Tải bản đầy đủ (.pdf) (7 trang)

Nhân 12 trường hợp nấm thanh quản tại phòng khám tai mũi họng Bệnh viện Chợ Rẫy (5 năm, 5/2007 đến 5/2012)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (391.33 KB, 7 trang )

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014

Nghiên cứu Y học

NHÂN 12 TRƯỜNG HỢP NẤM THANH QUẢN
TẠI PHÒNG KHÁM TAI MŨI HỌNG BỆNH VIỆN CHỢ RẪY
(5 NĂM, 5/2007 ĐẾN 5/2012)
Nguyễn Trọng Minh*, Đào Duy Khanh**

TÓM TẮT
Đặt vấn đề: Nấm thanh quản là một loại nhiễm tương đối ít gặp, tổn thương nấm thường gặp tại dây thanh
và một số nơi khác của vùng thanh môn, thực tế tổn thương nhiễm nấm thường gặp ở những bệnh nhân có có
yếu tố thuận lợi như sức đề kháng yếu, hít hoặc uống corticoid hoặc dùng nhiều kháng sinh . . .rất ít trường hợp
nhiễm nấm thanh quản được mô tả trong y văn, những chứng cứ y học về việc nhiễm nấm là rất cần thiết vì việc
điều trị sẽ tùy thuộc rất nhiều vào việc chẩn đoán chính xác. Itraconazole được khuyến cáo sử dụng trong thời
gian gần đây và có thể được dùng thay thế cho ketoconazole vì độc tính thấp của thuốc này. Mục tiêu: Chần đoán
được trên nội soi với những hình ảnh nhiễm nấm đặc thù ở thanh quản kết hợp với sinh thiết mẫu mô ngay lúc
soi (những giả mạc trắng trên dây thanh, hạ thanh môn). Chúng tôi có những nhận xét bước đầu về hiệu quả của
thuốc điều trị nấm (ketoconazole, itraconazole) ở những trường hợp này.
Phương pháp nghiên cứu: Phương pháp tiền cứu những trường hợp đã được chẩn đoán nhiễm nấm qua
sinh thiết của khoa giải phẫu bệnh. Thực hiện tại phòng khám Tai Mũi họng – khoa khám bệnh – BVCR. 12
trường hợp trong thời gian 5 năm (2007 - 2012)
Kết quả: 12 trường hợp có triệu chứng khàn tiếng (100%), đau họng (100%) và ho (100%) được soi thanh
quản kết hợp với sinh thiết và chẩn đoán dương tính nhiễm nấm. Tất cả những bệnh nhân này đều có tiền sử đã
dùng thuốc kháng sinh và corticoids. Tuổi từ 22 đến 55. 1 trường hợp nhiễm HIV. 1 trường hợp bị bệnh thận và
gan mãn tính. 10 nam và 2 nữ (83, 33% vs 16, 67%). 11/12 ca khỏi sau 6 tháng. 2 ca tái phát sau 9 tháng. 10 ca
tái phát sau 3 năm (83, 33%). 1 ca không theo dõi được. Tất cả những bệnh nhân này đều được dùng Itraconazole
trong vòng 2 tuần với liều 100mg x 2 lần/ngày. 1 trong số họ phải nhập viện vì thuốc kháng nấm đường uống
không hiệu quả.
Kết luận: Hầu hết trong số 12 bệnh nhân (11/12, 91, 66%) có hiệu quả chỉ với thuốc kháng nấm đường
uống. Aspergillus và Candida là hai trong số họ nấm được thấy nhiều nhất trong số bệnh nhân này, với tỷ lệ 10


nam và 2 nữ (83, 33% vs 16,67%). Trong hai trường hợp nhiễm nấm Candida là 1 nam và 1 nữ.
Từ khóa: nhiễm nấm thanh quản,

ABSTRACT
FUNGAL INFECTION OF THE LARYNX (A REPORT 12 CASES)
Nguyen Trong Minh, Đao Duy Khanh
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 18 - Supplement of No 1 - 2014: 99 - 105
Background: Fungal infection of the larynx is a relatively uncommon condition. The lesions may be confined
to the vocal folds or may involve various other sites in the larynx. There is, invariably, a risk factor that
predisposes to fungal infection via immune deficiency, inhaled or systemic steroids, antibiotic usage, etc.There
have been very few cases of laryngeal thrush reported in the literature. Awareness of this entity is essential because
the management depends on an accurate diagnosis. Ketoconazole has been proven efficacious in certain fungal
* Khoa Tai Mũi Họng, BV Chợ Rẫy
** Khoa Khám Bệnh, BV Chợ Rẫy
Tác giả liên lạc: TS. BS. Nguyễn Trọng Minh ĐT: 0903677164;
Email:

Chuyên Đề Tai Mũi Họng

99


Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014

infections. Itraconazole has recently been released for clinical use. Because of its lower incidence of toxic side
effects, it may replace ketoconazole in the therapy of these diseases. Objectives: The diagnosis was based on
endoscopy of the larynx with the own features of the fungal infection of this area and biopsy confirmed right after
this. We first review the effectiveness of the newer azole drugs (ketoconazole, itraconazole) in these cases.

Method: A prospective study in 12 cases who had been done by laryngoscopy and biopsy confirmed the
diagnosis of Fungal infections of the larynx in five years term (2007 to 2012) at the ENT clinic of the Out patient
Department of Chợ Rẫy hospital - HCM city.
Results: We present 12 cases with hoarseness more than two weeks (100%), sore throat (100%) and Cough
(100%) with direct laryngoscopy and biopsy confirmed the diagnosis of fungal infections of larynx. All of patients,
who were infected, had been used antibiotic and steroid. Fungal laryngitis is usually seen in patient from 22 to 55
years old. One of them was HIV infection. One of them was end stage renal disease and chronic liver disease
together. 10 of them were males and 2 females (83.33% vs 16.67%). 2 cases had recurrent with their own
symptoms after 9 months duration of treatment and 10 of them had recurrent after 3 years (83.33%). All of them
was treated with oral Itraconazole, 100 mg x two times daily for 14 days. One of them had been hospitalised
because of not benefit from oral Itraconazole.
Conclusion: Most often, laryngeal fungus is effectively treated with oral antifungal medications and patient
responded well to oral Itraconazole therapy. Aspergillus spp and Candida albican were caused laryngeal fungus
infection (male vs female: 83.33% vs 16.67%). One male and 1 female was caused by Candida albicans
Keywords: Laryngeal thrush, fungal laryngitis, Antifungal therapy, fungal infection of the larynx,
Aspergillosis, Aspergillus spp, candidiasis, albicans species of Candida, clinical microbiology, laryngeal diseases,
mycoses, fungal infection of the larynx
tử nấm hoặc nuôi cấy hoặc lấy huyết thanh
ĐẶT VẤN ĐỀ
thực hiện các xét nghiệm dịch thể để phát hiện
Nấm thanh quản là một loại bệnh lý hiếm
kháng thể kháng nấm trong máu người bệnh,
gặp trong số các bệnh về thanh quản mà
xét nghiệm này cho kết quả nhanh nhưng
nguyên nhân thường do có sẵn trong niêm
không có tính xác định cao(1,5,6). Theo chúng tôi
mạc miệng (Candida Albicans) hoặc hít phải
thì việc lấy mô bệnh được xem là xét nghiệm
các bào tử nấm trong không khí (Asperillus)
cơ bản vì có độ chính xác tuyệt đối, bệnh

và một số loài nấm khác như Histoplasma,
phẩm lấy từ phần tổ chức bị bệnh có thể tìm
Blastomyces(1,2,3,4). Triệu chứng của bệnh lý này
thấy sợi nấm hay bào tử nấm, đó là sinh thiết
thường rất giống nhau là thường ho kéo dài
trực tiếp từ mẫu giả mạc trắng trên bề mặt dây
(100% kéo dài trên 2 tuần), khàn tiếng (100%),
thanh để tìm tổn thương nhiễm nấm là chắc
đặc tính của ho do nhiễm nấm là ho khan, ho
chắn và đảm bảo nhất cho chẩn đoán. Điều trị
do kích thích do phản ứng của cơ thể với bào
nhiễm nấm bằng thuốc kháng nấm toàn thân
tử nấm xâm nhập. Sau đó ho có đàm, thỉnh
(như nystatin, fluconazol, flucytocin) hoặc tại
thoảng còn lẫn máu. Ngoài ra có thể kèm theo
chỗ, hoặc phối hợp cả hai phương pháp (như
ngứa ra và đau họng. Đặc biệt các triệu chứng
clotrimazol,
nystatin,
amphotericin
B,
trên đều không giảm dù bệnh nhân đã dùng
fluconazol, Itraconazole...). Tuy nhiên điều trị
nhiều loại kháng sinh khác nhau (100% bệnh
kháng sinh chống nấm toàn thân chỉ được đưa
nhân đã dùng ít nhất hai loại kháng sinh khác
ra khi có chẩn đoán chính xác (kết quả sinh
nhau trước tới khám tại BVCR). Chẩn đoán
thiết) vì độc tính cao của loại thuốc này.
được thực hiện bằng cách dùng que bông

dùng để phết ở vùng thanh môn, lấy bệnh
phẩm ở vùng thanh quản đem soi tươi tìm bào

