Tải bản đầy đủ (.pdf) (6 trang)

Điều trị phẫu thuật u sọ hầu

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (813.04 KB, 6 trang )

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014 

Nghiên cứu Y học

 

ĐIỀU TRỊ PHẪU THUẬT U SỌ HẦU 
Phan Trung Đông*, Nguyễn Phong* 

TÓM TẮT  
Mục tiêu: Đánh giá kết quả điều trị phẫu thuật u sọ hầu tại khoa ngoại thần kinh Bệnh viện Chợ Rẫy.  
Phương pháp nghiên cứu: Hồi cứu 103 trường hợp u sọ hầu đã được phẫu thuật từ 1/2012 đến 6/2014 tại 
khoa ngoại thần kinh bệnh viện Chợ Rẫy. Khảo sát triệu chứng lâm sàng, hình ảnh học trước và sau phẫu thuật, 
đường vào phẫu thuật, kết quả phẫu thuật và các biến chứng. Đánh giá kết quả phẫu thuật dựa trên thang điểm 
GOS cùng với sự cải thiện của các triệu chứng lâm sàng và mức độ lấy u. 
Kết quả: Gồm 44 nam và 59 nữ, tuổi từ 6 tháng đến 68 tuổi. U có kích thước < 3cm chiếm 66%, từ 3‐6 cm 
chiếm 32%, 2 trường hợp u lớn hơn 6 cm. Đa số u nằm vùng trên yên (68%), Vùng não thất III 25,2%, lan lên 
vùng não thất bên 4.9%. Phẫu thuật lấy toàn bộ u 28,2%, lấy gần toàn bộ u 69.8%, lấy bán phần u 1% và sinh 
thiết u 1%. Đường vào phẫu thuật gồm đường dưới trán 2 bên chiếm 58,3%, với mức độ lấy toàn bộ u là 43,3%. 
Đường vào thóp trước bên (pterional) chiếm 22,3% với mức độ lấy toàn bộ u là 8,7% và các đường vào khác như 
dưới trán một bên 1.9%, qua rãnh liên bán cầu 6,8%, qua xoang bướm 8,7%, dưới thái dương 1% và trán thái 
dương ổ mắt cung gò má 1%. Biến chứng phẫu thuật chung là 14,6%: máu tụ hố mổ (10,7%) và phù não nặng 
(9,7%), dãn não thất (5,8%), viêm màng não (3.9%), dò dịch não tuỷ (3,9%). Đái nhạt sau mổ chiếm 63,1%. Kết 
quả tốt chiếm 87,4%, khá 9,7%, tử vong 2,9% 
Kết luận: Phẫu thuật u sọ hầu trong nghiên cứu của chúng tôi có tỷ lệ lấy phần lớn u và toàn bộ u chiếm đa 
số (98,1%) với mức độ bảo tồn cuống tuyến yên là 73,8%. Đái nhạt sau mổ 63,1%. Tỷ lệ biến chứng sau mổ là 
14,6%. Tỷ lệ tử vong là 2,9%.  
Từ khoá: U sọ hầu, đái nhạt.  

