Tải bản đầy đủ (.pdf) (6 trang)

Tỷ lệ đạt huyết áp mục tiêu trên bệnh nhân đái tháo đường

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (349.69 KB, 6 trang )

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Số 6 * 2013 

Nghiên cứu Y học

TỈ LỆ ĐẠT HUYẾT ÁP MỤC TIÊU  
TRÊN BỆNH NHÂN ĐÁI THÁO ĐƯỜNG 
Chung Bá Ngọc*,  Hoàng Quốc Hòa* 

TÓM TẮT 
Đặt vấn đề: Đái tháo đường là một vấn đề sức khỏe quan trọng trên toàn thế giới. Tăng huyết áp xuất hiện 
đồng thời làm gia tăng biến chứng tim mạch lên 2‐4 lần. Tỉ lệ kiểm soát huyết áp vẫn còn chưa khả quan ngay cả 
ở các nước phát triển. Hiện tại ở Việt Nam chưa có nhiều nghiên cứu khảo sát về tỉ lệ đạt huyết áp mục tiêu trên 
bệnh nhân đái tháo đường. 


Mục tiêu: Xác định tỉ lệ tăng huyết áp và tỉ lệ đạt huyết áp mục tiêu trên bệnh nhân đái tháo đường. 
Phương pháp nghiên cứu: Mô tả cắt ngang được thực hiện từ 1/3/2012 đến 30/9/2012 tại bệnh viện Nhân 
Dân Gia Định với 291 bệnh nhân tham gia. 
Kết quả: Tỉ lệ tăng huyết áp là 80,1% và tỉ lệ đạt huyết áp mục tiêu (< 130/80 mmHg) là 19,3%. 
Kết luận: Bệnh nhân đái tháo đường có tỉ lệ cao xuất hiện đồng thời tăng huyết áp nhưng tỉ lệ đạt huyết áp 
mục tiêu còn thấp. 
Từ khóa: Đái tháo đường, tăng huyết áp, tăng huyết áp trên bệnh nhân đái tháo đường, đạt huyết áp mục 
tiêu. 

ABSTRACT 
CONTROLLED HYPERTENSION IN DIABETIC PATIENTS 
Chung Ba Ngoc, Hoang Quoc Hoa * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 17 ‐ No 6 ‐ 2013: 13 ‐ 18 

Background:  Diabetes  is  an  important  health  problem  all  over  the  world.  Concurrent  hypertention  in 
diabetes  can  2‐4  times  increase  cardiovascular  risk.  Rates  of  controlled  hypertenstion  are  not  optimal  even  in 
developed countries. In Vietnam, there have not been enough studies related to blood pressure control in diabetes. 
Objectives: To identify the prevalence of hypertension and rate of controlled hypertension in diabetes. 
Research design and methods. A cross‐sectional study was conducted in Gia Dinh People’s Hospital in 291 
diabetic patients from 1/3/2012 to 30/9/2012. 
Results: The prevalence of hypertension is 80.1% and the rate of controlled hypertension (< 130/80 mmHg) 
is 19.3%. 
Conclusions: The diabetic patients have high prevalence of hypertension but the rate of control is low. 
Key words: Diabetes, hypertension, hypertension in diabetes, controlled hypertension. 
nguyên nhân gây tử vong đứng hàng thứ bảy ở 
ĐẶT VẤN ĐỀ 

Hoa Kỳ với nguy cơ tử vong tăng lên gấp đôi so 
Đái  tháo  đường  là  một  vấn  đề  sức  khỏe 
với  người  cùng  tuổi  không  đái  tháo  đường.  Về 
quan  trọng  trên  toàn  thế  giới.  Theo  thống  kê 
biến  chứng  lên  tim  mạch,  nguy  cơ  tử  vong  do 
năm  2011  của  CDC  (Trung  tâm  quản  lý  và 
tim  mạch  và  nguy  cơ  đột  quỵ  tăng  lên  2‐4  lần. 
phòng  chống  dịch  bệnh  Hoa  Kỳ),  đái  tháo 
Đái  tháo  đường  còn  là  nguyên  nhân  hàng  đầu 
đường  ảnh  hưởng  đến  8,3%  dân  số,  tương 
dẫn đến mù, suy thận và đoạn chi(3). 
đương  với  25,8  triệu  người.  Đái  tháo  đường  là 

Tăng  huyết  áp  thường  xuất  hiện  đồng  thời 
* Khoa Nội Tim Mạch, Bệnh viện Nhân Dân Gia Định 
Tác giả liên lạc: BS.CKII. Chung Bá Ngọc, ĐT: 0903.655.751

Email.

