Tải bản đầy đủ (.pdf) (5 trang)

Cắt tuyến tiền liệt qua niệu đạo bằng bipolar tại Bệnh viện đa khoa tỉnh Thanh Hóa, kinh nghiệm bước

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (279.22 KB, 5 trang )

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Số 4 * 2015

Nghiên cứu Y học

CẮT TUYẾN TIỀN LIỆT QUA NIỆU ĐẠO BẰNG BIPOLAR
TẠI BỆNH VIỆN ĐA KHOA TỈNH THANH HÓA, KINH NGHIỆM BƯỚC
ĐẦU
Trương Thanh Tùng*, Tô Hoài Phương*, Lê Đăng Khoa*, Lê Đình Vũ*, Lê Quang Ánh*,
Nguyễn Bá Vinh*, Nguyễn Anh Lương*, Đậu Trường Toàn*, Lưu Xuân Thông*

TÓM TẮT
Mục tiêu: Đánh giá kết quả và đưa ra một số nhận xét bước đầu về cắt tuyến tiền liệt qua niệu đạo bằng
bipolar.
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Bao gồm 30 bệnh nhân được cắt tuyến tiền liệt qua niệu đạo bằng
bipolar điều trị tăng sinh lành tính tuyến tiền liệt tại Bệnh viện đa khoa tỉnh Thanh Hóa từ tháng 03 năm 2015
đến tháng 05 năm 2015. Nghiên cứu theo phương pháp mô tả cắt ngang có so sánh phân tích. Sử dụng hệ thống
cắt bipolar TURis của hãng Olympus. Xử lý số liệu theo phương pháp thống kê y học.
Kết quả: Tuổi trung bình: 72,1 ± 7,4 năm, trong đó lứa tuổi > 70 chiếm chủ yếu. Thời gian mổ trung bình:
66,5 ± 25,4 phút. Khối lượng tuyến trung bình: 60,3 ± 16,1g. Thời gian lưu sonde niệu đạo: 4,2 ± 2,1 ngày.
Thời gian nằm viện trung bình: 6,4 ± 2,2 ngày. Các chỉ số IPSS, QoL, Q-mean, và PVR sau 1 tháng đều được
cải thiện hơn so với trước mổ. Tỷ lệ tai biến - biến chứng chung là 3,3%. Kết quả sau mổ tốt 70,0%; trung bình
26,7%; và xấu là 3,3%.
Kết luận: Cắt tuyến tiền liệt qua niệu đạo bằng bipolar điều trị tăng sinh lành tính tuyến tiền liệt là một
phương pháp an toàn, hiệu quả, ít tai biến - biến chứng và cho tỷ lệ thành công cao.
Từ khóa: cắt tuyến tiền liệt qua niệu đạo; u phì đại lành tính tuyến tiền liệt.

ABSTRACT
BIPOLAR TRANSURETHRAL RESECTION OF THE PROSTATE IN THANH HOA GENERAL
HOSPITAL, INITIAL EXPERIENCES
Truong Thanh Tung, To Hoai Phuong, Le Dang Khoa, Le Dinh Vu, Le Quang Anh,
Nguyen Ba Vinh, Nguyen Anh Luong, Dau Truong Toan, Luu Xuan Thong


* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 19 - No 4 - 2015: 58 - 62
Objective: To evaluate the results and give some initial remarks about bipolar transurethral resection of the
prostate.
Patients and method: This includes 30 patients undergone bipolar transurethral resection of the prostate to
treat BPH in Thanh Hoa general hospital from March 2015 to May 2015. Research according to cross sectional
study combination with compare analysis. Use the system of bipolar TURis. Processing of data by statistical
methods in medicine.
Results: The average age: 72.1 ± 7.4 years, the ages more than 70 is major. Operating time average: 66.5 ±
25.4 min. The average volume of tumor by abdominal ultrasound: 60.3 ± 16.1g. Duration of catheterization: 4.2 ±
* Bệnh viện đa khoa tỉnh Thanh Hóa
Tác giả liên lạc: BS. Trương Thanh Tùng

