Tải bản đầy đủ (.pdf) (6 trang)

Biến chứng ngoại khoa sau ghép thận, kết quả 42 trường hợp ghép thận từ người cho sống tại Bệnh viện Nhân Dân 115

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (283.94 KB, 6 trang )

Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

BIẾN CHỨNG NGOẠI KHOA SAU GHÉP THẬN,
KẾT QUẢ 42 TRƯỜNG HỢP GHÉP THẬN TỪ NGƯỜI CHO
SỐNG TẠI BỆNH VIỆN NHÂN DÂN 115
Trương Hoàng Minh*, Trần Thanh Phong*, Đỗ Anh Đức*,
Trần Lê Duy Anh*, Nguyễn Phước Hải*, Hồ Thị Ngọc Châu*

TÓM TẮT
Đặt vấn đề và mục tiêu: Biến chứng ngoại khoa sau ghép thận có tỉ lệ thấp, tuy nhiên nó có thể ảnh hưởng
đến chức năng của thận ghép và tính mạng của bệnh nhân. Chúng tôi xin trình bày các biến chứng ngoại khoa
sau ghép thận và kinh nghiệm bước đầu điều trị tại bệnh viện Nhân Dân 115.
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Các bệnh nhân được chỉ định ghép thận từ người cho sống tại
bệnh viện Nhân Dân 115 từ tháng 3 năm 2004 đến tháng 4 năm 2012. Phát hiện các biến chứng bằng khám lâm
sàng, siêu âm và CT-Scan. Phương pháp tiền cứu mô tả từng trường hợp lâm sàng.
Kết quả và bàn luận: Có 42 bệnh nhân được tiến hành ghép thận. Tuổi trung bình ở người cho 31,43 tuổi
(18-54t).Tuổi trung bình người nhận thận là 40,98 tuổi (19-69). Tỷ lệ lấy thận trái/phải để ghép là 34/8. Tỷ lệ đặt
thận ghép ở hố chậu phải/trái là 32/10. Có 33 thận ghép với 1 động mạch thận và 9 thận ghép có nhiều động
mạch. 100% các trường hợp cắm niệu quản vào bàng quang theo phương pháp Lich-Grégoir có cải biên. Tỷ lệ
chảy máu từ chỗ khâu nối mạch máu là 3/42 (7,14%). Tỷ lệ hẹp chỗ khâu nối động mạch là 3/42 (7,14%) được
đặt stent có kết quả tốt. Tỷ lệ xì dò nước tiểu là 1/42 (2,7%). Có 1/42 (2,38%) bệnh nhân tử vong liên quan chảy
máu sau mổ do rối loạn đông máu.
Kết luận: Tỷ lệ các biến chứng ngoại khoa trong nghiên cứu là thấp. Đặt Stent điều trị hẹp chỗ khâu nối
động mạch có kết quả tốt. Kỹ thuật cắm niệu quản thận ghép vào bàng quang người nhận thận theo phương pháp
Lich-Gregoir có cải biên đạt tỷ lệ thành công cao.
Từ khóa: Biến chứng ngoại khoa, ghép thận.

ABSTRACT
SURGICAL COMPLICATIONS AFTER RENAL TRANSPLANTATION, RESULTS 42 CASES OF


RENAL TRANSPLANTATION FROM LIVING DONOR AT PEOPLE 115 HOSPITAL
Truong Hoang Minh, Tran Thanh Phong, Do Anh Duc,
Tran Le Duy Anh, Nguyen Phuoc Hai, Ho Thi Ngoc Chau
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 16 - Supplement of No 3 - 2012: 460 - 465
Background and purpose: Surgical complications after renal transplantation are low, however it may to
influence on graft survival. We evaluated surgical complications after renal transplantation and initial experience
of treatment at people 115 Hospital.
Materials and Methods: Patients were operated renal transplantation at people 115 hospital from march
2004 to april 2012. Determine surgical complications by Examination clinical, Echo, CT-Scan with prospective
study of the cas.
Results: All 42 renal transplantations from living donor performed. The essential donor age: 31,43 (18-54.
The essential receiver age: 40,98 (19-69). Rate nephrectomy for living donor left/right: 34/8. Rate implant fosse
*

Bệnh viện Nhân Dân 115
Tác giả liên lạc: ThsBS Trương Hoàng Minh Email:

460

Chuyên Đề Thận Niệu


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

Nghiên cứu Y học

iliac right/left: 32/10. The single renal artery: 33 patients and 9 patients with multiple arteries. 100% cases were
inserted the ureter of graft into the recipient bladder with Lich-Grégoir technique has a modification. Rate
hematoma: 3/42 (7,14%), Rate of arterial stenosis: 3/42 (7,14%) was treated successful by stent arterial, Rate
urinary leaks: 1 patient (2,38%). Rate mortality:1/42 cases (2,38%) relate to postoperative bleeding due to

troubled coagulation.
Conclusions: Rate of surgical complications after renal transplantation was low. The insert of stent by
intervention endovascular for treatment of stenosis in anastomosis arterial was good result. The ureter was
anastomosed to the recipient bladder with Lich-Gregoir technique has a modification was high success.
Key words: Surgical complication, Renal transplantation.

ĐẶT VẤN ĐỀ
Ghép thận là phương pháp điều trị thay thế
thận sinh lý và đem lại chất lượng cuộc sống
nhất đối với bệnh nhân suy thận mãn giai đoạn
cuối. Việt Nam thực hiện ghép thận từ năm 1992
và đã trở thành phẫu thuật thường quy ở nhiều
bệnh viện. Biến chứng ngoại khoa là một biến
chứng khó tránh khỏi sau ghép thận chiếm
khoảng 15% tùy theo các trung tâm và đôi khi
ảnh hưởng đến tính mạng bệnh nhân sau ghép.
Các biến chứng ngoại khoa bao gồm: biến
chứng mạch máu (1-16%), biến chứng niệu khoa
(2-10%), biến chứng lymphoceles (3,1%), và các
biến chứng khác.(6). Bệnh viện Nhân Dân 115 bắt
đầu thực hiện ghép thận từ người cho sống vào
năm 2004, cho tới nay đã thực hiện 42 trường
hợp. Chúng tôi thực hiện đề tài này nhằm đưa
ra kinh nghiệm ban đầu phát hiện và điều trị các
biến chứng ngoại khoa góp phần nâng cao chất
lượng điều trị cho bệnh nhân ghép thận tại Bệnh
viện Nhân Dân 115.

ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Đối tượng nghiên cứu

Tất cả các bệnh nhân được ghép thận từ
người cho sống tại bệnh viện Nhân Dân 115 từ
tháng 3 năm 2004 đến tháng 4 năm 2012.

Thiết kế nghiên cứu
Tiền cứu mô tả từng trường hợp

Phương pháp nghiên cứu
-Việc thực hiện ghép thận được thực hiện
theo quy trình ghép thận của bệnh viện Nhân
Dân 115 dựa trên quy trình ghép thận của Bộ Y
tế năm 2002(5).

Chuyên Đề Thận Niệu

-Việc lấy thận được thực hiện qua mổ mở
hoặc mổ nội soi.
-Thận được lấy ra khỏi người cho và rửa
bằng dung dịch Euro-Collins ở nhiệt độ 4 độ
Celcius hoặc dung dịch HTK-Custodial.
-Thận ghép được đặt vào hố chậu phải hoặc
trái ở người nhận thận, tĩnh mạch thận ghép
cắm vào tĩnh mạch chậu chung hoặc tĩnh mạch
chậu ngoài tùy từng trường hợp. Động mạch
thận ghép được thông nối với động mạch chậu
trong (tận-tận) hoặc động mạch chậu ngoài hay
chậu chung (tận- bên) tùy từng trường hợp.
-Niệu quản được cắm vào bàng quang theo
phương pháp Lich-Gregoir.
-Phác đồ thuốc ức chế miễn dịch: Ức chế

calcineurin (CsA hoặc Tacrolimus) + MMF
(Cellcept) + Steroid (Prednisolon) + dẫn nhập
(Simulect) tùy theo từng trường hợp.
-Ghi nhận các biến chứng ngoại khoa sau
mổ và kết quả điều trị các biến chứng.
-Các bệnh nhân sau mổ được tái khám 1
lần/tuần, ghi nhận các biến chứng nếu có.
-Lập bệnh án nghiên cứu, ghi đầy đủ các
thông số nghiên cứu.
-Sử lý số liệu với phần mềm SPSS 11.5. Biến
số định tính được trình bày dưới tỷ lệ %, biến số
định lượng trình bày dưới dạng số trung bình
và độ lệch chuẩn.