Hội Nghị Khoa Học Công Nghệ BV. Nhân Dân Gia Định năm 2013  

13


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Số 6 * 2013


Nghiên cứu Y học 
trên bệnh nhân đái tháo đường với tần suất thay 
đổi  từ  71‐77%  theo  thống  kê  của  NHANES  III 
(Chương trình khảo sát dinh dưỡng và sức khỏe 
quốc  gia  của  Hoa  Kỳ).  Ở  Việt  Nam,  tỉ  lệ  tăng 
huyết áp trên bệnh nhân đái tháo đường là 55% 
theo nghiên cứu của tác giả Tạ Thị Tuyết Mai và 
cộng  sự  năm  2010(4,16).  35‐75%  biến  chứng  tim 
mạch và thận trên bệnh nhân đái tháo đường có 
thể quy trách cho tăng huyết áp. Tác hại của hai 
yếu tố tim mạch này lên cơ quan đích không chỉ 

ảnh hưởng đến bản thân bệnh nhân mà còn gây 
ra gánh nặng cho gia đình và xã hội. Theo thống 
kê của CDC (Trung tâm quản lý và phòng chống 
dịch bệnh Hoa Kỳ), vào năm 2010, tăng huyết áp 
đã khiến tiêu tốn 93,5 tỉ đô la cho dịch vụ y tế, 
thuốc  men  và  ngày  công  lao  động(4).  Riêng  về 
đái tháo đường, cũng theo tổ chức này, kinh phí 
cho năm 2011 là 174 tỉ đô la(3). 
Việc kiểm soát huyết áp trên bệnh nhân đái 
tháo  đường  giúp  giảm  bệnh  suất  và  tử  suất  đã 
được  chứng  minh  rõ  ràng  theo  các  công  trình 
nghiên  cứu  lớn.  Theo  nghiên  cứu  UKPDS,  ở 

nhóm  bệnh  nhân  kiểm  soát  chặt  huyết  áp,  tỉ  lệ 
đột  quỵ  giảm  44%(17).  Công  trình  nghiên  cứu 
HOT  cũng  cho  những  kết  quả  tương  tự  và  từ 
nghiên  cứu  này  mục  tiêu  kiểm  soát  huyết  áp 
trên bệnh nhân đái tháo đường được đề nghị là 
dưới  130/80  mmHg  (so  với  người  không  đái 
tháo đường là dưới 140/90 mmHg)(9). Tuy nhiên, 
kiểm  soát  huyết  áp  luôn  là  vấn  đề  thách  thức 
trên  bệnh  nhân  đái  tháo  đường  với  tỉ  lệ  đạt 
huyết áp mục tiêu là 12% (số liệu thống kê của 
NHANES 1988‐1994 và của tác giả McLean)(15,16). 
Việc  có  được  số  liệu  tin  cậy  về  tỉ  lệ  tăng 

huyết áp và nhất là tỉ lệ đạt  huyết  áp  mục  tiêu 
trên bệnh nhân đái tháo đường có vai trò quan 
trọng  trong  công  tác  quản  lý  nhóm  đối  tượng 
nguy cơ cao này. Tuy nhiên, hiện tại trong nước 
chưa có nhiều nghiên cứu khảo sát về tỉ lệ tăng 
huyết áp và tỉ lệ đạt huyết áp mục tiêu trên bệnh 
nhân đái tháo đường. 