ĐT: 0915333838

Email:

2.1 days. Duration of hospitalization: 6.4 ± 2.2 days. The IPSS, QoL, Q-mean, and PVR after 1 month improved

58

Chuyên Đề Thận – Niệu


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Số 4 * 2015

Nghiên cứu Y học

than before surgery. The rate of general disasters - complications: 3.3%. Results after surgery well 70.0%; average
26.7%; and the bad is 3.3%.
Conclusion: Bipolar transurethral resection of the prostate to treat BPH is a method of safe, effective, less

disasters - complications and high success rate.
Key words: Transurethral resection of the prostate; BPH.
sinh lành tính tuyến tiền liệt tại Bệnh viện đa
ĐẶT VẤN ĐỀ
khoa tỉnh Thanh Hóa từ tháng 03 năm 2015
Cho đến nay, các cơ sở ngoại khoa vẫn coi
đến tháng 05 năm 2015. Chẩn đoán xác định
cắt tuyến tiền liệt qua niệu đạo bằng dao điện
tăng sinh lành tính tuyến tiền liệt dựa vào kết
monopolar là chuchủ yếu là bệnh lý tim
mạch (30%) do đối tượng nghiên cứu đều là
những bệnh nhân cao tuổi. Các yếu tố như: tăng
huyết áp; đột quỵ não cũ; hay đái đường thường
ảnh hưởng làm tăng đáng kể tỷ lệ biến chứng
sau mổ.

Một số chỉ số cận lâm sàng
Bảng 1. Thay đổi huyết sắc tố, Na+ trước và sau mổ (X ± SD)
Trước mổ
Sau mổ < 1 ngày
P

Bảng 2. Khối lượng tuyến xác định bằng siêu âm
n
%
X ± SD

< 50g
9
30,0


+

Huyết sắc tố (g/l)
136,1 ± 12,8 (n = 30)
125,7 ± 11,6 (n = 30)
< 0,05

50g - 60g
11
36,7
55,3 ± 13,4

> 60g
10
33,3

Các bệnh nhân được xác định khối lượng
tuyến một cách tương đối bằng siêu âm qua
đường bụng, phương pháp này chỉ thực sự
chính xác khi dung tích nước tiểu trong bàng
quang từ 100ml đến 200ml. Khối lượng tuyến

Na (mmol/l)
138,2 ± 4,3 (n = 30)
137,4 ± 4,5 (n = 30)
> 0,05

trong bình của các bệnh nhân trong nghiên cứu
55,3g, lớn nhất 100g và nhỏ nhất 40g.


Kết quả điều trị
Thời gian mổ trung bình 66,5 ± 25,4 phút,
nhanh nhất 42 phút, chậm nhất 90 phút. Khối
lượng tuyến trung bình (khi xác định qua cân
mảnh cắt) 30,5 ± 9,1g.
Thời gian lưu sonde niệu đạo và thời gian
nằm viện trung bình lần lượt là 4,2 ± 2,1 ngày và
6,4 ± 2,2 ngày.

Bảng 3. Thay đổi các chỉ số chủ quan và khách quan (X ± SD)
IPSS
QoL
Q-mean
PVR

Trước mổ
24,2 ± 7,3 (n = 30)
4,4 ± 1,9 (n = 30)
3,5 ± 2,5 (n = 30)
95,9 ± 34,7 (n = 30)

Kết quả sau mổ được đánh giá dựa trên các
tiêu chí đã nêu ở phần đối tượng và phương
pháp nghiên cứu, có: kết quả tốt 70,0%; trung
bình 26,7%; và xấu là 3,3%.

Tai biến - biến chứng
Tỷ lệ tai biến - biến chứng chung là 3,3%,
đó là trường hợp nhiễm khuẩn niệu sau mổ.