ABSTRACT 
SURGICAL TREATMENT OF CRANIOPHARYNGIOMAS 


Phan Trung Dong, Nguyen Phong  
 * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 18 ‐ Supplement of No 6‐ 2014: 235 – 240 
Objective:  We  describe  our  surgical  techniques  for  resection  of  craniopharyngiomas  tumors  in 
Neurosurgery department of Chợ Rẫy hospital. 
Methods:  A  retrospective  analysis  was  performed  of  103  surgically  treated  patients  with 
craniopharyngiomas  tumors  (anapathology)  between  1/2012  and  6/2014;  patients’  files,  imaging  studies, 
operative notes, complications and outcome were used for the analysis. 
Results:  The  female‐to‐male  ratio  was  1.3:1.  Great  part  of  tumors  were  under  3cm  in  diameter  (66%), 
beween 3 to 6cm were 32%. A giant tumor cas was over 10cm. The craniopharyngiomas classification modifined 
of Sammii showed 68% series grade II (in the cistern ± intrasella). Grade III (inside of the third ventricle) was 
25.2%  and  grade  IV  (septum  pellucidum  or  lateral  ventricle)  was  4.9%.  Inside  sella  (grade  I)  was  1.9%. 
Hydrocephalus were found 36.9%. The subfrontals approach was most frequently used in our series (58.3%). The 
pterional approach (22.3%), Transsphenoidal approach (8.7%), bifrontal interhemispheric approach (6.8%) and 
some  others  way  were  also  used  to  remove  subtotal  to  total  resection  of  tumor  (98.1%)  with  pituirary  stalk 
preserve  were  73.8%.  The  surgical  complications  rate  was  14.6%  (mortality  rate  was  2.9%).  The  common 
* Khoa Ngoại Thần Kinh Bệnh viện Chợ Rẫy 
Tác giả liên lạc: TS. Nguyễn Phong;  ĐT: 0903 744 085;  

Bệnh Lý Sọ Não  

 

Email:  

235 


Nghiên cứu Y học 

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014


 
complications of these were hematoma (10.7%), brain edema (9.7%), hydrocephalus (5.8%), meningitis (3.9%), 
CSF rhinorrhea (3.9%). The post‐op diabetes insipidus were 63.1% (mean urine was 4.7± 2.04 litre/24 hours). 
Conclusion: In our study, the most of cases were subtotal to total tumor resection (98.1%) with 73.8% of 
cases  which  the  pituitary  stalk  is  available  (the  post‐op  diabete  insipidus  were  63.1%).  The  general  post‐op 
complications rate were 14.6%, the morbility rate were 2.9% 
Keywords: craniopharyngiomas, diabetes insipidus 

ĐẶT VẤN ĐỀ 
Cùng  với  sự  phát  triển  hiện  nay  của  các 
phương tiện hỗ trợ như chẩn đoán hình ảnh, giải 
phẫu vi phẫu(3,6,4,9,11), hocmon thay thế(6,4,11) và xạ 
phẫu(6,10) đã giúp việc điều trị u sọ hầu có nhiều 
bước tiến đáng kể trong thời gian qua. Tại Bệnh 
viện Chợ Rẫy hiện nay với sự trang bị tương đối 
hiện  đại,  toàn  diện  trên  các  lĩnh  vực  Hình  ảnh 
học‐  xạ  phẫu,  chuyên  khoa  nội  tiết  …  thì  việc 
điều trị phẫu thuật u sọ hầu ngoài mục tiêu hàng 
đầu là lấy toàn bộ u thì vấn đề còn được đặt ra là 
kết quả sau phẫu thuật và chất lượng cuộc sống 
của  bệnh  nhân.  Nghiên  cứu  này  của  chúng  tôi 
nhằm đánh giá phương pháp phẫu thuật và kết 
quả ngắn hạn trong điều trị u này tại bệnh viện 
Chợ Rẫy trong thời gian qua.  

ĐỐI TƯỢNG ‐ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
Nghiên  cứu  hồi  cứu  trên  103  ca  u  sọ  hầu 
(theo giải phẫu bệnh là u sọ hầu và nang Raths) 
đã điều trị phẫu thuật tại khoa Ngoại Thần Kinh 

bệnh  viện  Chợ  Rẫy  trong  khoảng  thời  gian  từ 
tháng  1/2012  đến  hết  tháng  6/2014.  Tất  cả  các 
bệnh  nhân  trên  đều  được  ghi  nhận  về  độ  tuổi, 
giới  tính,  đặc  điểm  lâm  sàng,  hình  ảnh  học 
(MRI/CTscan).  Đặc  điểm  quá  trình  phẫu  thuật, 
mức  độ  lấy  u  theo  quan  sát  trong  lúc  mổ,  tình 
trạng  cuống  tuyến  yên  cũng  như  các  tai  biến 
phẫu thuật. Đánh giá tình trạng bệnh nhân xuất 
viện dựa trên thang điểm GOS và tình trạng đái 
nhạt sau mổ. Kết quả bệnh lý được trả lời bằng 
kết quả giải phẫu bệnh của bệnh viện Chợ Rẫy. 

