Tải bản đầy đủ (.pdf) (5 trang)

Theo dõi kết quả điều trị nhiễm khuẩn huyết ‐ choáng nhiễm khuẩn bằng động học của procalcitonin

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (380.08 KB, 5 trang )

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Số 4 * 2014

Nghiên cứu Y học

THEO DÕI KẾT QUẢ ĐIỀU TRỊ NHIỄM KHUẨN HUYẾT‐ 
CHOÁNG NHIỄM KHUẨN BẰNG ĐỘNG HỌC CỦA PROCALCITONIN 
Lê Xuân Trường*, Nguyễn Thanh Bảo*, Nguyễn Thị Băng Sương*, Vũ Kiều Diễm Trinh**,  
Trần Thị Hương Lý*** 

TÓM TẮT 
Đặt vấn đề: Nhiễm khuẩn huyết (NKH)‐choáng nhiễm khuẩn là một bệnh lý nặng, tỷ lệ tử vong cao. Để 
đánh giá điều trị kháng sinh có đáp ứng hay không trong thời gian sớm nhất trước khi có những dấu hiệu đáp 
ứng lâm sàng, y văn thế giới đề cập đến procalcitonin (PCT), một chỉ tố sinh học mới có thể theo dõi việc đáp ứng 
hay không đáp ứng trong sử dụng kháng sinh. 
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Mô tả cắt ngang hàng loạt trường hợp và tiến cứu ở các bệnh 
nhân có tuổi từ 16 đến 94 đang điều trị tại Bệnh viện Chợ Rẫy TP.HCM và Bệnh viện Đa khoa Kiên Giang tỉnh 
Kiên giang từ tháng 01/2013 đến tháng 6/2014. Gồm các bệnh nhân NKH, cấy máu dương tính (n=150 TH). 
Định  lượng  PCT  bằng  phương  pháp  miễn  dịch  phát  quang  (ILMA),  thuốc  thử  hãng  BRAHMS‐PCT,  máy 
Lumat LB 9507 của Đức.  
Kết quả: Giá trị trung vị của PCT ở nhóm NKH = 12,58 (0,09‐448,2)ng/ml. Ở nhóm NKH đáp ứng với 
điều  trị  KS:  trung  vị  của  PCT  thay  đổi  từ  11,46  (0,10‐182,0)ng/ml  →  8,41  (0,2‐135,1)ng/ml  →  3,01  (0,08‐
78,26)ng/ml → 0,90 (0,07‐23,11)ng/ml. Sự thay đổi giữa các lần xét nghiệm có ý nghĩa thống kê (p<0,001). Ở 
nhóm NKH không đáp ứng với điều trị KS: trung vị của PCT thay đổi từ 21,02 (0,09‐448,2)ng/ml → 19,61 
(0,11‐310,0)ng/ml → 3,19 (0,68‐87,88)ng/ml → 4,12 (0,82‐92,35)ng/ml. Sự thay đổi giữa các lần xét nghiệm 
không có ý nghĩa thống kê (p>0,05). 
Kết luận: Có thể theo dõi kết quả điều trị kháng sinh trên các bệnh nhân NKH bằng động học của PCT. 
Nồng độ PCT giảm khi bệnh nhân đáp ứng với điều trị kháng sinh. Khi không đáp ứng với điều trị kháng sinh, 
nồng độ PCT tăng hoặc thay đổi nhưng sự khác biệt giữa các lần xét nghiệm không có ý nghĩa thống kê. 
Từ khóa: procalcitonin, nhiễm khuẩn huyết.  

ABSTRACT 


DIAGNOSTIC VALUE AND TREATMENT MONITORING OF PROCALCITONIN IN SEPSIS 
 AND SEPTIC SHOCK  
Le Xuan Truong, Nguyen Thanh Bao, Nguyen Thi Bang Suong, Vu Kieu Diem Trinh, 
 Tran Thi Huong Ly * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 18 ‐ No 4 ‐ 2014: 107 ‐ 111 
Back ground: Sepsis and septic shock is the serious illness and mortality rate is high. Diagnosis depends on 
blood culture but it is slow and low positive. On the other way, antibiotic treatment almost depends on physical 
experience at the first time. This problem leads non response to antibiotic treatment. In order to estimate antibiotic 
treatment have response or haven’t response in early time before clinical signals change in order to change early 
antibiotic treatment. The aim of the study is to confirm diagnostic value of procalcitonin and follow‐up in sepsis 
and septic shock by the kinetic of procalcitonin. 
Material and method: Research 150 septic patients (positive blood culture) with ages from 16 to 94 at Cho 
Ray Hospital, HoChiMinh City and General Hospital Kien Giang, Kien Giang province from Jan 2013 to Jun 
2014. Procalcitonin quantitative analysis by BRAHMS‐PCT‐LIA, Lumat LB 9507, Germany. 