100

Chuyên Đề Tai Mũi Họng


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014

Nghiên cứu Y học

ĐỐI TƯỢNG-PHƯƠNGPHÁPNGHIÊNCỨU

KẾT QUẢ

Đối tượng

Tuổi, giới và dịch tễ

Nghiên cứu tiền cứu trên 12 trường hợp
nhiễm nấm thanh quản tại phòng khám tai mũi
họng BV Chợ Rẫy (từ tháng 5/2007 đến 5 2012).

Tuổi trung bình: 42. Tuổi thấp nhất: 22.
Tuổicao nhất: 55. Tuổi thường gặp: 35 - 50, 7/12
(58, 33%)

Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu mô tả từng ca có

can thiệp
Những trường hợp có các triệu chứng như
ho, khàn tiếng kéo dài trên 2 tuần, sau đó được
chỉ định nội soi thanh quản và có tổn thương giả
mạc trên dây thanh, băng thanh thất, sụn phễu
hoặc kết hợp.
Kết quả sinh thiết những trường hợp trên
khẳng định nhiễm nấm
Dùng thuốc kháng nấm (Itraconazole) trong
2 tuần với liều 200mg/ngày x 2 tuần.

Đánh giá kết quả
Tái khám và nội soi thanh quản mỗi 1,3, 6
tháng và 1 năm
Tiêu chí đánh giá:
-Khỏi: Hết triệu chứng cơ năng (khàn tiếng,
ho, đau và rát cổ) và thực thể (dây thanh trơn
láng, không dạng giả mạc) khi nội soi
-Tái phát: Sinh thiết trên tổn thương nghi
ngờ ở dây thanh.

Giới: Nam: 10 ca (83, 33%). Nữ: 2 ca (16, 66%).
Thường xuyên tiếp xúc với môi trường có
nấm: 4 ca là người chuyên bán hoa cảnh
(thường xuyên tiếp xúc với môi trường có nấm
ở hoa phong lan, bonsai và các loại cây, hoa
khác)
Suy giảm miễn dịch: 1 ca HIV
Tiền sử hoặc đang bị nhiễm Lao: 3 ca (2 nữ
và 1 nam)

Thể trạng: 100% đàn ông có tiền sử hoặc
đang dùng thuốc lá
Tiền sử sử dụng kháng sinh: 100%
Nghề nghiệp: 5 ca làm nghề nông, 4 ca làm
nghề bán hoa và 3 ca ở thành phố

Triệu chứng lâm sàng và cơ năng nổi bật
Ho và khàn tiếng: 100%
Rát, đau họng và nuốt vướng: 10/12 ca (83, 33%)
Ngứa và khô họng: 6/12 ca (50%)
Đau tai: 3/12 ca (25%)
Nội soi thanh quản thấy đám giả mạc trắng
trên dây thanh âm: 100%

Hình 1. Tổn thương giả mạc trắng trên 1/3 giữa và 1/3 sau một bên dây thanh

Chuyên Đề Tai Mũi Họng

101


Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014
Hình 3. Nhiễm Candida albicans (2 ca - 16, 66%)

Hình 2. Một khối nấm lớn 1/3 sau dây thanh (ngày
soi 13.1.2009)

Hình ảnh giải phẫu bệnh

Nhiễm Asperillus spp (10 ca - 83, 33%)

Hình 4. Nhiễm nấm Candida albicans (ảnh chụp
8.10.2008)

102

Chuyên Đề Tai Mũi Họng


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014

Nghiên cứu Y học

Kết quả cho thấy trên hình ảnh nội soi trước và sau dùng kháng nấm Itraconazole

Hình 5. Hình ảnh nội soi trước và sau điều trị (1 tháng, 17.11 đến 17.12.2007)

Hình 6. Hình ảnh nội soi trước và sau điều trị (1 tháng, 21.2 đến 25.2.2008)

Hình 7. Hình ảnh nội soi trước và sau điều trị (3 tháng, 13.1 đến 25.4.2009)