Trường hợp này được xử trí và điều trị ổn
định. Không gặp trường hợp nào có biểu hiện
của hội chứng nội soi, chảy máu lớn trong và
sau mổ, hay biến chứng đái không tự chủ. Có
1 trường hợp sau mổ cho kết quả xấu là do
biểu hiện đái khó sau rút sonde niệu đạo, đây
cũng là trường hợp có nhiễm khuẩn niệu sau

60

Sau 1 tháng
7,7 ± 2,6 (n = 27)
2,2 ± 1,3 (n = 27)
11,2 ± 3,0 (n = 27)
31,8 ± 18,2 (n = 25)

p
< 0,001
< 0,001
< 0,001
< 0,001

mổ, chúng tôi đã phải tiến hành cấy khuẩn và
điều trị theo kháng sinh đồ.

BÀN LUẬN
Một số chỉ số lâm sàng
Tuổi trung bình: 72,1 ± 7,4 năm, trong đó lứa
tuổi > 70 chiếm chủ yếu. Kết quả này phù với
nghiên cứu về u phì đại lành tính tuyến tiền liệt

của Trần Đức Hòe: tuổi trung bình 72 ± 8,27 năm
và lứa tuổi > 70 chiếm 60%(10).
Vào viện với biểu hiện chủ yếu là hội chứng
tắc nghẽn (60%), tỷ lệ các trường hợp bí đái gặp
tương đối cao (36,7%), có những bệnh nhân đã
có bí đái nhiều lần xen lẫn những đợt nhiễm
trùng niệu (23,3%). Kết quả này khác biệt không

Chuyên Đề Thận – Niệu


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Số 4 * 2015
có ý nghĩa thống kê so với nghiên cứu của
Nguyễn Phú Việt về u phì đại lành tính tuyến
tiền liệt: đái khó 36,83%; bí đái 61,88%(6), có lẽ do
cơ cấu bệnh tật ở từng bệnh viện là khác nhau.
Theo Nguyễn Công Bình thì tỷ lệ các bệnh lý
tim mạch kết hợp trong những trường hợp u phì
đại lành tính tuyến tiền liệt vào khoảng 21%(5).
Các trường hợp trong nghiên cứu này có sỏi
bàng quang kết hợp chiếm 6,7%, khác biệt không
đáng kể so với Nguyễn Phú Việt, tỷ lệ sỏi bàng
quang kết hợp trong u phì đại lành tính tuyến
tiền liệt là 7,28%(6).

Một số chỉ số cận lâm sàng
So sánh chỉ số huyết sắc tố và Na+ trước và
sau mổ (trong vòng 1 ngày đầu) nhận thấy:
huyết sắc tố giảm đi có ý nghĩa thống kê so với
trước mổ, trong khi Na+ lại giảm không đáng kể

so với trước mổ. Trong một nghiên cứu trước
đây về cắt tuyến tiền liệt qua niệu đạo bằng
monopolar, Trương Thanh Tùng cho thấy tất cả
các chỉ số: hồng cầu; huyết sắc tố; và Na+ đều
giảm trong 3 ngày đầu sau mổ so với trước mổ
một cách có ý nghĩa thống kê(11). Các kết quả trên
phù hợp với nghiên cứu của Engeler D.S., ông so
sánh cắt tuyến tiền liệt qua niệu đạo bằng
bipolar với monopolar nhận thấy, mặc dù chỉ số
huyết sắc tố ở nhóm cắt bằng bipolar sau mổ
giảm so với trước mổ nhiều hơn so với nhóm cắt
bằng monopolar (giảm 12,3g so với giảm 10,3g),
nhưng chỉ số Na+ ở nhóm cắt bằng bipolar sau
mổ lại tăng hơn so với trước mổ (tăng 1,2
mmol/l) trong khi ở nhóm cắt bằng monopolar
lại giảm (giảm 0,1 mmol/l), ông cho rằng do ở
nhóm cắt bằng bipolar có sử dụng nước muối
sinh lý làm dịch rửa nên đã làm tăng đáng kể
lượng Na+ ở nhóm này(1).
Khối lượng tuyến trong bình của các bệnh
nhân trong nghiên cứu 55,3g, lớn nhất 100g và
nhỏ nhất 40g. Kết quả này khác biệt so với một số
nghiên cứu trong nước về cắt tuyến tiền liệt qua
niệu đạo bằng monopolar gần đây: Nguyễn Công
Bình, Khối lượng tuyến từ 40g trở xuống chiếm
82,5%; Nguyễn Phú Việt, khối lượng tuyến trung