* Đại học Y Dược TP.HCM, ** Bệnh viện Đa Khoa Kiên Giang, *** Trường Cao Đẳng Y tế Kiên Giang 
Tác giả liên lạc: TS. Lê Xuân Trường 
 ĐT: 01269872057 
Email:  

107


Nghiên cứu Y học 

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Số 4 * 2014

Results: Mean value of serum PCT in septic patients is 12.58ng/ml. Follow‐up of kinetic of PCT 
who respond well to antibiotic treatment, mean value of PCT1 before antibiotic treatment is 11.46ng/ml 
(10‐182); after 1 day of antibiotic treatment PCT2 is 8.41ng/ml (0.2‐135.1); after 2 days of antibiotic 
treatment  PCT3  is  3.01ng/ml  (0.08‐78.26);  after  6  days  of  antibiotic  treatment  PCT4  is  0.90ng/ml 

(0.07‐23.11). The changes of kinetic of PCT at group non response to antibiotic treatment: PCT1: 21.02 
ng/ml (0.09‐448.2) → PCT2: 19.61 ng/ml (0.11‐310) → PCT3: 3.19 ng/ml (0.68‐87.88) → PCT4: 4.12 
ng/ml (0.82‐92.35). There are no differences in PCT levels between groups, (p>0.05).  
Conclusion: Mean value of serum PCT in septic patients is high. The kinetic of PCT can follow‐up 
treatment  in  sepsis,  septic  shock.  PCT  concentration  decreases  when  patients  response  to  antibiotic 
treatment and PCT concentration increases or change but no differences when patients non response to 
antibiotic treatment. 
ĐẶT VẤN ĐỀ 
Nhiễm  khuẩn  huyết  (NKH)  là  một  bệnh  lý 
nặng, tỷ lệ tử vong cao, triệu chứng lâm sàng đa 
dạng,  đôi  khi  không  điển  hình.  Chẩn  đoán  xác 
định dựa vào cấy máu, nhưng kết quả cấy máu 
thì chậm và dương tính thấp. Mặc khác, những 
nghiên cứu gần đây cho thấy việc xuất hiện các 
chủng  vi  khuẩn  kháng  thuốc  đối  với  một  số 
kháng  sinh  trong  nhiễm  khuẩn  bệnh  viện  nói 
chung  và  NKH‐choáng  nhiễm  khuẩn  nói  riêng 
ngày một gia tăng(1,3,4,5,6,9,11). 
Một trong những hậu quả của việc gia tăng 
kháng  thuốc  là  do  điều  trị  kháng  sinh  không 
phù  hợp  và  đây  là  một  yếu  tố  quan  trọng 
quyết định tỷ lệ tử vong ở bệnh viện. Việc lựa 
chọn kháng sinh ban đầu trước khi có kết quả 
xét  nghiệm  vi  sinh,  các  nhà  lâm  sàng  thường 
dựa  vào  kinh  nghiệm  tức  là  dựa  vào  tần  suất 
các  loại  vi  khuẩn  gây  ra  nhiễm  khuẩn  bệnh 
viện đang lưu hành và tình hình kháng thuốc 
của chúng. Chiến lược sử dụng kháng sinh ban 
đầu  theo  kinh  nghiệm  hiện  nay  là  lựa  chọn 
kháng sinh phổ rộng đủ mạnh, bao phủ phần 

lớn các tác nhân gây bệnh. Sau khi có kết quả 
xét  nghiệm,  kháng  sinh  sẽ  điều  chỉnh  lại  cho 
phù hợp. Tuy nhiên trong NKH‐choáng nhiễm 
khuẩn  vấn  đề  chẩn  đoán  đúng  và  việc  lựa 
chọn  đúng  kháng  sinh  là  yếu  tố  quan  trọng 
hàng đầu, khẩn cấp(7,10,12). 
Để giải quyết vấn đề trên, gần đây y văn thế 
giới đã đề cập đến một chỉ điểm sinh học mới là 

108

procalcitonin  (PCT),  PCT  có  thể  giúp  các  nhà 
lâm sàng có thể theo dõi được việc đáp ứng hay 
không đáp ứng trong việc sử dụng kháng sinh, 
Để đánh giá đầy đủ vai trỏ của PCT trong chẩn 
đoán cũng như theo dõi đáp ứng điều trị kháng 
sinh  (KS)  trong  nhiễm  khuẩn  huyết‐choáng 
nhiễm khuẩn, chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề 
tài này(2,7,8,9,10). 