Bệnh  nhân  đái  tháo  đường  đến  khám  tại 
phòng khám nội tổng quát, tim mạch và nội tiết 
hoặc nhập khoa tim mạch và khoa nội tiết Bệnh 
viện  Nhân  Dân  Gia  Định  trong  thời  gian  từ 

1/3/2012 đến 30/9/2012. 

Tiêu chuẩn loại trừ 
‐ Bệnh nhân không đồng ý tham gia nghiên 
cứu. 
‐  Bệnh  nhân  đang  có  tình  trạng  bệnh  cấp 
tính. 

Phương pháp nghiên cứu 
Cắt ngang mô tả. 

KẾT QUẢ 

Đặc điểm dân số nghiên cứu 
Trong  khoảng  thời  gian  từ  1/3/2012  đến 
30/9/2012, chúng tôi đã khảo sát được 291 bệnh 
nhân  đái  tháo  đường  đến  khám  chữa  bệnh  tại 
bệnh viện Nhân Dân  Gia  Định.  Đáng  ghi  nhận 
là tất cả số bệnh nhân trong mẫu của chúng tôi 
đều là đái tháo đường type 2. 

Đối tượng bệnh nhân 
Chúng  tôi  tiến  hành  khảo  sát  tại  7  khoa 
phòng khác nhau thuộc hai khối  tim  mạch,  nội 
tiết và nội tổng quát. Việc lấy mẫu từ nhiều khu 

vực  thuộc  nội  viện  và  ngoại  viện  có  thể  giúp 
giảm thiểu sai lệch chọn mẫu từ việc phân luồng 
bệnh  nhân  theo  chuyên  khoa  tại  khoa  cấp  cứu 
hay khu vực phòng khám. 
Bảng 1: Khoa 
Khoa phòng
Khoa nội tiết
Khoa tim mạch
Phòng khám nội tổng quát
Phòng khám nội tiết
Phòng khám tim mạch
Tổng cộng


Số bệnh nhân
43
43
58
62
85
291

%
14,8
14,8

19,9
21,3
29,2
100

Bảng 2: Tuổi 
Nhỏ nhất

Lớn nhất

Trung bình


Độ lệch chuẩn

27 

91 

62,81 

11,437 

PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU: 
Tiêu chuẩn chọn bệnh 


14

Hội Nghị Khoa Học Công Nghệ BV. Nhân Dân Gia Định năm 2013  


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Số 6 * 2013 

 
Hình 1: Giới tính 
Một số đặc điểm liên quan đến tăng huyết áp 
Bảng 3: Trị số huyết áp 

Huyết 
áp Nhỏ nhất 
(mmHg) 
Tâm thu 
92 
Tâm trương 
59 

Lớn 
nhất 
181 
99 


Trung 
bình 
129,91 
79,15 

Độ  lệch 
chuẩn 
16,450 
8,978 

Bảng 4: Tỉ lệ tăng huyết áp trên bệnh nhân đái tháo 

đường 
Tăng huyết áp

Không

Số bệnh nhân
233
58

%
80,1
19,9


Bảng 5: Tỉ lệ đạt huyết áp mục tiêu 
 
< 130/80 mmHg 
Không  đạt  huyết 
áp mục tiêu 

Số 
nhân 
45 

bệnh 



19,3 

188 

80,6 

BÀN LUẬN 
Đặc điểm dân số nghiên cứu 
Bảng 6: Tuổi 
Nghiên cứu

Chúng tôi
ACCORD (11)
Hypertension in Diabetes Study
(17)
G C Chan (5)
Nguyễn Thị Thu Thảo (13)

Tuổi trung bình
62,81
62,2
52
56,7

54

Tuổi trung bình trong dân số nghiên cứu của 
chúng  tôi  là  62,81.  So  với  các  nghiên  cứu  khác 
liên quan đến đái tháo đường, nhóm bệnh nhân 
của chúng tôi có tuổi cao hơn. Một số lý do sau 
có thể giải thích sự khác biệt này. 
Với  nghiên  cứu  HDS  (Hypertension  in 
Diabetes),  đây  là  công  trình  lấy  mẫu  từ  nhóm 
bệnh nhân của đoàn hệ UKPDS và công bố kết 