Hình 8. Hình ảnh nội soi trước và sau điều trị (6 tháng, 27.6.11 đến 28.1.2012)

Chuyên Đề Tai Mũi Họng

103


Nghiên cứu Y học


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014

Tái phát

BÀN LUẬN

11/ 12 ca cho thấy sạch nấm sau khi dùng
kháng nấm với liều Itraconazole 100mg x 2 x
14 ngày

Tuổi và giới & dịch tễ

11/12 ca khỏi sau 6 tháng
2 ca tái phát sau 9 tháng
4 ca tái phát sau 1 năm
5 ca tái phát sau 2 năm
10 ca tái phát sau 3 năm (83, 33%)
1 ca không theo dõi được
1/12 không cải thiện ngay sau liều đầu tiên,
trên bệnh nhân này có kết hợp tổn thương nấm
ở thanh quản và ở thực quản mà phải nhập viện
dùng kháng nấm theo đường tiêm chích.

Hình ảnh trường hợp phải nhập viện do
nhiễm nấm nhiều nơi cùng lúc

Chúng tôi nhận thấy những trường hợp
nhiễm nấm tập trung ở độ tuổi lao động (35 đến
50), tỷ lệ nam nhiều gấp 5 lần so với nữ, chúng

tôi không biết lý do chính xác nhưng có thể nam
thường là lao động chính trong gia đình, tiếp xúc
nhiều hơn với môi trường có thể có nấm (4 nam
là chủ của cửa hàng cây kiểng, bonsai, hoa
phong lan), kết hợp với thường xuyên dùng
rượu, thuốc lá, thuốc kháng sinh, đặc biệt 1
trường hợp nhiễm HIV và 1 ca khác nhiễm lao
phổi kèm theo, liệu có thể những điều đó mà thể
trạng, sức đề kháng của nam giới kém hơn và dễ
nhiễm nhiều hơn nữ.

Triệu chứng lâm sàng và cơ năng nổi bật
Khàn tiếng và ho là triệu chứng cơ năng nổi
bật nhất, chúng tôi nhận thấy tỷ lệ là 100%, đặc
điểm của ho trong nhiễm nấm là ho khan trong 3
đến 5 ngày đầu, ho nhiều, thậm chí dữ dội,
thường xuất hiện sau cảm cúm (5 ca, 41,66%),
sau những ngày đầu thì ho có đàm trắng đục,
thậm chí lẫn máu, từ những ngày này khàn tiếng
ngày một nặng, thậm chí nói không ra tiếng,
thường là khào khào, giọng yếu hẳn, ngoài ra
những triệu chứng khác kèm theo như đau
họng, rát họng, tức ngực và đau vùng ngực cũng
xuất hiện.

Giải phẫu bệnh của nhiễm nấm

Nhiễm nấm thanh quản và thực quản (ảnh chụp
16.1.2008)


104

Trong chẩn đoán về nhiễm nấm thì có nhiều
phương pháp và cách làm như phết họng, soi
tươi tìm bào tử nấm hoặc nuôi cấy để định danh
và đặc biệt là sinh thiết. Chúng tôi chọn phương
pháp này vì khi nội soi rất khó lấy dịch hoặc
phết trên niêm mạc để nuôi cấy và kết quả trong
chẩn đoán thì thường không có nấm, (-), nhưng
sinh thiết là phương pháp chắc chắn vì khi lấy
thì lấy cả giả mạc thậm chỉ lấy cả phần mô
nhiễm, kết quả thì chắc chắn. Nhiễm nấm
Asperillus là chủ yếu trong báo cáo này, điều
này cho thấy môi trường bị ô nhiễm nhiều, loại
nấm này có trong môi trường, trong không khí,
điều này ngược hẳn trong y văn là Candida

Chuyên Đề Tai Mũi Họng


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014
Albicans mới là loại nhiễm nhiều nhất vì nấm
Candida thường trú trong niêm mạc họng miệng
và thành bệnh trên những những người có thể
trạng, sức đề kháng kém hoặc cùng lúc nhiễm
bệnh khác như lao, HIV, hút thuốc uống rượu
thường xuyên và lạm dụng thuốc kháng sinh,
nhiễm Candida là loại nhiễm nhiều nhất được
ghi trong y văn nhưng trong báo này của chúng
tôi thì Asperillus mới là loại nhiễm đa số (10 ca 83,33%).