Chuyên Đề Thận – Niệu

Nghiên cứu Y học

bình 41,56g; Trương Thanh Tùng 42,45g(5,6,11). Qua
kết quả nghiên cứu của một số tác giả nước ngoài
như: Moore D.K.; Engeler D.S.; Gupta N.P.(1,2,4)cho
thấy cắt tuyến tiền liệt qua niệu đạo bằng bipolar
có thể chỉ định cho các khối u lành tính tuyến tiền
liệt với bất kể kích thước nào, dựa trên cơ sở đó
chúng tôi đã chỉ định cho nhiều trường hợp khối
u có kích thước > 60g (33,3%) mà vẫn không gặp
phải những tai biến - biến chứng nặng nề như hội
chứng nội soi hay chảy máu lớn trong và sau mổ.

Kết quả điều trị
Thời gian mổ trong nghiên cứu này khác biệt
không có ý nghĩa thống kê: Engeler D.S. là 50,3 ±
20,8 phút với khối lượng tuyến trung bình là 50,4
± 26,3g; Singhania P. là 55,1 ± 13.3 phút với khối
lượng tuyến trung bình là 60 ± 20g(1,8). Khi so
sánh thời gian mổ giữa hai nhóm cắt tuyến tiền
liệt qua niệu đạo bằng bipolar với bằng
monopolar, Engeler D.S. thấy ở nhóm cắt bằng
bipolar có thời gian mổ lâu hơn so với nhóm cắt
bằng monopolar, ông lý giải hiện tượng này là
do vòng đầu que cắt bipolar nhỏ hơn so với que
cắt monopolar(1).
So với khối lượng tuyến xác định trên siêu
âm từ trước mổ thì khối lượng tuyến cắt ra chỉ
được ~ 50%, đây là hậu quả của hiện tượng bốc
hơi tuyến trong quá trình cắt bằng bipolar.
Trong khi đối với cắt tuyến tiền liệt bằng
monopolar thì khối lượng tuyến được cắt ra sẽ

nhiều hơn, theo Nguyễn Phú Việt thì khối lượng
này vào khoảng 63,3% khối lượng tuyến xác
định trên siêu âm trước mổ(6).
Thời gian lưu sonde niệu đạo và thời gian
nằm viện trung bình lần lượt là 4,2 ± 2,1 ngày và
6,4 ± 2,2 ngày. Kết quả nghiên cứu này khác biệt
không có ý nghĩa thống kê so với nghiên cứu
của: Engeler D.S. là 2,9 ± 0,7 ngày và 8,1 ± 3,6
ngày; Michielsen D.P.J. là 4,0 ngày và 4,9 ngày(1,3).
Sự khác biệt trên phụ thuộc vào quan điểm điều
trị hậu phẫu ở từng cơ sở phẫu thuật.
Các chỉ số chủ quan (IPSS, QoL) và khách
quan (Q-mean, PVR) trong nghiên cứu này đều
được cải thiện rõ rệt (có ý nghĩa thống kê) sau 1

61


Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Số 4 * 2015

tháng so với trước mổ. Điều này cũng không có
sự khác biệt so với kết quả nghiên cứu cắt tuyến
tiền liệt qua niệu đạo bằng monopolar và bipolar
của một số tác giả trong nước trước đây: Trần
Đức Hòe; Trần Văn Hinh; Nguyễn Phú Việt(9,10,6).
Trong một nghiên cứu về so sánh cắt tuyến tiền
liệt qua niệu đạo bằng bipolar với bằng
monopolar, Singhania P. thấy không có sự khác

nhau giữa hai phương pháp về những cải thiện
các triệu chứng chủ quan và khách quan sau
phẫu thuật(8).