Nghiên cứu Y học

quả vào năm 1993. HDS có tính đại diện cao vì 
cỡ mẫu lớn và được thực hiện ngoài cộng đồng. 
Tuy  nhiên,  thời  điểm  tiến  hành  nghiên  cứu  lại 
cách  xa  đề  tài  của  chúng  tôi  và  trong  khoảng 
thời gian này, các tiến bộ về chẩn đoán, điều trị 
và theo dõi có thể góp phần kéo dài tuổi thọ cho 
bệnh nhân đái tháo đường. Quan điểm này cũng 
được ủng hộ khi xem xét nghiên cứu ACCORD 
được  thực  hiện  vào  năm  2010.  Ngoài  ra,  mẫu 
của chúng tôi đến từ một bệnh viện tuyến cuối 
và  khoảng  một  nửa  là  bệnh  nhân  nội  viện. 
Chính  phương  thức  này  cũng  góp  phần  không 

nhỏ tạo ra sự thay đổi đáng kể về độ tuổi trung 
bình. 
Một nghiên cứu khác của tác giả Chan được 
tiến hành tại cơ sở y tế. Độ tuổi cao hơn rõ so với 
nghiên  cứu  HDS.  Có  lẽ  vì  nơi  lấy  mẫu  của 
nghiên  cứu  này  chỉ  là  trung  tâm  chăm  sóc  sức 
khỏe ban đầu nên bệnh nhân vẫn có tuổi trung 
bình trẻ hơn khảo sát của chúng tôi. 
Gần đây, tác giả Nguyễn Thị Thu Thảo thực 
hiện  nghiên  cứu  ở  đối  tượng  đái  tháo  đường 
mới mắc tại bệnh viện Nhân Dân Gia Định. Có 
thể nhận thấy, tuy nơi lấy mẫu tương đồng với 

chúng tôi nhưng do là đái tháo đường mới khởi 
phát  nên  kéo  theo  tuổi  của  mẫu  nghiên  cứu 
không quá cao. 
Tuổi trung bình cao tuy phần nào phản ánh 
tiến  bộ  trong  công  tác  khám  chữa  bệnh  nhưng 
đồng  thời  cũng  cho  thấy  bệnh  nhân  sẽ  có  thời 
gian  mắc  bệnh  kéo  dài  và  kéo  theo  nhiều  biến 
chứng bao gồm cả những biến chứng nặng. Đây 
sẽ là thách thức lớn cho các bệnh viện lớn trong 
nội thành thành phố Hồ Chí Minh. 
Tóm lại, nghiên cứu của chúng tôi tuy không 
đại  diện  cho  cộng  đồng  nhưng  rất  có  tính  đại 

diện  cho  nhóm  bệnh  nhân  đái  tháo  đường  tại 
các  bệnh  viện  tuyến  cuối,  nơi  có  trang  bị  kỹ 
thuật đầy đủ và trình độ chuyên môn của nhân 
viên y tế luôn được kiểm soát chặt. 
Kết  quả  của  chúng  tôi  khá  tương  đồng  với 
hầu  hết  các  nghiên  cứu  tham  chiếu.  Tỉ  lệ  bệnh 
nhân nữ cao hơn đáng kể so với nam giới. Tuy 
nhiên,  theo  thống  kê  của  Trung  tâm  kiểm  soát 

Hội Nghị Khoa Học Công Nghệ BV. Nhân Dân Gia Định năm 2013  

15



Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Số 6 * 2013

Nghiên cứu Y học 
dịch bệnh Hoa Kỳ (CDC) năm 2011, tỉ lệ nam/nữ 
bị đái tháo đường là 52,2/47,8, tức là sự khác biệt 
không  rõ  rệt  đối  với  dân  số  đái  tháo  đường 
ngoài cộng đồng. 
Bảng 7: Giới 
Nghiên cứu
Chúng tôi