KẾT QUẢ  
Độ tuổi và giới tính 
Gồm 44 nam và 59 nữ, tỷ lệ Nam:Nữ là 1:1,3  

236

Từ 6 tháng đến 68 tuổi. Trung bình 28.1±17.9 
tuổi, tập trung từ 20‐40 tuổi chiếm 33%.  

Triệu chứng lâm sàng u sọ hầu  
Triệu chứng khởi phát và các biểu hiện lâm 
sàng đặc trưng của u sọ hầu được thống kê theo 
bảng dưới đây: 
Bảng 1: Triệu chứng khởi phát và biểu hiện lâm sàng 
của u sọ hầu 
Triệu chứng khởi phát
Biểu hiện lâm sang
Đau đầu

80 77,7% Hội chứng tăng áp 19 18,4%
lực nội sọ
Mờ mắt
72 69,6% Đái nhiều (3 ± 1,15 7 6,8%
lít/ngày)
1 mắt
31 30,1%
Sụp mi
1 1,0%
2 mắt
41 39,8%
Liệt vận nhãn
1 1,0%
Nôn
16 15,5%
Giảm thị lực
79 76,7%
Mất kinh
3 2,9%
1 bên
30 29,1%
Lơ mơ
2 1,9%
2 bên
49 47,6%
Chóng mặt
2 1,9%
4 3,9%
Mù hoàn toàn 2
mắt

yếu chi
2 1,9%
53 51,5%
Bán manh thái
dương
Động kinh
2 1,9%
1 mắt
22 21,4%
Loang choạng 2 1,9%
2 mắt
31 30,1%
Rối loạn tâm 1 1,0% Suy chức năng yên 57 55,3%
thần
Ù tai
1 1,0% Suy yên toàn bộ
7 6,8%
Suy yên 1 phần** 50 48,5%
Kèm tăng Prolactin 6 5,8%

** Hầu hết các trường hợp là giảm FSH, LH hoặc/và kèm 
giảm cortisol máu, suy giáp và 1 số ít có giảm ACTH. 1 
trường hợp giảm GH có triệu chứng không phát triển cơ 
thể và cơ quan sinh dục ngoài, vô kinh nguyên phát.  

Hình ảnh học u sọ hầu  
Khảo  sát  hình  thái  u  dựa  trên  CT  và  MRI: 
Đặc  điểm,  vị  trí,  kích  thước,  liên  quan  với  cấu 
trúc thần kinh mạch máu xung quanh.  
Khảo sát vị trí của khối u, chúng tôi đánh giá 

mức  độ  phát  triển  của  u  dựa  trên  phân  độ  của 
Sammii(7,9). 

Chuyên Đề Phẫu Thuật Thần Kinh 


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014 

Nghiên cứu Y học

 
Bảng 3: Kích thước u chia theo đường kính lớn nhất 

Bảng 2: Phân độ u sọ hầu theo Sammii (1991) (7,9) 
Phân độ (sammii) N=102
Trong hố yên
Độ I
Dưới hoành yên
Độ II
Vùng trên yên
Độ III
Dưới ½ não thất III
Độ IV
Trên ½ não thất III
Độ V
Não thất bên

n

%


2

1,9%

70

68,0%

26

25,2%

5

4,9%

Kích thước u
Dưới 3 cm
3-6cm
Trên 6 cm

n
68
33
2

Tỷ lệ %
66,0
32,0

1,9

Sự lan rộng của khối u vào hố thái dương có 
2 trường hợp  chiếm 1,9%, hố sau  3 trường  hợp 
2,9%, xâm lấn vào xoang hang 1 trường hợp.  

