Tải bản đầy đủ (.pdf) (6 trang)

Tần suất rối loạn cương ở những bệnh nhân nam bị bướu lành tuyến tiền liệt trước khi cắt đốt nội soi tuyến tiền liệt qua ngã niệu đạo

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (385.48 KB, 6 trang )

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 3 * 2013 

Nghiên cứu Y học

TẦN SUẤT RỐI LOẠN CƯƠNG Ở NHỮNG BỆNH NHÂN NAM BỊ BƯỚU LÀNH 
TUYẾN TIỀN LIỆT TRƯỚC KHI CẮT ĐỐT NỘI SOI TUYẾN TIỀN LIỆT 
QUA NGàNIỆU ĐẠO 
Cao Hữu Triều Giang*, Đàm Văn Cương**, Vũ Hồng Thịnh*** 

TÓM TẮT 
Đặt vấn đề và mục tiêu: Rối loạn cương (RLC) ngày càng được phát hiện nhiều hơn đặc biệt ở nam giới 
lớn tuổi. Bên cạnh đó, bướu lành tuyến tiền liệt (TTL) cũng là một bệnh rất phổ biến trên các đối tượng này. Đã 
có nhiều công trình nghiên cứu về mối tương quan của hai bệnh trên. Công trình nghiên cứu của chúng tôi 
nhằm xác định tần suất RLC ở những bệnh nhân nam bị bướu lành TTL trước khi cắt đốt nội soi TTL qua ngã 
niệu đạo. 
Đối tượng ‐ phương pháp nghiên cứu: Từ tháng 9 năm 2009 đến tháng 12 năm 2012 tại khoa Ngoại Tiết 
Niệu bệnh viện Chợ Rẫy có 258 bệnh nhân nam bị bướu lành TTL có chỉ định cắt đốt nội soi TTL qua ngã niệu 
đạo. Trước khi phẫu thuật, chúng tôi tiến hành thăm khám tổng quát, thăm khám trực tràng và các xét nghiệm 
cận lâm sàng khác để đánh giá yếu tố nguy cơ của RLC như bệnh tiểu đường, bệnh tim mạch, suy thận, tăng 
huyết áp…Đặc biệt, chúng tôi sử dụng bảng câu hỏi IPSS và IIEF‐15 để đánh giá về triệu chứng đường tiết niệu 
dưới cũng như chức năng cương của bệnh nhân. Từ đó chúng tôi rút ra kết luận về mối liên quan giữa RLC và 
bướu lành TTL cũng như các yếu tố nguy cơ khác. 
Kết  quả: Nghiên cứu trên 358 bệnh nhân bị  bướu lành TTL, tuổi trung bình là 74,8. Tần  suất  RLC  là 
93,4%, trong đó RLC nhẹ là 22,9%, RLC trung bình là 37,2% và RLC nặng là 33,3%. Theo thang điểm đánh 
giá IPSS thì mức độ rối loạn trong IPSS tỉ lệ thuận với mức độ RLC. Ngoài ra, các yếu tố khác như bệnh tiểu 
đường, tăng huyết áp, bệnh tim mạch, suy thận…cũng có liên quan đáng kể đến RLC. 
Kết luận: Bướu lành TTL và RLC có liên quan mật thiết với nhau. Mức độ rối loạn của thang điểm IPSS 
càng cao thì mức độ RLC càng cao. Bên cạnh đó, các bệnh kèm theo cũng góp phần làm tăng tần suất của bệnh 
RLC. 
Từ  khóa:  Bướu  lành  tuyến  tiền  liệt,  rối  loạn  cương,  thang  điểm  IPSS,  thang  điểm  IIEF,  cắt  đốt  nội  soi 
tuyến tiền liệt qua ngã niệu đạo. 