ĐỐI TƯỢNG ‐ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
Đối tượng nghiên cứu 
Gồm  những  bệnh  nhân  NKH  có  tuổi  ≥  16. 
Thời gian thực hiện đề tài từ tháng 01/2013 đến 
tháng  6/2014  tại  Bệnh  viện  Chợ  Rẫy  TP.Hồ  Chí 
Minh  và  Bệnh  viện  Đa  khoa  Kiên  Giang‐Tỉnh 
Kiên Giang. 
Phương pháp nghiên cứu 
Thiết  kế  nghiên  cứu:  mô  tả  cắt  ngang  hàng 
loạt trường hợp và tiến cứu. 

Cỡ mẫu được tính là những bệnh nhân NKH 
nhập  vào  2  bệnh  viện  ở  khoảng  thời  gian  trên. 
Lấy  mẫu 4  lần  để  làm động  học,  lần  1:  lúc  mới 
nhập viện trước khi điều trị kháng sinh (PCT1), 
lần 2: sau 24 giờ điều trị kháng sinh (PCT2), lần 
3:  sau  48  giờ  điều  trị  kháng  sinh  (PCT3),  lần  4: 
sau 6 ngày điều trị kháng sinh (PCT4). 
Phương  pháp  định  lượng:  sử  dụng  test 
BRAHMS‐PCT  LIA.  Máy  Lumat  LB  9507  của 
Đức. 
Xử lý số liệu bằng phần mềm SPSS 18.0. 


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Số 4 * 2014

‐ N.N.Tuấn(6): trước và sau 72 giờ điều trị KS 
trung  vị  PCT  của  nhóm  NKH  thay  từ  9,9ng/ml 
→ 6,3ng/ml và nhóm choáng nhiễm khuẩn thay 
đổi từ 62,9ng/ml → 7,1ng/ml.  

KẾT QUẢ VÀ BÀN LUẬN 
Theo dõi động học của PCT để xem việc sử 
dụng  kháng  sinh  ban  đầu  có  phù  hợp  không 
để  thay  đổi  phát  đồ  điều  trị  trong  thời  gian 
sớm nhất. 

‐  L.X.Trường(5):  trước  và  sau  điều  trị  KS  2 
ngày,  6  ngày  trung  vị  của  PCT  thay  đổi  từ 
7,13ng/ml → 1,23ng/ml → 0,35ng/ml. 


Nồng độ PCT ở nhóm NKH đáp ứng với điều 
trị kháng sinh 

Nồng độ PCT ở nhóm NKH không đáp ứng với 

Bảng 1. Nồng độ PCT (ng/ml) thay đổi trước và sau 
điều trị ở nhóm NKH đáp ứng với điều trị kháng sinh 
PCT
N
Trung
bình
Trung vị
Nhỏ nhất
Lớn nhất
p

T1
95
22,23 ±
32,84
11,46
0,10
182,0

T2
95
15,25 ±
24,72
8,41
0,20

135,1
<0,001

T3
95
7,92 ±
12,97
3,01
0,08
78,26
<0,001

Trung bình

Nghiên cứu Y học

điều trị kháng sinh 
Bảng 2. Nồng độ PCT (ng/ml) thay đổi trước và sau 
điều trị KS ở nhóm NKH không đáp ứng điều trị 
kháng sinh 