L. E. N. T. Duc Son và cs. (15)
Hypertension in Diabetes Study(17)
ACCORD(11)
G C Chan(5)
Abougalambou và cs.(1)

Nam/Nữ (%)
38,5/61,5
34,4/65,6
59/41
52,3/47,7
36,1/63,9

44,2/55,8

Tác giả Gale có đưa ra nhận định về sự thay 
đổi tương quan với giới tính của bệnh đái tháo 
đường. Vào nửa đầu thế kỷ 20, tỉ lệ phụ nữ đái 
tháo đường cao hơn hẳn so với nam giới nhưng 
trở về sau, hầu như tỉ lệ trở nên tương đồng giữa 
hai giới, thậm chí nam ở độ tuổi trung niên còn 
có khuynh hướng cao hơn. Nam giới nhạy cảm 
hơn so với nữ có thể do hậu quả của lối sống ít 
vận động và tình trạng béo phì cũng như do sự 
khác biệt về tính nhạy cảm insulin và sự tích lũy 

mỡ trong cơ thể (7). 
Một số khả năng khác giải thích cho sự nổi 
trội ở nữ giới trong nghiên cứu của chúng tôi là 
nơi lấy mẫu không phải ngoài cộng đồng. Xét về 
phương  diện  khác,  nếu  nghiên  cứu  của  chúng 
tôi  phản  ánh  tỉ  lệ  bệnh  nhân  nữ  bị  đái  tháo 
đường cao hơn hẳn nam giới tại bệnh viện Nhân 
Dân Gia Định nói riêng và các bệnh viện tuyến 
đầu  nói  chung  thì  đây  sẽ  là  vấn  đề  rất  đáng 
quan tâm. Theo thống kê của Hội tim mạch Hoa 
Kỳ vào năm 2013, nữ giới có tỉ lệ bệnh tật và tử 
vong liên quan đến tim mạch cao hơn hẳn so với 

nam  giới.  Chắc  chắn  là  với  kết  quả  bệnh  nhân 
nữ  đái  tháo  đường  chiếm  đa  số  theo  khảo  sát 
của  chúng  tôi,  gánh  nặng  về  bệnh  lý  tim  mạch 
đang và sẽ trở nên cấp thiết hơn trong tương lai. 

Đặc điểm liên quan đến tăng huyết áp 
Nghiên  cứu  của  chúng  tôi  mang  đến  một 
thông tin rất đáng lưu tâm. Tỉ lệ tăng huyết áp 
trên  nhóm  bệnh  nhân  đái  tháo  đường  lên  đến 
80%.  Điều  này  mang  ý  nghĩa,  cứ  5  bệnh  nhân 
đái tháo đường thì có 4 bệnh nhân có kèm theo 
tăng  huyết  áp.  Cùng  với  kết  quả  về  tuổi  trung 


16

bình,  tăng  huyết  áp  sẽ  làm  gia  tăng  rất  nhiều 
nguy  cơ  tim  mạch  trong  dân  số  khảo  sát  của 
chúng tôi. 
Bảng 8: Tỉ lệ tăng huyết áp trên bệnh nhân đái tháo 
đường 
Nghiên cứu
Chúng tôi
Tạ Thị Tuyết Mai[16]
Dương Thị Bích Thủy(6)

Phân tích gộp của Donna L
McLean(12)
Bunnaq và cs.(2)
G C Chan và cs.(5)
Abougalambou và cs.(1)

Tỉ lệ tăng huyết áp (%)
80.1
55 (Nam), 38 (Nữ)
46
62
78,4

67,7
92,7

So với các khảo sát tương tự được tiến hành 
ngoài  nước,  kết  quả  của  chúng  tôi  khá  tương 
đồng với nghiên cứu sổ bộ của Thái Lan, nghiên 
cứu  của  tác  giả  Chan  ở  Malaysia.  Hai  nghiên 
cứu này đều được thực hiện tại các bệnh viện ở 
khu vực phòng khám. Đề tài của chúng tôi cũng 
được  thực  hiện  với  ưu  thế  bệnh  nhân  đến  từ 
khoa khám bệnh. 
Nghiên  cứu  của  tác  giả  Abougalambou  cho 