 
Hình 1: (Hình ảnh học MRI sọ não tín hiệu T1W có 
thuốc đối quang từ ở 3 bình diện chuẩn)  
Bệnh  nhân  Nguyễn  Trọng  P.  (nam)  2004, 
nhập  viện  Chợ  Rẫy  2014  vì  đau  đầu  và  mờ  2 
mắt  (mắt  trái  7/10  và  mắt  phải  9/10),  có  thu 
hẹp  thị  trường  góc  mũi  trái.  Suy  yên  1  phần 
(LH‐FSH  giảm,  cortisol  máu  giảm  nặng. 
Hocmon  giáp  bình  thường),  chẩn  đoán  U  sọ 
hầu  (độ  IV  theo  Sammii(6,9)).  Bệnh  nhân  được 
phẫu thuật lấy u toàn bộ qua đường dưới trán 
2  bên,  không  bảo  tồn  được  cuống  tuyến  yên. 
Đái  nhạt  sau  mổ  và  dùng  hocmon  thay  thế 
vĩnh viễn.  
Kích  thước  khối  u  được  đo  theo  đường 
kính lớn nhất và xếp vào 3 nhóm kích thước là 
dưới 3cm (u thường nằm trọn trong vùng trên 
yên),  từ  3‐6cm  (u  có  xu  hướng  vào  đến  não 
thất  ba‐  não  thất  bên)  và  trên  6cm  thường  là 
những  u  khổng  lồ,  xâm  lấn  rộng  ra  sau  hoặc 
sang  bên.  Một  trường  hợp  u  lớn  với  đường 
kính >10 cm. 

Bệnh Lý Sọ Não  


 

 
Hình 2: (Hình ảnh học MRI sọ não tín hiệu T1W có 
thuốc tương phản trước mổ và CT scan sọ não kiểm 
tra sau mổ):  
Bé gái Nguyễn Phương V. 6 tuổi (2007) nhập 
viện Chợ Rẫy năm 2013 vì đau đầu và mờ 2 mắt 
(mắt Trái sang tối (‐) và mắt phải bóng bàn tay 
20cm)  khoảng  1  năm.  Thường  xuyên  nôn,  đi 
đứng  loạng  choạng,  yếu  chi.  Được  phẫu  thuật 
lấy gần toàn bộ u qua đường dưới trán 2 bên kết 
hợp đường qua rãnh liên bán cầu, bảo tồn cuống 
yên (2013).  

Phẫu thuật u sọ hầu  
Việc lựa chọn đường mổ thích hợp dựa vào 
vị trí và sự lan rộng của u. Đường mổ qua xoang 

237 


Nghiên cứu Y học 

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014

 
bướm  được  thực  hiện  đối  với  u  nằm  trong  hố 
yên. Khi u phát triển lên trên yên và não thất III 

thì  có  thể  chọn  đường  dưới  trán  2  bên  hay 
đường  qua  thóp  bên  trước  (pterional)(8,6,4,9).  Một 
trường hợp u lan rộng vào hố thái dương và hố 
sau nên chúng tôi chọn đường mổ qua trán ‐ thái 
dương  ‐  ổ  mắt  –  cung  Zygoma  (Orbital‐
Zygomatic Approach)(6,4,9). 
Bảng 4: Đường vào phẫu thuật và mức độ lấy u  
Đường vào phẫu thuật và mức độ lấy u (N = 103)
Gần toàn Toàn bộ
Tỷ lệ
n
bộ u
u
%
2
0
2 1,9
Đường dưới trán 1 bên
34
25
60 58,3
Đường dưới trán 2 bên
7
0
7 6,8
Rãnh liên bán cầu
19
2
23 22,3
Pterional

9
0
9 8,7
Qua xoang bướm
0
1
1 1,0
Đường dưới thái dương
1
0
1 1,0
Trán - thái dương - ổ mắt –
cung Zygoma

Đường vào phẫu thuật được sử dụng nhiều 
nhất là đường dưới trán 2 bên (58,3%) với mức 
độ lấy toàn bộ u là 43,3%, khả năng bảo tồn được 
cuống yên là 58,3% và đường vào thóp trước bên 
(pterional)  (22,3%)  với  mức  độ  lấy  toàn  bộ  u  là 
8,7%, khả năng bảo tồn cuống yên là 100%.  