T4
93
2,76 ±
4,96
0,90
0,07
23,11
<0,001


PCT
N
Trung
bình
Trung vị
Nhỏ nhất
Lớn nhất
p

Trung vị

25

T1
55
48,73 ±
84,57
21,02
0,09
448,2

20

T2
46
41,84 ±
64,73
19,61
0,11
310,0

0,589

T3
24
16,96 ±
23,94
3,19
0,68
87,88
0,132

Trung bình

15

60

10

40

T4
19
15,31 ±
22,78
4,12
0,82
92,35
0,082


Trung vị

5
20

0
T1

T2

T3

T4

Biểu đồ 1. Đường biểu diễn động học của nhóm bệnh 
nhân NKH đáp ứng với điều trị kháng sinh 
‐ Ở lần xét nghiệm thứ 2 sau 24 giờ điều trị 
kháng  sinh  có  83/95  TH,  chiếm  88%  nồng  độ 
PCT2 giảm ngay so với PCT1. Chỉ có 12/95 TH, 
chiếm  12%  nồng  độ  PCT2  còn  tăng.  Tuy  nhiên 
tất  cả  các  TH  này  (95/95  TH=100%)  sau  48  giờ 
điều trị KS đều có nồng độ PCT3 giảm. 
‐ Nhóm BN đáp ứng có thời gian nhập viện 
sớm,  trung  bình  là  5,5  ngày  sau  khi  bệnh  khởi 
phát, 54/95 TH (chiếm 56%) có điều trị KS tiêm 
và  31/95  TH  (chiếm  32%)  có  bệnh  lý  nền  kèm 
theo  như  đái  tháo  đường,  viêm  đa  khớp,  gout, 
cao huyết áp... 
Theo một số tác giả: 


 

0
T1

T2

T3

T4

 
Biểu đồ 2. Đường biểu diễn động học của nhóm bệnh 
nhân NKH không đáp ứng với điều trị kháng sinh 
‐  Có  27/55  TH  (chiếm  49%)  nồng  độ  PCT2 
cao  hơn  PCT1  sau  24  giờ  điều  trị  KS.  Có  14/27 
TH  (chiếm  52%)  nồng  độ  PCT3  cao  hơn  PCT2 
sau 48 giờ điều trị KS. Có 8/14 TH (chiếm 57%) 
nồng  độ  PCT4  tăng  cao  hơn  PCT3  sau  6  ngày 
điều trị KS. 
‐ Theo dõi trung vị của PCT giữa các lần xét 
nghiệm  cho  thấy  nồng  độ  PCT4  tăng  cao  hơn 
PCT3 trên nhóm bệnh nhân không đáp ứng với 
điều trị KS. 
‐  Nhóm  BN  không  đáp  ứng  có  thời  gian 
nhập viện hơi muộn, trung bình là 8,5 ngày sau 

109



Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Số 4 * 2014

Nghiên cứu Y học 
khi  bệnh  khởi  phát,  46/55  TH  (chiếm  83%)  có 
điều  trị  KS  tiêm  và  41/55  TH  (chiếm  75%)  có 
bệnh lý nền kèm theo như đái tháo đường, viêm 
đa khớp, gout. 
Theo một số nghiên cứu: 
‐  L.X.Trường(2):  nghiên  cứu  24  trường  hợp 
NKH  không  đáp  ứng  với  điều  trị  KS,  trung  vị 
của  PCT  thay  đổi  trước  và  sau  2  ngày,  6  ngày 
điều  trị  như  sau:  19,36ng/ml  →  22,74ng/ml  → 
17,23 → 52ng/ml. 

‐  Schetz  P  và  CS(8):  trên  các  bệnh  nhân 
NKH  nặng  không  đáp  ứng  với  điều  trị  KS, 
nồng  độ  PCT  thay  đổi  rất  ít  và  sự  khác  biệt 
nồng  độ  giữa  các  lần  xét  nghiệm  không  có  ý 
nghĩa thống kê (p>0,05). 
So  sánh  sự  thay  đổi  giữa  nồng  độ  PCT  và 
DHLS  (tri  giác,  nhiệt  độ)  trên  các  bệnh  nhân 
NKH có đáp ứng và không đáp ứng với điều trị 
kháng sinh. 
Thay đổi giữa nhóm đáp ứng và không đáp 
ứng với điều trị kháng sinh. 

Bảng 3. Tỷ lệ % PCT và DHLS thay đổi giữa 2 nhóm đáp ứng và không đáp ứng với điều trị kháng sinh  
% PCT
Thay đổi sớm so với DHLS
Thay đổi tương ứng với DHLS


Đáp ứng với điều trị KS (N=95 Không đáp ứng với điều trị KS (N=55) Tổng số (n=150)
TH)
38 (40%)
3 (5,5%)
41 (27,3%)
57 (60%)
52 (94,5%)
109 (72,7%)

Phép kiểm 2, p = 0,074. 