Hình ảnh nội soi thanh quản
Hình ảnh được thấy trên nội soi thanh quản
là mảng màu trắng giống như giả mạc, bám trên
dây thanh âm chủ yếu ở một bên (11/12 ca, 91,
66%) và hiếm khi ở hai bên (1/12 ca), đám giả
mạc này chắc, dầy, nếu cố gắng bóc chúng khỏi
dây thanh thì sẽ chảy máu, đôi khi đám giả mạc
lại bở giống như một đám mô bị hoại tử.

Hình ảnh trường hợp phải nhập viện do
nhiễm nấm nhiều nơi cùng lúc
Trong báo cáo của chúng tôi ghi nhận một
trường hợp nhiễm nấm candida Albicans thanh
quản mà phải nhập viện vì không đáp ứng với
thuốc đường uống, phải nhập viện, nhưng cũng
ghi nhận rằng ca này bị nhiễm nấm thực quản
cùng lúc, trường hợp này thể trạng kém có tiên
sử nhiễm lao đã điều trị. Theo chúng tôi trường
hợp này phù hợp với y văn, tức là khi thể trạng
kém vì một số bệnh khác thì nấm candida sẽ
phát triển thành bệnh và có thể ở nhiều nơi khác
nhau trên cơ thể.

Thuốc kháng nấm
Thuốc kháng nấm có nhiều loại và nhiều
dạng khác nhau như dạng mỡ bôi (Griseofulvin,
dùng cho da, móng và tóc), dung dịch (Axetyl
salixylic axit 10%, dùng cho ngoài da), dạng
uống (Ketoconazole và Terbinafine, chủ yếu cho

da và móng, Fluconazole (chủ yếu dùng cho tiết
niệu và phụ khoa và Itraconazole, loại phổ rộng
được dùng chủ nhiếu cho nấm ở nông và sâu).
Chúng tôi chọn Itraconazloe vì phổ rộng, có sẵn

Chuyên Đề Tai Mũi Họng

Nghiên cứu Y học

và dụng nạp tốt qua đường uống, kết quả cho
thấy cho tính khả thi khi sạch bệnh tích ngay ở
lần cho toa đầu tiên với liều Itraconazole 100mg
x 2 lần x 14 ngày (11/12 ca).

KẾT LUẬN
Bệnh nấm thanh quản là bệnh tương đối ít
gặp, triệu chứng nổi bật chiếm tuyệt đối (100%)
là ho và khàn tiếng, thường gặp ở những người
có tiếp xúc trực tiếp với môi trường có thể có
nấm (nông dân, bán hoa, cây cảnh), thể trạng
kém (bệnh, HIV, bệnh thận hoặc gan mãn tính),
đa số trong số họ đã dùng nhiều thuốc kháng
sinh uống và đặc biệt là thuốc có corticoids dưới
dạng xịt họng thường xuyên.
Có nhiều loại thuốc kháng nấm tuy nhiên
đều có độc tính cao cho gan, vì vậy không dùng
cho những bệnh nhân bị bệnh gan và phải kiểm
tra chức năng gan mỗi từ 1 đến 3 tháng. Một
trong những thuốc dùng đường uống có hiệu
quả cho nhiễm nấm thanh quản là Itraconazole.


TÀI LIÊU THAM KHẢO
1.

2.

3.
4.

5.

6.

Mehanna H M., Kuo T, Chaplin J, Taylor G(2004): “Fungal
laryngitis in immunocompetent patients” - The Journal of
Laryngology & Otology / Volume 118 / Issue 05 / May, pp 379381
Merati AL (2010), “Acute and chronic laryngitis”. Cummings
“Otolaryngology: Head & Neck Surgery”. 5th ed. Philadelphia,
PA: Elsevier Mosby; chap 63.
Nguyên Diễn “Nguyên nhân bị nấm thanh quản” />Nguyễn Hữu Nghĩa (2012), “Bệnh nấm họng thanh quản và sử
dụng thuốc điều trị” - Sức khỏe và đời sống,
/>Phạm Bích Đào (2008) “Nấm thanh quản - Bệnh của môi trường
ô nhiễm”. />nam-thanh-quan-benh-cua-moi-truong-o-nhiem.htm
Ray S (2008), A Masood, J Pickles and I Moumoulidis: “ Severe
laryngitis following chronic anabolic steroid abuse” - The
Journal of Laryngology & Otology / Volume 122 / Issue 03, pp
230 - 232

Ngày nhận bài báo:


22/11/2013

Ngày phản biện nhận xét bài báo:

16/12/2013

Ngày bài báo được đăng:

10/01/2014

105



×