Mức độ lấy u 
Lấy toàn bộ u chiếm 28,2% và lấy phần lớn u 
chiếm  69,9%  với  mức  độ  bảo  tồn  cuống  tuyến 
yên là 73,8%. (76/103 trường hợp).  

Giải phẫu bệnh học u sọ hầu(1,5) 
Thể  hỗn  hợp  (Mixed)  đa  số  là  47,6%, 
Adamantinomatous  35,9%  và  papillary  13,6%. 
Bên cạnh đó, nang Raths cũng chiếm 2,9%.  


Tai biến và biến chứng phẫu thuật(3,6,4,9,11,7) 
Tổn thương dây khứu (CNI) có 2 ca (1,9%): 1 
ca bị 1 bên và 1 ca bị cả 2 bên.  
Viêm màng não sau mổ 4 ca (3,9%): 1 ca dò 
DNT  ra  mũi,  2  ca  có  EVD  sau  mổ,  1ca  sau  mổ 
mở sọ giải ép. 
Dò  DNT  qua  mũi  4  ca  (3,9%):  tất  cả  đều  đi 
đường qua xoang bướm: 2 ca (1,9%) tự bít dò mà 
không cần phẫu thuật hay dẫn lưu thắt lưng, 1 

238

ca  chỉ  cần  dẫn  lưu  thắt  lưng  và  1  ca  phải  phẫu 
thuật bít dò + dẫn lưu thắt lưng.  
Máu tụ hố mổ 11 ca (10,7%) trong đó cần mổ 
lấy máu tụ + giải ép là 6 ca (5,8%) 
Phù  não  nặng  sau  mổ  có  10  trường  hợp 
(9,7%), 2 trường hợp phải mở sọ giải ép, 1 trong 
2 ca này phải tiếp tục đặt VP shunt để giải quyết 
tình  trạng  dãn  não  thất.  1  ca  đặt  EVD  do  kèm 
theo viêm màng não + dãn não thất sau mổ.  
Dãn não thất sau mổ   6  ca  (5,8%):  4  ca  giải 
quyết bằng VP shunt và 2 ca chỉ đặt EVD.  
Đái  nhạt  sau  mổ  có  48  ca  đa  niệu  tạm  thời 
(46,6%)  và  vĩnh  viễn  là  17  ca  (16,5%).  (Lượng 
nước tiểu trung bình là 4,7± 2,04 lít/24 giờ).  
Trong 7 ca đái nhạt trước mổ thì có 2 trường 
hợp cải thiện và phục hồi sau mổ. 4 trường hợp 
còn lại trở thành đa niệu vĩnh viễn, 1 trường hợp 

tử vong trong 24 giờ đầu sau mổ nên không thể 
đánh giá được biến chứng này.  
Tử vong sau mổ có 3 ca (2,9%): 1 ca trẻ em 6 
tuổi có ứ đọng CO2 kéo dài trong quá trình gây 
mê,  tuy  phẫu  thuật  lấy  u  thuận  lợi  nhưng  rối 
loạn nhịp tim sau mổ không thể kiểm soát bằng 
thuốc nên tử vong ngay trong 24 giờ đầu. 1 ca có 
xuất huyết não  thất nặng  sau  mổ  8 giờ,  tri giác 
giảm nhanh và không phục hồi sau khi đặt EVD. 
Ca  thứ  3  là  trường  hợp  bé  gái  10  tuổi  có  xuất 
huyết tái phát kèm phù não nặng nên được phẫu 
thuật  lấy  máu  tụ  và  phần  u  còn  lại.  Sau  phẫu 
thuật bé hôn mê sâu, sốt cao, tụt huyết áp và tử 
vong 1 tuần sau đó. 
Bảng 5: Tai biến và biến chứng phẫu thuật u sọ hầu 
Tai biến – biến chứng
Đái nhạt
Máu tụ hố mổ
Phù não nặng sau mổ
Dãn não thất
Viêm màng não
Dò DNT ra mũi
Tử vong
Tổn thương dây sọ I