 Nhận xét: 
‐  Trong  các  bệnh  nhân  NKH  đáp  ứng  với 
điều  trị  kháng  sinh  (KS)  ở  24  giờ  đầu,  có  38/95 
TH (40%) nồng độ PCT2 thay đổi trước sự thay 
đổi của tri giác hoặc sốt hoặc sốt và tri giác. 
‐  Trong  38/95  TH  (40%)  nồng  độ  PCT  thay 
đổi sớm so với DHLS có: 
<0,5ng/ml: 2/5 TH = 40% 
≥0,5 – 2ng/ml: 9/14 = 64%  
>2 – 10ng/ml: 10/31 = 32% 
>10ng/ml: 17/45 = 37% 
‐  Trong  nhóm  không  đáp  ứng  với  điều  trị 
KS,  lúc  đầu  nồng  độ  PCT  thay  đổi  theo  chiều 
hướng giảm nhẹ (3/55 TH = 5,5%), nhưng sau vài 
ngày điều trị thì nồng độ PCT không giảm nữa 
Bảng 5. So sánh nồng độ PCT theo loại vi khuẩn 
Nồng độ (ng/ml)
Trung bình

Trung vị
Nhỏ nhất
Lớn nhất

Gram (+) (N = 73)
22,86 ± 30,87
11,46
0,09
128,97

hoặc  tăng  trở  lại  trước  khi  bệnh  nhân  tử  vong 
hoặc xin về vì suy đa cơ quan (12/55 TH = 22%). 
So  sánh  sự  thay  đổi  của  PCT  so  với  DHLS 
(tri giác, nhiệt độ). 
Bảng 4. So sánh sự thay đổi của PCT so với DHLS 
(tri giác, nhiệt độ) 
PCT
PCT thay đổi sớm so với tri giác
PCT thay đổi sớm so với nhiệt độ
PCT thay đổi sớm so với tri giác
và nhiệt độ
Tổng cộng

Bệnh nhân Tỷ lệ%
8
19,5
27
65,9
6
14,6

41

100

PCT  thay  đổi  sớm  hơn  dấu  hiệu  thân  nhiệt 
(sốt) chiếm tỷ lệ cao nhất (27/41 TH = 65,9%).  
So sánh nồng độ PCT theo vi khuẩn Gram 
(+), Gram (‐) 
Gram (-) (N = 77)
40,56 ± 75,37
14,08
0,10
448,2

Tổng (N = 150)
31,95 ± 58,62
12,58
0,09
448,2

p = 0, 064  

‐ Tuy có sự khác biệt về nồng độ PCT giữa 
2 nhóm vi khuẩn Gram (+), Gram (‐), nhưng sự 
khác  biệt  này  không  có  ý  nghĩa  thống  kê 
(p=0,06). 

110

Tỷ lệ % vi khuẩn nhạy và không nhạy với 

kháng sinh đồ 


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Số 4 * 2014

Nghiên cứu Y học

Bảng 6 Tỷ lệ % vi khuẩn nhạy và không nhạy với kháng sinh đồ 
Nhóm bệnh
Đáp ứng với điều trị KS: 95/150 TH
Không đáp ứng với điều trị KS: 55/150 TH

KSĐ
Nhạy KSĐ
76 TH (80%)
Không nhạy KSĐ
19 TH (20%)
Nhạy KSĐ
19 TH (34%)

Không nhạy KSĐ

Trong 55 TH không đáp ứng với điều trị có 
28/55  TH  xin  về  hoặc  chuyển  viện  trước  khi  có 
kết quả KSĐ (chỉ ≤ 3 ngày nằm viện): 
‐  Cấy  máu  cho  thấy  có  6  TH  phù  hợp  với 
KSĐ nhưng không đáp ứng với điều trị, chúng 
tôi thấy các BN này có thời gian dài điều trị tại 
nhà (tự mua thuốc uống hoặc đến bác sĩ tư điều 
trị), có bệnh cảnh lâm sàng rất nặng do suy đa cơ 

quan  hoặc  có  bệnh  lý  nền  khác  kèm  theo  như 
ĐTĐ, gout, viêm đa khớp. 
‐ 22 TH còn lại cho kết quả không nhạy với 
kháng sinh đồ. 

4.

5.

6.

7.

8.

