Tải bản đầy đủ (.pdf) (3 trang)

Nhận xét đường mổ nhỏ trong thay khớp háng bán phần điều trị gãy cổ xương đùi

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (246.93 KB, 3 trang )

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Phụ bản của Số 2 * 2015

Nghiên cứu Y học

NHẬN XÉT ĐƯỜNG MỔ NHỎ TRONG THAY KHỚP HÁNG BÁN PHẦN
ĐIỀU TRỊ GÃY CỔ XƯƠNG ĐÙI
Lương Thiện Tích*, Cao Thỉ**

TÓM TẮT
Đặt vấn đề: Gãy cổ xương đùi là một chấn thương thường gặp ở người lớn tuổi và cách điều trị
thường là thay khớp háng bán phần. Hiện nay các phẫu thuật viên có khuynh hướng sử dụng đường mổ
nhỏ (chiều dài đường mổ ngắn hơn 10cm) thay cho đường mổ lớn. Đường mổ nhỏ cũng đã sử dụng ở Việt
Nam nhưng chưa có báo cáo nào về hiệu quả của nó.
Mục tiêu nghiên cứu: Xác định lại các điểm thuận lợi và khó khăn của đường mổ nhỏ trong thay khớp
háng bán phần điều trị gãy cổ xương đùi.
Đối tượng và phương pháp: Tiền cứu mô tả cắt ngang. khảo sát trên 55 trường hợp gãy cổ xương đùi
được thay khớp háng bán phần bằng đường mổ nhỏ tại Bệnh Viện Chợ Rẫy từ tháng 9/2012- 3/2014.
Kết quả và bàn luận: Chiều dài đường mổ trung bình là 7,5cm, (6cm - 9,5cm). Với đường mổ từ 89,5cm thì quá trình mổ tương đối dễ dàng. Với đường mổ 6-7cm thì vấn đề vào khớp háng cũng không khó
nhưng thao tác có gặp khó khăn do đó có 3 trường hợp phải mở rộng thêm đường mổ. Thời gian mổ (tính từ
lúc rạch da đến lúc may da mũi cuối cùng) trung bình là 68 phút, (50 - 110 phút), nhanh hơn so với đường
mổ thông thường. có thể là nhờ ít tốn thời gian khi mổ vào và thời gian để khâu phục hồi đóng vết mổ. Việc
này có ý nghĩa làm giảm nguy cơ nhiễm trùng. Lượng máu mất bình trong 1 ca mổ là 230ml (150ml890ml). Do đường mổ nhỏ nên rạch da, bóc tách cơ ít nên lượng máu mất ít. Số trường hợp cần truyền
máu là 8/55 trường hợp (14,55%), ít hơn các tác giả dùng đường mổ lớn. Có 4 trường hợp dập mô da. mỡ
và cơ (7,27%) do gặp khó khăn khi thao tác. Sau khi cắt lọc thì mô quanh vết mổ bình thường như các ca mổ
khác. Không có trường hợp nào gãy xương trong mổ. Có 5 trường hợp ngắn chi nhưng chấp nhận được. Kết
quả chung cuộc tốt và rất tốt chiếm tỉ lệ 80%, tương tự các tác giả khác. Có một trường hợp tê vùng mông
đùi, 2 trường hợp viêm tấy nông ngoài da đều hồi phục, không có tổn thương mạch máu gây máu tụ.
Kết luận: Thay khớp háng bán phần với đường mổ nhỏ 8-10cm đủ để thao tác trong mổ, có ưu điểm ít
chảy máu, thời gian mổ ngắn, không bị nhiều biến chứng hơn nhưng kết quả cũng tương tự đường mổ lớn
thông thường.
Từ khóa : đường mổ nhỏ, thay khớp háng bán phần, gãy cổ xương đùi.



ABSTRACT
THE COMMENT ON MINIMAL-INCISION TECHNIQUE IN HIP HEMIARTHROPLASTY IN
TREATMENT OF FEMORAL HEAD FRACTURE
Luong Thien Tich, Cao Thỉ * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 19 - Supplement of No 2 – 2015: 361 - 367
Back ground: Femoral head fracture is in a high rate in elderly patients and now usually treated by
femoral head replacement. In present time, surgeons usually use minimal-incision technique (incision less
than 10cm) instead of standard incision technique. In Viet Nam, minimal-incision technique has been used,
but there isn’t report about its effect.
* Bệnh viện Đa khoa tỉnh Bình Dương
** Bộ môn Chấn thương chỉnh hình & PHCN, Đại học Y Dược TP. HCM
ĐT : 0983.306003
Email :
Tác giả liên lạc: TS Cao Thỉ