2.

Tai biến - biến chứng

7.

So với tỷ lệ tai biến - biến chứng chung trong
cắt tuyến tiền liệt qua niệu đạo bằng monopolar
của Nguyễn Phú Việt 13,47%(6) thì tỷ lệ này trong
nghiên cứu cắt bằng bipolar của chúng tôi giảm
đáng kể, đây có thể là một ưu điểm của cắt tuyến
tiền liệt qua niệu đạo bằng bipolar so với cắt
bằng monopolar?

KẾT LUẬN
Cắt tuyến tiền liệt qua niệu đạo bằng bipolar
là một phương pháp an toàn, hiệu quả, ít tai biến
- biến chứng và cho tỷ lệ thành công cao. Tuy
nhiên để có những kết luận chính xác cần phải
có những nghiên cứu với số lượng lớn hơn.

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.

62


Engeler DS et al (2010), Bipolar versus monopolar TURP: A
prospective controlled study at two urology centers, Prostate
Cancer Prostatic Dis., 13(3), pp.285-291.

3.

4.

5.

6.

8.

9.

10.

11.

Gupta NP, Singh A, Kumar R. (2007), Transurethral vapor
resection of prostate is a good alternative for prostates > 70 g,
J.Endourol., 21(12), pp.1543-1546.
Michielsen DPJ et al (2007), Bipolar Transurethral Resection in
Saline - An Alternative Surgical Treatment for Bladder Outlet
Obstruction, The journal of urology, 178, pp.2035-2039.
Moore DK, Moore R.G. (2005), Bipolar transurethral resection An improved system for treatment og BPH?, BB: US kid.and
urol.dis., pp.37-42.
Nguyễn Công Bình và cs (2005), Nhận xét bước đầu về tình
hình điều trị u phì đại lành tính tuyến tiền liệt bằng phương

pháp cắt đốt nội soi tại Bệnh viện Việt Tiệp - Hải Phòng, Y học
Việt Nam, số tháng 8, tr.296-303.
Nguyễn Phú Việt và cs. (2005), Kết quả cắt nội soi u phì đại
lành tính tuyến tiền liệt tại Bệnh viện 103 từ năm 1999 đến
năm 2002, Y học Việt Nam, số tháng 8, tr.236-243.
Rassweiler J., De La Rosette J. (2012), Bipolar transurethral
resection
of
the
prostate:
a
valid innovation,
/>neurogenicluts/view/article/.
Singhania P et al (2010), Transurethral Resection of Prostate: A
Comparison of Standard Monopolar versus Bipolar Saline
Resection, Inter. Braz.J.Urol., 36(2), pp.183-189.
Trần Văn Hinh, Đỗ Ngọc Thể (2014), Một số đặc điểm bệnh
nhân và kết quả điều trị bệnh tăng sinh lành tính tuyến tiền
liệt bằng cắt đốt lưỡng cực qua nội soi niệu đạo, Tạp chí Y
Dược học, số tháng 8/2014, tr.105-111.
Trần Đức Hòe và cộng sự (2005), Một số nhận xét về kết quả
ban đầu cắt nội soi u phì đại lành tính tuyến tiền liệt, Y học
Việt Nam, số tháng 8, tr.259-264.
Trương Thanh Tùng, Nguyễn Đăng Quang, Nguyễn Phú Việt
(2007), Kết quả điều trị cắt đốt nội soi qua niệu đạo u phì đại
lành tính tuyến tiền liệt tại Bệnh viện 354, Y Dược học Quân
sự, 32(5), tr.94-99.

Ngày nhận bài báo:


10/05/2015

Ngày phản biện nhận xét bài báo:

01/06/2015

Ngày bài báo được đăng:

05/08/2015

Chuyên Đề Thận – Niệu



×