KẾT QUẢ
Từ tháng 2 năm 2004 đến tháng 4 năm 2012
chúng tôi thực hiện được 42 trường hợp ghép
thận từ người cho sống với các đặc điểm sau:

461


Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012
Bảng 2: Các phương pháp khâu nối mạch máu

Đặc điểm ở người cho thận
Tuổi trung bình: 31,43 tuổi (18t-54t) với 30
nam (71,4%) và 12 nữ (28,6%). Độ tuổi hiến thận

đa phần là tuổi lao động, nam nhiều hơn nữ.
Bảng 1: Quan hệ giữa người cho và người nhận thận
Quan hệ
Số trường hợp
Mẹ ruột cho con
1
Anh chị em ruột cho nhau
7
Con dâu cho mẹ chồng
1
Vợ cho chồng
1
Cháu cho dì/cô/chú
14
Anh em họ cho nhau
18
Tổng cộng
42

Tỷ lệ%
2,38
16,67
2,38
2,38
33,33
42,86
100

Khâu nối mạch máu
Số trường hợp Tỷ lệ %

Khâu nối Động mạch chậu
21
50
động mạch
ngoài
Động mạch chậu
9
21,43
trong
Động mạch chậu
7
16,67
chung
Với tĩnh mạch
40
95,24
chậu ngoài
Khâu nối
tĩnh mạch Với tĩnh mạch
2
4,76
chậu chung

Phương pháp lấy thận ghép: 6 trường hợp
lấy thận qua nội soi ổ bụng và 36 trường hợp lấy
qua mổ mở

Chuẩn bị mạch máu: 1 trường hợp (2,38%)
bóc tách rốn thận làm dài động mạch, 2 trường
hợp (4,76%) cắm động mạch cực trên vào động

mạch thận chính. 1 trường hợp (2,38%) nối động
mạch cực dưới vào động mạch thượng vị dưới.
2 trường hợp (4,76%) tạo hình kiểu nòng sung. 1
trường hợp cột động mạch cực trên do khẩu
kính quá nhỏ.

Số lượng động mạch thận ghép: có 33
trường hợp (78,57%) thận ghép có 1 động mạch,
9 trường hợp (21,43%) có 2 động mạch.

Có 22 trường hợp (52,38%) đặt thông JJ niệu
quản thận ghép, 20 trường hợp (47,62%) là
không đặt thông JJ.

Thời gian thiếu máu nóng: trung bình 3 phút
12 (2 phút - 7 phút 30)

Phục hồi chức năng thận ghép sau mổ: 31
trường hợp (73,81%) có nước tiểu ngay sau khi
mở kẹp mạch máu, 8 trường hợp (19,05%) có
nước tiểu sau 30 phút, có 3 trường hợp (7,14%)
có nước tiểu sau 24 giờ.

Vị trí lấy thận: 8 trường hợp lấy thận phải và
34 trường hợp lấy thận trái.

Đặc điểm ở người nhận thận
Tuổi trung bình: 40,98 tuổi (19t-69t) với 25
nam (59,5%) và 17 nữ (40,5%)
Nguyên nhân suy thận mãn: 24 trường hợp

(57%) là bệnh cầu thận mãn, 9 trường hợp
(21,43%) là bệnh thận cao huyết áp, 4 trường
hợp (9,52%) tiểu đường, 2 trường hợp (4,76%)
thận đa nang, còn lại do Lupus, gout, sỏi niệu.
Phương pháp điều trị trước ghép thận: 33
trường hợp (78,57%) chạy thận nhân tạo, 5
trường hợp (11,90%) thẩm phân phúc mạc, 4
trường hợp (9,53%) chưa điều trị thay thế thận
trước ghép.
Tương hợp HLA: 1/6 (có 2/42: 4,76%), 2/6 (có
5/42: 11,9%), 3/6 (có 16/42: 38,1%), 4/6 (có
13/42:30,96%), 5/6 (có 5/42: 11,9%), 6/6 (có 1/42:
2,38%)
Thông số kỹ thuật trong mổ: 32 trường hợp
(76,19%) ghép vào hố chậu phải, 10 trường hợp
(23,81%) ghép vào hố chậu trái.