Chuyên Đề Răng Hàm Mặt

361


Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Phụ bản của Số 2 * 2015

Objective: Define the advantages, difficulties and effects of minimal-incision technique in
hemiarthroplasty of the hip in treatment of femoral head fracture.
Method: Ante-grade descriptive study. Fifty five patients of femoral head fracture treated by femoral
head replacement with minimal-incision technique were involved in the study.
Results and discusion: The average length of incision was 7,5cm, (6cm - 9,5cm). For the incisions
from 8-9,5cm, procedure was relatively easy. For the incisions from 6-7cm, go into the hip was not difficult

but there were some difficulties in manipulation. The mean time of operation was 68 minutes (50 – 110),
lesser than standard incision. Average blood loss was 230ml (150ml-890ml). The rate of the needed blood
transfusion was 8/55 cases (14,55%). Four cases (7,27%) had contusion of skin, fat tissue, muscle because of
difficult manipulation during the procedure. There was not fracture. Four cases had leg length
discrepancy but acceptable. The over-all good and very good results were about 80%, similar to the other
studies. One cas had numbness at buttock and behind the thigh. Two cases had surface inflammation. All
healed after care. Deep infection and hematoma were not seen.
Conclusion: The minimal-incision technique (incision 8-10cm) in hip hemiarthroplasty is satisfied. It’s
enough to manipulation. It reduces blood loss, shortens the time of operation... but its results are equivalent
to the standard incision.
Key words: minimal-incision technique, hip hemiarthroplasty, femoral head fracture.

ĐẶT VẤNĐỀ

ĐỐI TƯỢNG-PHƯƠNGPHÁP NGHIÊNCỨU

Gãy cổ xương đùi là một chấn thương
thường gặp ở người lớn tuổi. Ngoài biến
chứng về xương khớp còn có những biến
chứng khác ở người già như về hô hấp, tim
mạch, tiểu đường ... kèm theo. Ngày nay thay
khớp háng bán phần là cách điều trị thường
dùng cho gãy cổ xương đùi ở người lớn tuổi.

Tiêu chuẩn chọn bệnh

Những đường mổ thay khớp háng bán
phần kinh điển cũ thì rộng rãi (trung bình
khoảng 25cm(1)), dễ thao tác nhưng gây tổn
thương mô mềm, mất máu, mất thời gian và

lưu lại vết sẹo lớn. Vì vậy hiện nay các phẫu
thuật viên có khuynh hướng sử dụng đường
mổ nhỏ (chiều dài đường mổ ngắn hơn 10cm).
Ở Việt Nam đã có nhiều nơi sử dụng đường
mổ nhỏ nhưng chưa có báo cáo nào tổng kết
về những khó khăn, thuận lợi và kết quả cũng
như biến chứng của nó. Chúng tôi thực hiện
nghiên cứu này để xác định lại các điểm thuận
lợi và khó khăn của đường mổ nhỏ trong thay
khớp háng bán phần và chỉ giới hạn trong việc
đánh giá cuộc mổ và các kết quả gần liên quan
đến đường mổ nhỏ.

Các trường hợp gãy cổ xương đùi được
thay khớp háng bán phần bằng đường mổ nhỏ
được phẫu thuật tại Bệnh Viện Chợ Rẫy từ
tháng 9/2012- 3/2014

Phương pháp nghiên cứu
Tiền cứu mô tả cắt ngang

Cỡ mẫu
Được tính theo công thức:

Với P (trị số mong muốn) = 0,89 , d (độ
chính xác mong muốn của tỉ lệ) = 0,05 thì
n (cỡ mẫu tối thiểu cho lô nghiên cứu) = 35
bệnh nhân.

Phương pháp phẫu thuật

Chuẩn bị bệnh nhân trước mổ
- Trên phim X quang: đo góc cổ thân, chiều
dài cổ, đường kính chỏm bên lành, xác định vị
trí cắt cổ, đo đường kính ống tủy để ước lượng
cỡ chuôi.
- Kháng sinh trước hoặc trong mổ.

362

Chuyên Đề Răng Hàm Mặt


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Phụ bản của Số 2 * 2015
- Vô cảm: Tất cả được tiền mê và gây tê
tủy sống.