 KẾT LUẬN 
Động học của PCT có thể giúp theo dõi kết 
quả  điều  trị  kháng  sinh  trên  bệnh  nhân  nhiễm 
khuẩn  huyết‐choáng  nhiễm  khuẩn.  Nồng  độ 
PCT  giảm  khi  bệnh  nhân  đáp  ứng  với  điều  trị 
kháng  sinh.  PCT  thay  đổi  không  có  ý  nghĩa 
thống  kê  khi  kháng  sinh  điều  trị  không  thích 
hợp hoặc bệnh nhân suy đa cơ quan. 

9.

10.

TÀI LIỆU THAM KHẢO 


11.

1.

12.

2.

3.

Barbie  J.  et  al  (2013).  “Kinetics  of  changes  in  serum 
concentrations  of  procalcitonin,  interleukin‐6,  and  C‐reactive 
protein  after  elective  abdominal  surgery.  Can  it  be  usedto 
detect postoperative”. Coll Antropol. 2013 Mar; 37(1): 195‐201. 
Koivula  L.  and  col.  (2011).  “Elevated  procalcitonin  predicts 
Gram‐negative  sepsis  in  haematological  patients  with  febrile 
neutropenia”. Scand J Infect Dis. 2011 Jul; 43(6‐7): 471‐8.   
Kopterides  P,  Tsangaris  I.  (2012).  “Procalcitoni  and  sepsis: 
recent  data  on  diagnostic  utility  prognostic  potential  and 

36 TH (66%)

Tiến triển bệnh
Tốt, xuất viện.
Đổi KSĐ → tốt, xuất viện.
- Suy đa cơ quan
- Có điều trị dài ngày trước đó
- Bệnh lý nền kèm theo
- Tử vong, xin về


therapeutic  implications  in  critically  ill  patients”.  Minerva 
Anestesiol. 2012 Jul; 78(7): 823‐35. 
Lê Xuân Trường (2009). “Giá trị chẩn đoán và tiên lượng của 
procalcitonin huyết thanh trong nhiễm trùng huyết”. Tạp chí 
Y học TP.HCM, tập 13, phụ bản số 1, tr.189‐194.   
Lê  Xuân  Trường  (2009).  “Theo  dõi  kết  quả  điều  trị  nhiễm 
trùng  huyết  và  choáng  nhiễm  trùng  bằng  động  học  của 
procalcitonin”. Tạp chí Y học TP.HCM, tập 13, phụ bản số 1, 
tr.213‐221. 
Nguyễn Nghiêm Tuấn (2008). “Vai trò của procalcitonin trong 
chẩn đoán và điều trị nhiễm khuẩn huyết”. Luận văn Thạc sĩ 
Y học. Chuyên ngành Nội khoa – Đại học Y Dược TP.Hồ Chí 
Minh. 
Ruiz‐Rodriguez  JC,  Rello  J  (2013).  “Predicting  treatment 
failure in severe sepsis and septic shock: looking for the Holy 
Grail”. Crit Care. 2013 Sep 4; 17(5): 180.   
Schuetz  P,  Maurer  P  (2013).  ”Procalcitonin  decease  over  72 
hours in US critical care units predicts fatal outcome in sepsis 
patients”. Crit Care. 2013 Jun 20; 17(3): R115. 
Theodorou  VP  and  col.  (2012).  “Procalcitonin  and 
procalcitonin  kinetics  for  diagnosis  and  prognosis  of 
intravascular  catheter‐related  bloodstream  infections  in 
selected  critically  ill  patients:  a  prospective  observational 
study”. BMC Infect Dis. 2012 Oct 8; 12:247. 
Venkatesh  B,  Kennedy  D,  Kruger  DS,  Looke  D  (2011). 
“Changes  in  serum  procalcitonin  and  C  reactive  protein 
following  antimicrobialtherapy  as  a  guide  to  antibiotic 
duration  in  the  critically  ill:  a  prospective  evaluation”. 
Anaesth Intensive Care, 2011 Jan, 37(1), pp. 20‐26.  
Weidner  W,  Wagenlehner  FM  (2014),  “Procalcitonin  as  a 

diagnostic marker for sepsis”, Eur Urol, 66(1), pp. 178.  
 
Yukioka  H.,  Yoshida  G.,  Kurita  S.,  Kato  N  (2012).  ”Plasma 
procalcitonin  in  sepsis  and  organ  failure”.  Ann  Acad  Med 
Singapore. 30(5). pp. 528‐531.   

 

Ngày nhận bài báo:    

 

03/08/2014 

Ngày phản biện đánh giá bài báo:  

10/08/2014 

Ngày bài báo được đăng:  

30/08/2014 

 

 

 

111




×