462

Biến chứng ngoại khoa
Bảng 3: Biến chứng mạch máu
Biến chứng

Chúng tôi

Chảy chỗ thông
nối động mạch
Hẹp động mạch
thận ghép


3/42
(7,14%)
3/42
(7,14%)

(6)

Trần Ngọc Eduardo. M
(8)
Sinh
2/201 (0,99%) 9/292 (3,1%)
0/ 201 (0%)

9/292 (3,1%)

Cả 3 trường hợp hẹp động mạch thận ghép
tại vị trí thông nối đều xẩy ra trên bệnh nhân
được thực hiện thông nối động mạch thận ghép
với động mạch chậu ngoài (1 bệnh nhân) và
động mạch chậu chung (2 bệnh nhân) kiểu tậnbên.
Bảng 4: Biến chứng niệu khoa và so sánh với các tác
giả
Tên tác Chúng Trần Ngọc Daniel. A.S Akoh JA et
(1)
(2)
giả
tôi (2012) Sinh et al et al (1995) al (2009)
(8)
(2010)


Chuyên Đề Thận Niệu


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012
N (Tổng 42 (living 201 (living
1000
398 (335
số bn
donors)
donors)
(deceased) deceased +
nghiên
43 living
cứu)
donors)
Số bn (tỷ
1 bn
4 bn
71 bn (7,1%)
29 bn
lệ) biến (2,38%) (1,99%)
(7,3%)
chứng

-Biến chứng Lymphocel: chúng tôi không
gặp trường hợp nào
-Biến chứng khác: Có 1 trường hợp nhiễm
trùng vết mổ, đây là những ca đầu tiên ghép
cùng phái đoàn Bỉ sử dụng kháng sinh dự
phòng nhưng thất bại, biểu hiện sưng tấy vết

mổ vào ngày thứ 4, không sốt. Chúng tôi sử
dụng lại kháng sinh thế hệ 3 (Rocephin) sau đó
bệnh ổn, vết mổ lành và cắt chỉ vào ngày thứ 10
sau mổ. Không ghi nhận trường hợp nào có tổn
thương các tạng trong ổ bụng, thoát vị thành
bụng hay tràn dịch tinh mạc cùng bên thận
ghép.

BÀN LUẬN
Biến chứng mạch máu: Ngày nay, với sự
phát triển của kỹ thuật ngoại khoa, biến chứng
mạch máu gặp không nhiều (kể cả nhóm có
nhiều động mạch)(6) tuy nhiên khi xẩy ra nó sẽ là
nguyên nhân quan trọng làm mất chức năng
thận ghép. Nếu phát hiện sớm có thể cứu được
thận ghép thông qua việc can thiệp ngoại khoa
hay can thiệp nội mạch(3)
Cả 3 trường hợp chảy máu chỗ thông nối
động mạch (động mạch thận ghép với động
mạch chậu ngoài người nhận) biểu hiện máu tụ
quanh thận ghép xảy ra ở ngày 1-16 hậu phẫu,
biểu hiện lâm sàng là đau và sưng vùng thận
ghép kèm dẫn lưu ra máu. Siêu âm là phương
tiện chẩn đoán đầu tiên và dễ dàng nhận thấy
hematoma quanh thận ghép(1), khi kết quả
không rõ ràng hoặc nghi ngờ sẽ tiến hành chụp
CT-Scan(1). Hai trường hợp được mổ lại 2 lần để
lấy máu tụ và cầm máu (một bệnh nhân phát
hiện ngày thứ 2 và một bệnh nhân phát hiện
ngày thứ 16) với kết quả bệnh nhân thứ 2

(2,38%) tử vong do rối loạn đông máu, nhiễm
trùng, viêm gan do thuốc mê và thận ghép
không hoạt động. Trường hợp còn lại (phát hiện