n
65
11
10
6

4
4
3
2

Tỷ lệ %
63,1%
10,7%
9,7%
5,8%
3,9%
3,9%
2,9%
1,9%

Đái  nhạt  là  biến  chứng  thường  gặp  nhất 
trong  phẫu  thuật  u  sọ  hầu.  Đây  là  một  biến 
chứng sớm, xuất hiện ngay trong những giờ đầu 

Chuyên Đề Phẫu Thuật Thần Kinh 


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014 

Nghiên cứu Y học

 
sau mổ và có thể gây tử vong do rối loạn thăng 
bằng  nước  và  điện  giải,  tuy  nhiên  lại  là  biến 
chứng có thể kiểm soát tốt. Tỷ lệ máu tụ hố mổ 

và  phù  não  sau  mổ  còn  cao.  (10,7%  và  9,7%). 
Đây cũng là một trong những nguyên nhân gây 
tử  vong  hàng  đầu  trong  phẫu  thuật  não.  Tỷ  lệ 
biến chứng chung sau mổ là 14,6% 

BÀN LUẬN  
Lựa chọn đường vào phẫu thuật  
Theo  nghiên  cứu  của  chúng  tôi,  các  đường 
vào  phẫu  thuật  của  103  bệnh  nhân  u  sọ  hầu  là 
đường  dưới  trán  1  hoặc  2  bên,  đường  vào  qua 
rãnh liên bán cầu, đường vào qua thóp bên trước 
(pterional),  đường  qua  xoang  bướm,  đường 
dưới  thái  dương  và  đường  trán  ổ  mắt  cung 
Zygoma. Việc lựa chọn đường vào này tuỳ thuộc 
vào vị trí u, kích thước u, mức độ lan rộng cũng 
như đặc điểm cấu trúc của u (nang dịch và nhân 
đặc  hay  phần  hoá  vôi).  Với  các  u  trong  và  trên 
yên, chúng tôi chủ yếu lựa chọn đường vào dưới 
trán  (1  hoặc  2  bên)  hoặc  đường  vào  thóp  bên 
trước  pterional.  Trường  hợp  khu  trú  trong  hố 
yên  và  làm  dãn  rộng  hố  yên,  chúng  tôi  chọn 
đường  vào  qua  xoang  bướm  là  thích  hợp  nhất. 
Phần lớn các trường hợp trong nghiên cứu là u 
lớn,  đã  lan  rộng  từ  vùng  trên  yên  đến  não  thất 
ba, thậm chí đến não thất bên, do đó chúng tôi 
chọn  đường  dưới  trán  2  bên  xuyên  qua  mảnh 
tận (lamina terminalis) để lấy u vùng trên yên và 
trong não thất ba. Đối với u phát triển lớn sang 
bên trán hay thái dương thì đường vào trán thái 
dương ổ mắt cung zygoma được lựa chọn.  

Việc  lựa  chọn  đường  mổ  của  chúng  tôi  còn 
phụ  thuộc  vào  yếu  tố  quan  trọng  nữa  là  kinh 
nghiệm của phẫu thuật viên. Tuỳ vào sự thuận 
lợi  của  phẫu  thuật  viên  mà  có  thể  thay  đổi  đôi 
chút như từ đường dưới trán 1 bên thành đường 
dưới trán thái dương 1 bên.  