kết quả cao nổi trội mặc dù cách lấy mẫu được 
tiến  hành  khá  tương  đồng  với  chúng  tôi.  Điểm 
đáng  ghi  nhận  là  47,3%  bệnh  nhân  của 
Abougalambou có thời gian mắc đái tháo đường 
trên  10  năm.  Với  số  lượng  cao  bệnh  nhân  đái 
tháo đường lâu năm, tỉ lệ tăng huyết áp do vậy 
có thể cao hơn so với nghiên cứu của chúng tôi. 
Tình  trạng  không  thống  nhất  về  tiêu  chí 
chọn  mẫu  cũng  được  ghi  nhận  trong  phân  tích 
gộp của tác giả Donna Mc. Lean trên hơn 77000 
bệnh  nhân  đái  tháo  đường.  Mặc  dù  có  sự  biến 
thiên  về  ngưỡng  chẩn  đoán  tăng  huyết  áp 

nhưng  tỉ  lệ  tăng  huyết  áp  trên  bệnh  nhân  đái 
tháo  đường  theo  Donna  Mc.  Lean  vẫn  lên  đến 
62%. 
Khi  so  sánh  với  các  đề  tài  tương  tự  được 
thực hiện trong nước, tỉ lệ tăng huyết áp của các 
nghiên  cứu  khác  đều  thấp  hơn  rõ  rệt  so  với 
chúng tôi. Chúng tôi nhận định những khảo sát 
này có cách lấy mẫu khác với chúng tôi, đơn cử 
là tác giả Tạ Thị Tuyết Mai và Nguyễn Thị Thu 
Thảo  đều  tập  trung  vào  đái  tháo  đường  mới 

Hội Nghị Khoa Học Công Nghệ BV. Nhân Dân Gia Định năm 2013  



Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Số 6 * 2013 
mắc.  Riêng  về  nghiên  cứu  của  Dương  Thị  Bích 
Thủy,  mẫu  nghiên  cứu  còn  khá  nhỏ  để  có  thể 
phản  ánh  đúng  tỉ  lệ  tăng  huyết  áp  trên  bệnh 
nhân đái tháo đường. 
Như  vậy,  từ  kết  quả  của  chúng  tôi  và  so 
sánh với các tác giả khác, chúng tôi nhận thấy đa 
số bệnh nhân đái tháo đường đều kèm theo  có 
tăng huyết áp. Nguy cơ tim mạch phối hợp, biến 
chứng  xảy  ra  cũng  như  gánh  nặng  về  chi  phí 

điều  trị  sẽ  là  những  thách  thức  cho  ngành  y  tế 
đối với nhóm bệnh nhân này. 
Bảng 9: Tỉ lệ kiểm soát huyết áp trên bệnh nhân đái 
tháo đường 
Nghiên cứu
Chúng tôi
Phân tích gộp của Donna L McLean(12)
Bunnaq và cs.(2)
G C Chan và cs.(5)
Abougalambou và cs.(1)
Swedish Trial in Old Patients with
Hypertension- 2 study(8)

Katayama và cs.(10)

Tỉ lệ kiểm soát
huyết áp (%)
19
12
13,85
3,1
47,2
23
11,4


So với các nghiên cứu khác trên thế giới, tỉ lệ 
kiểm soát tăng huyết áp trên bệnh nhân đái tháo 
đường của chúng tôi có sự tương đồng rất cao. 
Riêng  với  sự  khác  biệt  rõ  rệt  với  tác  giả  Chan, 
chúng  tôi  nhận  thấy  nghiên  cứu  của  Chan  là 
nghiên  cứu  sổ  bộ  trên  đối  tượng  dân  số  ngoài 
cộng đồng và đáng ghi nhận, có đến khoảng 1/3 
số bệnh nhân không được sử dụng thuốc hạ áp. 
Những điểm trên có thể giải thích tại sao Chan 
đưa ra kết quả rất thấp như vậy. Ngược lại, kết 
quả  của  tác  giả  Abougalambou,  kết  quả  lại  rất 
ngoạn mục với gần ½ số bệnh nhân được kiểm 

