation  K/DOQI  (2008).  Vascular 
access  clinical  practice  guidelines  2008.  Kidney  International 
Supplements. Volume 2. Issue 3. July, pp 139‐274. 

Ngày nhận bài báo  

 

16‐09‐2012 

Ngày phản biện nhận xét bài báo:  23‐03‐2013 
Ngày bài báo được đăng:    

15–07‐2013 


 

118

Chuyên Đề Thận ‐ Niệu  



×