Chuyên Đề Thận Niệu

Nghiên cứu Y học

ngày hậu phẫu thứ 1) được mổ lại may cầm máu
chỗ nối động mạch bằng mối may tăng cường,
sau phẫu thuật bệnh diễn tiến tốt. Đây là những
trường hợp được thực hiện ghép thận trong
những năm đầu (2004), chúng tôi chưa có nhiều
kinh nghiệm.
Ba trường hợp hẹp động mạch thận xảy ra ở
tháng 3-4 sau ghép. Không có biểu hiện lâm
sàng ở 2 trường hợp và 1 trường hợp biểu hiện
bằng tăng creatinine huyết thanh khi dùng
thuốc ức chế men chuyển. Siêu âm Doppler là
phương tiện tầm soát hiệu quả. Tất cả các
trường hợp nghi ngờ hẹp động mạch thận có ý
nghĩa huyết động trên siêu âm Doppler sẽ được
chụp mạch máu thận để chẩn đoán xác định và
can thiệp. Cả 3 trường hợp đã được đặt stent với
chức năng thận ghép tốt.
Theo Zilinska Z và cs, những yếu tố nguy cơ
làm tăng tỷ lệ hẹp mạch máu sau ghép là tình
trạng bất tương hợp khẩu kính mạch máu, tồn
tại nhiều động mạch, xơ vữa động mạch hoặc
do kỹ thuật may nối mạch máu(12). Siêu âm

Doppler có thể phát hiện vị trí hẹp của động
mạch hay tĩnh mạch dựa trên phổ tưới máu tại
thận ghép và kháng lực mạch máu trong thận
ghép. CT-Scan chỉ phát hiện vùng giảm đậm độ
cản quang. Chính xác nhất vẫn là chụp động
mạch có tiêm thuốc cản quang sẽ xác định vị trí
chỗ hẹp, độ dài và mức độ hẹp để có chỉ định
can thiệp như đặt Stent hay phẫu thuật(1)
Cả 3 trường hợp hẹp động mạch thận ghép
của chúng tôi xầy ra ở nhóm 1 động mạch
(33BN) còn không có trường hợp nào trên nhóm
2 động mạch (9BN) với p > 0,05. Có thể do
những trường hợp đầu tiên chúng tôi chưa có
kinh nghiệm. Theo Eduardo.M thì không có sự
khác biệt về biến chứng hẹp mạch máu thận
ghép giữa hai nhóm 1 động mạch (9/292 bn
3,1%) và nhóm nhiều động mạch (2/64 bn 3,1%)
với p>0,05(6).
Biến chứng nhiễm trùng vết mổ: Ngày nay
tỷ lệ nhiễm trùng vết mổ chỉ còn 1% sau ghép
nhờ điều kiện phẫu thuật vô trùng tại phòng mổ
tốt, sự phát triển của kháng sinh, người nhận

463


Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012


thận được chăm sóc dinh dưỡng tốt(11)….
Trường hợp nhiễm trùng vết mổ trong nghiên
cứu do áp dụng protocol kháng sinh dự phòng
của nước bạn (Bỉ) có lẽ không phù hợp với điều
kiện khí hậu tại thành phố Hồ Chí Minh, chúng
tôi đã sử dụng lại kháng sinh phổ rộng và bệnh
nhân ổn định sau đó.
Chúng tôi không gặp biến chứng
Lymphocele. Theo y văn, tỷ lệ này chiếm
khoảng 3,1% tùy từng trung tâm(6), thường xuất
hiện vào tuần đầu sau ghép. Nguyên nhân do
cột không hết các mạch bạch huyết che phủ lên
mạch máu chậu. Tại bệnh viện Nhân Dân 115,
chúng tôi cột một cách hệ thống các tổ chức
quanh mạch máu vùng chậu khi phẫu tích mà
không sử dụng dao điện đốt, mặt khác chỉ bộc
lộ mạch máu chậu vừa đủ không bộc lộ quá dài
mạch máu chậu nên tránh được biến chứng này.
Biến chứng niệu khoa:
+ Xì dò, tụ nước tiểu quanh thận: trường
hợp này là do hoại tử niệu quản gần bể thận,
đây là trường hợp có đặt sonde JJ dự phòng
ngay trong mổ. Phát hiện vào ngày thứ 10 sau
mổ với triệu chứng sốt, đau ở vùng hố chậu
phải nơi đặt thận ghép. Siêu âm và chụp CTScan phát hiện tụ dịch quanh thận. Bệnh nhân
được mổ thám sát lần 1 vào ngày thứ 10 hậu
ghép nhưng không phát hiện được chỗ xì dò,
đặt lại dẫn lưu. Mổ lại lần 2 vào ngày thứ 14
hậu ghép phát hiện hoại tử niệu quản gần bể
thận. Chúng tôi tiến hành may lại lỗ thủng,

thám sát thấy niệu quản vẫn tưới máu tốt. Sau
mổ diễn tiến tốt, hết xì dò và rút dẫn lưu ổ mổ
sau đó 3 ngày, sonde JJ rút sau 2 tuần.