soát  huyết  áp.  Tuy  nhiên,  cần  lưu  ý  là  nơi  lấy 
mẫu nghiên cứu là một bệnh viện tuyến cuối và 
ngưỡng  huyết  áp  mục  tiêu  cao  hơn  so  với 
nghiên cứu của chúng tôi. 
Tăng huyết áp rõ ràng là một yếu tố nguy cơ 
tim  mạch  quan  trọng,  đặc  biệt  trên  bệnh  nhân 
đái  tháo  đường.  Việc  nhận  diện  ra  vai  trò  của 
huyết  áp  mục  tiêu  trên  đối  tượng  nguy  cơ  cao 
này  đã  được  đặt  ra  từ  lâu  nhưng  kết  quả  vẫn 
không có tiến triển nổi bật. Kết quả nghiên cứu 
của chúng tôi mang đến những nhận định sau 


Nghiên cứu Y học
‐  Tỉ  lệ  đạt  huyết  áp  mục  tiêu  thấp  trên  đối 
tượng đái tháo  đường  sẽ  dự  báo  gánh  nặng  về 
biến chứng và tử vong cao trong tương lai. 
‐ Mỗi một quốc gia hoặc khu vực lãnh thổ có 
những  sự  khác  biệt  về  quản  lý  bệnh  nhân  đái 
tháo  đường  cũng  như  những  yếu  tố  kinh  tế  xã 
hội và văn hóa ảnh hưởng đến điều trị. Sự giống 
nhau về kém hiệu quả trong kiểm soát huyết áp 
trên  bệnh  nhân  đái  tháo  đường  Việt  Nam  với 
các nghiên cứu từ các nơi trên thế giới (bao gồm 
những  nước  đang  phát  triển  và  đã  phát  triển) 

chứng tỏ đây là vấn đề rất phức tạp và chịu ảnh 
hưởng bởi nhiều yếu tố. 
‐ Việc nhận diện ra được những yếu tố ảnh 
hưởng  chính  yếu  là  nhu  cầu  bức  thiết  để  đạt 
hiệu quả tốt hơn trong điều trị bệnh nhân. 

KẾT LUẬN 
Qua khảo sát 291 bệnh nhân đái tháo đường 
ở bệnh viện Nhân Dân Gia Định trong thời gian 
từ  1/3/2012  đến  30/9/2012,  chúng  tôi  có  những 
kết luận sau 
‐ Tỉ lệ tăng huyết áp trên bệnh nhân đái tháo 

đường là 80,1%. 
‐ Tỉ lệ đạt huyết áp mục tiêu trên bệnh nhân 
đái tháo đường là 19,3%. 

TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1.

2.

3.
4.


5.

6.

Abougalambou  SS,  Abougalambou  AS,  Sulaiman  SA  et  al. 
(2011), Prevalence of hypertension, control of blood pressure 
and  treatment  in  hypertensive  with  type  2  diabetes  in 
Hospital University Sains Malaysia, Diabetes Metab Syndr, No 
5(3), tr. 115‐9. 
Bunnag P., Plengvidhya N., Deerochanawong C., et al (2006), 
Thailand  diabetes  registry  project:  prevalence  of 
hypertension,  treatment  and  control  of  blood  pressure  in 

hypertensive adults with type 2 diabetes, J Med Assoc Thai, No 
89 Suppl 1, tr. S72‐7. 
Centers  for  Disease  Control  and  Prevention  (2011),  National 
Diabetes Fact Sheet, 2011. 
Centers  for  Disease  Control  and  Prevention  (2011),  Vital 
signs:  prevalence,  treatment,  and  control  of  hypertension‐‐
United  States,  1999‐2002  and  2005‐  2008,  MMWR  Morb 
Mortal Wkly Rep, số 60(4), tr. 103‐8. 
Chan GC (2005), Type 2 diabetes mellitus with hypertension 
at  primary  healthcare  level  in  Malaysia:  are  they  managed 
according to guidelines?, Singapore Med J, số 46(3), tr. 127‐31. 
Dương Bích Thủy (2001), Nhận xét các biến chứng của bệnh 

đái  tháo  đường  ở  bệnh  nhân  được  điều  trị  tại  khoa  nội  tiết 
bệnh  viện  Nhân  Dân  Gia  Định  trong  2  năm  1999‐2000,  Hội 
nghị khoa học bệnh viện Nhân Dân Gia Định, tr. 58. 