Biến chứng phẫu thuật  
Nhờ có sự hỗ trợ của các phương tiện chẩn 
đoán trước mổ (MRI) và vi phẫu thuật giúp cải 
thiện kết quả phẫu thuật của chúng tôi trong vài 

Bệnh Lý Sọ Não  

 

năm  gần  đây.  Tất  cả  các  trường  hợp  u  sọ  hầu 
đều  được  các  phẫu  thuật  viên  có  kinh  nghiệm 
lâu năm thực hiện. Song song đó là việc theo dõi, 
chăm sóc và hồi sức sau mổ tốt hơn nên cũng cải 
thiện được tỷ lệ tử vong. Tỷ lệ tử vong trong lô 
nghiên cứu của chúng tôi là 2,9% (3/103 ca trong 
2.5 năm): Một ca u lớn vùng trên yên lan vào não 
thất ba và bên kèm xuất huyết trong u, sau mổ 
có xuất huyết tái phát vào não thất gây dãn não 
thất cấp tính và tử vong. Trường hợp thứ 2 là trẻ 
em 6 tuổi có ứ đọng CO2 kéo dài trong quá trình 
gây mê, tuy phẫu thuật lấy u thuận lợi nhưng rối 
loạn tim mạch sau mổ không thể kiểm soát bằng 
thuốc  nên tử  vong trong 24  giờ  đầu. Ca  còn  lại 

cũng là 1 bé gái 10 tuổi hôn mê sâu, sốt cao, tụt 
huyết  áp  và  tử  vong  1  tuần  sau  mổ  xuất  huyết 
tái  phát  kèm  phù  não  nặng  sau  mổ.  Nguyên 
nhân  tử  vong  được  cho  là  do  tổn  thương  vùng 
hạ đồi. 
Các biến chứng thường gặp sau mổ như dò 
DNT ra mũi, máu tụ hố mổ, dãn não thất sau mổ 
hầu  như  được  can  thiệp  kịp  thời  và  cứu  sống 
được bệnh nhân.  
Rối loạn sau mổ đặc thù của u vùng trên yên 
là  đái  nhạt  cũng  chiếm  63,1%  trong  đó  rối  loạn 
tạm thời là 46,7% và đánh giá rối loạn vĩnh viễn 
là  16.5%,  những  trường  hợp  này  thường  có  chỉ 
định sử dụng demopressine lâu dài.  

Kết quả phẫu thuật 
Phần lớn các bệnh nhân được phẫu thuật lấy 
toàn bộ u và gần toàn bộ u (thường để lại phần 
nhỏ bao u dính vào cuống yên, vùng hạ đồi hoặc 
vào các động mạch não). Chỉ 1 trường hợp sinh 
thiết (u chảy máu nhiều khó cầm do xâm lấn vào 
xoang hang) và lấy bán phần u do phù não trong 
mổ kéo dài (ứ CO2 không cải thiện) khiến phẫu 
trường bị hạn chế. Không có sự khác biệt về mức 
độ lấy u giữa các đường vào phẫu thuật (p>0,05).  
Phẫu  thuật  lấy  phần  lớn  đến  toàn  bộ  u 
song  vẫn  bảo  tồn  được  cuống  tuyến  yên 
(73,8%).  Khả  năng  bảo  tồn  cuống  yên  trong 
trường  hợp  lấy  phần  lớn  u  (88%)  cao  hơn  so 
với  lấy  toàn  bộ  u  (38%)  (p<0,001).  Các  trường 


239 


Nghiên cứu Y học 

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014

 
hợp  không bảo  tồn  được  cuống  yên  thì  59,3% 
có kích thước u dưới 3cm và 37% có kích thước 
3‐6cm.  1  ca  (0,7%)  lớn  hơn  6cm.  Không  tìm 
thấy  sự  khác  biệt  về  khả  năng  bảo  tồn  cuống 
yên giữa các nhóm kích thước u (p>0,05). Trên 
thực  tế  phẫu  thuật,  u  phát  triển  lớn  thường 
làm  cuống  yên  bị  dãn  mỏng  nên  việc  bảo  tồn 
thường  khó  khăn.  Trong  trường  hợp  không 
bảo tồn được cuống yên, bệnh nhân phải dung 
liệu  pháp  niệu  tiết  lâu  dài  dưới  sự  hỗ  trợ  và 
theo dõi của các bác sĩ chuyên khoa nội tiết.  