Do hoại tử niệu quản và sai sót kỹ thuật cắm
niệu quản vào bàng quang. Hoại tử niệu quản
thông thường do quá trình lấy thận không tuân
thủ việc bảo quản lớp mỡ quanh niệu quản
cũng như phần mỡ ở vùng cực dưới thận và bể
thận, đây là nơi có mạch máu xuất phát từ
nhánh động mạch thận nuôi niệu quản. Mặt
khác tưới máu niệu quản không đảm bảo do lấy
niệu quản quá dài.Tác giả Trần Ngọc Sinh cũng
ghi nhận 4 trường hợp xì dò nước tiểu mà
không chẩn đoán được vị trí xì dò trước khi mổ
lại, chỉ sau khi mổ mới xác định vị trí và nguyên
nhân xì dò là do thủng niệu quản nghĩ do sử
dụng dao đốt điện một cực. Về sau sử dụng dao
bipolar và cột cầm máu niệu quản bằng chỉ tan
đã cải thiện biến chứng này(8).
- Chúng tôi không gặp trường hợp nào xì dò
tại vị trí cắm niệu quản vào bàng quang.Tại
bệnh viện Nhân Dân 115 áp dụng kỹ thuật cắm
niệu quản vào bàng quang với phương pháp
Lich-Grégoir có cải biên về kỹ thuật may niệu
quản vào bàng quang.. Kỹ thuật này cho phép
không cần niệu quản dài nên bảo đảm tưới máu
đầu niệu quản từ mạch máu thận ghép xuống
tốt và tạo điều kiện lành chỗ thông nối được tốt
và giảm biến chứng xì dò. Trường hợp thủng

niệu quản của chúng tôi không rõ nguyên nhân,
cũng có thể do sử dụng dao điện một cực hoặc
do sử dụng sonde JJ mà đầu sonde JJ kích thích
làm thủng niệu quản sát bể thận, tác giả Kumar
A et al cũng ghi nhận(4).

- Việc chẩn đoán xì dò niệu quản tương
đối dễ dàng tuy nhiên xác định vị trí xì dò đôi
khi gặp khó khăn. Theo Daniel Shoskes, siêu
âm chỉ xác định có tụ dịch quanh thận, xạ
hình thận có lợi trong việc đánh giá vị trí xì
dò. Chụp bàng quang có bơm thuốc cản
quang xác định được vị trí xì dò ở chỗ thông
nối niệu quản-bàng quang(10).

+ Vấn đề bế tắc niệu quản và trào ngược
bàng quang –niệu quản chúng tôi chưa gặp
trường hợp nào. Việc đặt sonde JJ phòng ngừa
biến chứng hẹp chỗ thông nối niệu quản vào
bàng quang(8,4). Trong nghiên cứu này, ngay
cả 20 /42 trường hợp không đặt sonde JJ cũng
không ghi nhận có chít hẹp chỗ cắm niệu
quản vào bàng quang hay trào ngược bàng
quang-niệu quản. Tuy nhiên cần phải có
nghiên cứu số lượng lớn và theo dõi lâu dài
để đánh vấn đề này.

- Nguyên nhân xì dò nước tiểu sau ghép
thường:


+ Sử dụng liều Steroid sau ghép: Với việc
phối hợp sử dụng 3 thuốc cho phép giảm nhanh

464

Chuyên Đề Thận Niệu


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012
liều Steroid nhằm giảm các biến chứng của việc
sử dụng Steroid. Cụ thể Methylprednisolon 500
mg ngay trong mổ sau đó giảm liều xuống
250mg, 125 mg, và chuyển sang thuốc uống. Tác
giả Daniel A et al cho rằng: việc sử dụng liều
thấp steroid làm giảm tỷ lệ biến chứng niệu
khoa sau ghép(1).
Về kỹ thuật lấy thận: đa số các trường hợp
lấy thận ghép qua đường mổ mở, có 6/42 trường
hợp là lấy qua đường nội soi ổ bụng, không có
biến chứng ngoại khoa xẩy ra trên cả 6 trường
hợp này. Lấy thận được thực hiện qua đường
mổ mở là tốt hơn mổ qua đường nội soi và tỷ lệ
xì dò ở nhóm lấy thận qua nội soi là cao hơn
nhóm mổ mở(7). Trong nghiên cứu của chúng
tôi, có thể số bệnh nhân còn ít chưa đủ để so
sánh. Theo Trần Ngọc Sinh và Cs thực hiện
43,56% từ mổ mở, còn lại là lấy thận qua nội soi
(6,44% qua ngả phúc mạc, 50% qua ngả sau
phúc mạc) và kết quả không có sự khác biệt về
tỷ lệ biến chứng ngoại khoa giữa mổ mở và mổ

nội soi(8).