Hội Nghị Khoa Học Công Nghệ BV. Nhân Dân Gia Định năm 2013  

17


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Số 6 * 2013

Nghiên cứu Y học 

7.
8.

9.

10.

11.

12.

13.


18

Gale  EA  và  Gillespie  KM  (2001),  Diabetes  and  gender, 
Diabetologia, số 44(1), tr. 3‐15. 
Hansson  L,  Lindholm  LH,.  Ekbom  T,  et  al.  (1999), 
Randomised  trial  of  old  and  new  antihypertensive  drugs  in 
elderly  patients:  cardiovascular  mortality  and  morbidity  the 
Swedish  Trial  in  Old  Patients  with  Hypertension‐2  study, 
Lancet, số 354(9192), tr. 1751‐6. 
Hansson L., Zanchetti A., Carruthers SG, et al. (1998), Effects 
of intensive blood‐pressure lowering and low‐dose aspirin in 

patients  with  hypertension:  principal  results  of  the 
Hypertension  Optimal  Treatment  (HOT)  randomized  trial. 
HOT Study Group, Lancet, số 351(9118), tr. 1755‐62. 
Katayama S., Inaba M., Morita T., et al. (2000), Blood pressure 
control  in  Japanese  hypertensives  with  or  without  type  2 
diabetes mellitus, Hypertens Res, số 23(6), tr. 601‐5. 
Mancia G (2010), Effects of intensive blood pressure control in 
the management of patients with type 2 diabetes mellitus in 
the  Action  to  Control  Cardiovascular  Risk  in  Diabetes 
(ACCORD) trial, Circulation, số 122(8), tr. 847‐9. 
McLean  DL,  Simpson  SH,  McAlister  FA,  et  al.  (2006), 
Treatment and blood pressure control in 47,964 people  with 

diabetes  and  hypertension:  a  systematic  review  of 
observational studies, Can J Cardiol, số 22(10), tr. 855‐ 60. 
Nguyễn Thị Thu Thảo (2011), Nghiên cứu đặc điểm lâm sàng 
 

14.

15.

16.

17.


trên bệnh nhân đái tháo đường típ 2 mới chẩn đoán, Tạp chí 
Y học thực hành. Số 12 tr 50‐53. 
Qureshi I., Suri MF, Kirmani JF, et al (2005), Prevalence and 
trends of prehypertension and hypertension in United States: 
National Health and Nutrition Examination Surveys 1976 to 
2000, Med Sci Monit, số 11(9), tr. CR403‐9. 
Son LND, Kusama K., Hung NT, et al. (2004), Prevalence and 
risk factors for diabetes in Ho Chi Minh City, Vietnam, Diabet 
Med, số 21(4), tr. 371‐6. 
Ta MT, Nguyen KT, Nguyen ND, et al. (2010), Identification 
of  undiagnosed  type  2  diabetes  by  systolic  blood  pressure 

and waist‐to‐hip ratio, Diabetologia, số 53(10), tr. 2139‐46. 
UK  Prospective  Diabetes  Study  Group  (1998),  Tight  blood 
pressure control and risk of macrovascular and microvascular 
complications in type 2 diabetes: UKPDS 38. UK Prospective 
Diabetes Study Group, BMJ, số 317(7160), tr. 703‐13. 
 

Ngày nhận bài báo 
 
 
Ngày phản biện nhận xét bài báo 
Ngày bài báo được đăng 

 
10/12/2013 

: 15/8/2013 
: 01/10/2013 
 


Hội Nghị Khoa Học Công Nghệ BV. Nhân Dân Gia Định năm 2013  




×