+ Kỹ thuật mổ
Bệnh nhân được nằm nghiêng 90º. Xác
định mấu chuyển lớn, đường rạch da bắt đầu
khoảng 2 khoát ngón tay sau mấu chuyển lớn
đi xéo ra sau, lên trên tạo với trục xương đùi
một góc 45º (theo hướng cổ xương đùi).
Đường rạch da dài khoảng 6-9cm, cắt dọc cân
đùi, sau đó cũng theo đường rạch này mở
rộng theo hướng song song với các thớ cơ
mông lớn. Xác định cơ tháp, cắt các cơ xoay
ngoài đùi, bộc lộ và cắt bao khớp. Cắt lại cổ
xương đùi cách mấu chuyển bé 1-1,5cm. Lấy
bỏ chỏm, bộc lộ ổ cối, Cắt gọn dây chằng tròn.
Sau đó khoan lòng tủy xương đùi và đóng ráp

lòng tủy. Thử độ vững của khớp, độ căng của
cơ trước khi đóng chuôi thật. Gắn chỏm con
với chiều dài cổ thích hợp. Nắn khớp. Cắt lọc
mô dập nát nếu có, kiểm tra cầm máu, rửa lại
phẫu trường, khâu phục hồi lại bao khớp, đặt
dẫn lưu ngoài khớp, đóng vết mổ từng lớp,
băng kín vết mổ. Băng thun từ cổ chân đến
bẹn. Đặt nẹp vải cố định thẳng gối trong 24
giờ đầu sau mổ.
+ Săn sóc và theo dõi sau mổ
Dùng kháng sinh điều trị trong 5-7 ngày.
Rút dẫn lưu sau 24-48 giờ. Chụp X quang kiểm
tra. Cắt chỉ vết mổ sau 12-15 ngày. Hướng dẫn
bệnh nhân tập vận động thụ động ngay ngày
sau mổ, chủ động tăng dần từ ngày thứ 3 hay
thứ 4 sau phẫu thuật. Vật lý trị liệu và tập
phục hồi chức năng sau mổ.

- Đánh giá kết quả
+ Đánh giá trong mổ
Ghi nhận chiều dài vết mổ, khó khăn trong
lúc thao tác: cưa cổ, làm sạch ổ cối, đóng ráp,
đóng chuôi vào lòng tủy và nắn khớp. Xem xét
mức độ giập nát mô mỡ, cơ và da. Đánh giá
lượng máu mất, ghi nhận lượng máu truyền.
+ Đánh giá kết quả gần
3 tháng đầu sau mổ

Chuyên Đề Răng Hàm Mặt


Nghiên cứu Y học

. Diễn tiến tại vết mổ: Có sưng, đỏ, đau
nhức vùng vết mổ hay không
. Lượng máu qua ống dẫn lưu.
. Đo so le chi.
. Chụp X quang khớp háng khớp háng sau
mổ đánh giá: vị trí của khớp nhân tạo, vị trí
chuôi: trung tính, vẹo trong, vẹo ngoài,
nghiêng trước sau. Gãy xương vùng mấu
chuyển, xương đùi, ổ cối. Đánh giá chất lượng
kỹ thuật xi măng theo Barrack
- Kiểm soát quy trình tập vận động thụ
động, chủ động của bệnh nhân

KẾT QUẢ VÀ BÀNLUẬN
Chúng tôi đã phẫu thuật và theo dõi được
55 bệnh nhân tuổi trung bình là 76 (52 – 97),
gồm 38 nữ và 17 nam, 37 trường hợp bên trái,
18 trường hợp bên phải. Có 8 ca thay khớp có
xi măng, 47 ca không xi măng Thời gian theo
dõi trung bình là 12,5 tháng (6 - 22 tháng).
Số bệnh nhân được phẫu thuật sau tai nạn
trong vòng 1 tuần là 14, 2-4 tuần là 32 và trên 4
tuần là 9 bệnh nhân. Những ca mổ sớm < 1
tuần, kết quả tốt và rất tốt là 12 ca (92,86%),
mổ trong 2-4 tuần tốt và rất tốt là 27 (84,38%),
mổ sau khi gãy > 4 tuần tốt và rất tốt là 4 ca
(44,44%). Theo Tiffany(9) những bệnh nhân
được mổ sớm (trước 4 ngày) có kết quả tốt hơn

so với những bệnh nhân mổ muộn. Các tác giả
khác như Lauren(2) cũng có nhận xét tương tự.
Nguyễn Tường Quang(5) cũng có kết quả mổ
sớm trong vòng 1 tuần tốt và rất tốt 94,74%,
mổ trong 2-4 tuần tốt và rất tốt là 66,67%, mổ
sau 4 tuần tốt và rất tốt chỉ còn 42,86%. Theo
chúng tôi thường các bệnh nhân mổ muộn là
do có các bệnh lý kèm theo cần phải điều trị
ổn định trước khi mổ nên kết quả bị kém đi là
điều dễ hiểu. Các trường hợp mổ của chúng
tôi với đường mổ nhỏ đạt kết quả khả quan
trong khi đó Ogonda trong so sánh hai loại
đường mổ nhỏ và thông thường trong thay
khớp háng toàn phần cho thấy kết quả không
khác nhau(7).

363



×