KẾT LUẬN
Trong nghiên cứu của chúng tôi, tỷ lệ biến
chứng ngoại khoa thấp bao gồm: Chảy máu
tại vị trí thông nối động mạch 7,14%, hẹp
động mạch thận ghép tại vị trí thông nối
7,14% sau 3 tháng hậu phẫu được đặt Stent cải
thiện hoàn toàn. Biến chứng niệu khoa gồm:
xì dò bể thận ghép 2,38% được mổ khâu lại
chỗ xì dò. Không có trường hợp nào được ghi
nhận có biến chứng hẹp hay trào ngược tại vị
trí cắm niệu quản vào bàng quang. Tỷ lệ tử
vong sau mổ là 2,38% liên quan chảy máu sau
mổ do rối loạn đông máu. Siêu âm Doppler

Chuyên Đề Thận Niệu

Nghiên cứu Y học

và CT-Scan là phương tiện ít xâm hại phát
hiện sớm các biến chứng ngoại khoa.

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.

2.

3.
4.


5.
6.

7.

8.

9.

10.

11.

12.

Akbar SA., Zafar S, Jafri H., Amendola MA.,. Madrazo BL,
Salem R, and Bis KG. (2005). ‘‘Complications of renal
transplantation’’ RadioGraphics. 2005; 25:1335-1356
Akoh JA, Opaluwa AS, Weller D (2009). Urological
complications of renal transplantation: Reducing the risk. Saudi J
Kidney Dis Transpl. 2009;20:1005-9
Gang S and Mohan Rajapurkar (2009). ‘‘Vascular complications
following renal transplantation’’. JNRT.2009; 2 (1): 122-132
Kumar A, Verma BS, Srivastava A, Bhandari M, Gupta A,
Sharma R (2000). Evaluation of the urological complications of
living related renal transplantation at a single center during the
last 10 years: impact of the Double-J* stent. J Urol. 2000;164(3 Pt
1):657-60.
Lê Thế Trung & Cs (2002). Quy trình ghép thận từ người sống

cho thận Bộ y tế.
Mazzucchi E, Souza AA., Nahas WC, Antonopoulos IM,
Piovesan A, Samiarap C (2005). ‘‘Surgical complications after
renal transplantation in grafts with multiple arteries’’
International Braz J Urol. 2005; 31(2):125-130
Philosophe B, Kuo PC, Schweitzer EJ et al (1999). Laparoscopic
versus open donor nephrectomy: comparing ureteral
complications in the recipients and improving the laparoscopic
technique. Transplantation. 1999; 68: 497.
Trần Ngọc Sinh & cs (2010). Kết quả phẫu thuật các trường hợp
ghép thận tại bệnh viện Chợ Rẫy. Kỷ yếu công trình ghép thận
bệnh viện Chợ Rẫy 1992-2010. NXB y học Tp.HCM. 2010; p.81-95.
Shoskes DA, Hanbury D, Cranston D, Moris PJ. (1995).
Urological complication in 1000 consecutive renal transplant
recipients. J Urol; 153, 1; 18-21.
Shoskers D, Cranston D (2008). Urological complicatios after
kidney transplantation. Kidney transplantation- principles and
practice. W.B.Saunders company. Philadelphia. ed. 6th.2008; 435444
Singer J, Gritsch HA, and Rosenthal JT (2005). The transplant
operation and its surgical complications Handbook of kidney
transplantation, 4th Ed, A Wolters Kluwer company
Philadelphia. 2005; p.193-211.
Zilinska Z, Chrastina M, Trebaticky B, Breza J, Jr, Slobodnik L,
Breza J, Buidak P, Madaric J, Vulev I, Klepanec A (2010).
Vascular complications after renal transplantation.Bratisl Lek
Listy.2010; 111(11): 586-589.

465




×