KẾT LUẬN  
Phẫu thuật u sọ hầu hiện nay vẫn còn nhiều 
thách thức. Lựa chọn tốt nhất là lấy toàn bộ u với 
các tổn thương cấu trúc mạch máu thần kinh và 
cuống yên tối thiểu. Phẫu thuật u sọ hầu trong lô 
nghiên cứu của chúng tôi có tỷ lệ lấy u phần lớn 
u và toàn bộ u chiếm đa số (98,1%) với mức độ 
bảo tồn cuống tuyến yên là 73,8%. Đái nhạt sau 
mổ  63,1%,  được  đánh  giá  tạm  thời  là  46,6%  và 

16,5% vĩnh viễn (cùng với việc sử dụng học môn 
thay  thế).  Tỷ  lệ  biến  chứng  chung  sau  mổ  là 
14,6%. Tỷ lệ tử vong trong 2,5 năm là 2,9%.  

2.

Baskin  DS,  Wilson  CB  (1986).  Surgical  management  of 
craniopharyngiomas. A review of 74 cases. J Neurosurg 65:22‐
27. 

3.

Fahlbusch  R,  Honegger  J,  Buchfelder  M  (1996).  Clinical 
features  and  management  of  craniopharyngiomas  in  adults, 
in  Tindall  GT,  Cooper  PR,  Barrow  DL  (eds):  The  Practice  of 
Neurosurgery. Baltimore: Williams & Wilkins, pp 1159‐1173. 

4.

Fahlbusch R, Honegger J, Paulus W, Huk W, and Buchfelder 
M  (1997).  Surgical  treatment  of  craniopharyngiomas.  Part  I. 
Experience with 168 patients. Neurosurg Focus 3 (6): Article 2. 

5.

Harrison  MJ,  Morgello  S,  Post  KD  (1994).  Epithelial  cystic 
lesions  of  the  sellar  and  parasellar  region:  a  continuum  of 
ectodermal derivatives? J Neurosurg 80:1018‐1025. 

6.


Komotar  RJ,  Roguski  M,  Bruce  JN  (2009).  Surgical 
management of craniopharyngiomas. J Neurooncol 92:283–296. 

7.

Konovalov  AN  (1993).  Craniopharyngioma:  complications 
and  their  avoidance,  in  Apuzzo  MLJ  (ed):  Brain  Surgery: 
Complication  Avoidance  and  Management.  New  York: 
Churchill Livingstone, Vol 1, pp 362‐368. 

8.

Maira G, Anile C, Rossi GF, et al (1995). Surgical treatment of 
craniopharyngiomas:  an  evaluation  of  the  transsphenoidal 
and pterional approaches. Neurosurgery 36:715‐724. 

9.

Samii  M,  Bini  W  (1991).  Surgical  treatment 
craniopharyngiomas. Zentralbl Neurochir 52:17‐23. 

10.

Wisoff  JH  (1994).  Surgical  management  of  recurrent 
craniopharyngiomas. Pediatric Neurosurg 21 (Suppl 1):108‐113. 

11.

Yasargil  MG,  Curcic  M,  Kis  M,  Siegenthaler  G,  Teddy  PJ, 

Roth  P  (1990):  Total  removal  of  craniopharyngiomas. 
Approaches and long‐term results in 144 patients. J Neurosurg 
73‐311. 

TÀI LIỆU THAM KHẢO  

 

1.

Ngày nhận bài báo:  

Adamson TE, Wiestler OD, Kleihues P, Yaşargil MG (1990). 
Correlation of clinical and pathological features in surgically 
treated craniopharyngiomas. J Neurosurg 73:12‐17. 

 

 

21/10/2014 

Ngày phản biện nhận xét bài báo:  

02/11/2014 

Ngày bài báo được đăng: 

5/12/2014 


 

of 

 
 

240

Chuyên Đề Phẫu Thuật Thần Kinh 



×