ABSTRACT 
THE INCIDENCE OF ERECTILE DYSFUNCTION IN PATIENTS WITH BENIGN PROSTATIC 
HYPERPLASIA BEFORE TRANSURETHRAL RESECTION OF THE PROSTATE 
Cao Huu Trieu Giang, Dam Van Cuong, Vu Hong Thinh  
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 17 ‐ Supplement of No 3 ‐ 2013: 345 ‐ 350 
Introduction and objective: To determine the incidence of erectile dysfunction, urinary symptoms and risk 
factors  in  patients  with  benign  prostatic  hyperplasia  (BPH)  before  Transurethral  Resection  of  the  Prostate 
(TURP), using the International Index of Erectile Function (IIEF‐15) and the International Prostate Symptom 
Score (IPSS) questionnaires. 
Patients and methods: Between September 2009 and December 2012, 258 BPH patients in Department of 
Urology  in  Cho  Ray  hospital  underwent  total  examination,  digial  rectal  examination.  In  addition,  urinary 
symptoms and erectile function were evaluated by IPSS and IIEF‐15 questionnaires before TURP. These patients 
* Bệnh viện Đa Khoa Trung Ương Cần Thơ 
*** Bệnh viện Đại Học Y Dược TPHCM 
Tác giả liên lạc: BS Cao Hữu Triều Giang  

Chuyên Đề Thận ‐ Niệu 

** Trường Đại Học Y Dược Cần Thơ 
ĐT:0989237073  

 

Email:  

345


Nghiên cứu Y học 


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 3 * 2013

were also identified potential risk factors for erectile dysfunction (ED) such as coronary heart disease, diabetes 
mellitus, renal failure, hypertension… 
Result: The analysis included 258 BPH men with mean age of 74.8 years. The incidence of ED was 93.4%. 
Of the patients, 22.9% had mild ED, 37.2% had moderate ED and 33.3% had severe ED. Logistic regression 
analysis  showed  that  greater  age,  hypertension,  diabetes  mellitus,  renal  failure…  were  significantly  associated 
with ED. 
Conclusion: BPH is associated with ED. The results of this study highlight the importance of assessing the 
sexual health of men presenting with BPH. 
Keywords:  Benign  Prostatic  Hyperplasia,  Erectile  dysfunction,  International  Prostate  Symptom  Score, 
Transurethral Resection of the Prostate, International Index of Erectile Function. 

ĐẶT VẤN ĐỀ 
Triệu  chứng  đường  tiết  niệu  dưới  (LUTS) 
đặc  biệt  do  nguyên  nhân  bướu  lành  tuyến  tiền 
liệt  (TTL)  có  liên  quan  mật  thiết  với  chức  năng 
cương  ở  những  bệnh  nhân  (BN)  lớn  tuổi  (12). 
LUST và rối loạn cương đều ảnh hưởng nặng nề 
đến chất lượng sống của nam giới cũng như gia 
đình của họ(8,11). 
Cắt  đốt  nội  soi  TTL  qua  ngã  niệu  đạo 
(TURP)  đến  nay  vẫn  là  phẫu  thuật  được  lựa 
chọn hàng đầu cho những BN có chỉ định phẫu 
thuật vì tính hiệu quả, tính an toàn cũng như chi 
phí điều trị của nó (9,17). 
Đa số các BN bị bướu lành TTL thường lớn 
tuổi, nhiều bệnh kết hợp, chất lượng cuộc sống 
giảm và chức năng cương bị rối loạn ở các mức 

độ khác nhau(9). 
Trong  bài  báo  này,  chúng  tôi  tập  trung 
nghiên  cứu  về  tần  suất  rối  loạn  cương  (RLC) 
trên những BN nam bị bướu lành TTL trước khi 
được CĐNS TTL qua ngã niệu đạo. 

ĐỐI TƯỢNG ‐ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
Đối tượng nghiên cứu 
Là  tất  cả  BN  nam  bị  bướu  lành  TTL  có  chỉ 
định CĐNS qua ngã niệu đạo. 
Loại  trừ:  Những  BN  bị  ung  thư  TTL,  BN 
chống chỉ định CĐNS và những BN không đồng 
ý tham gia nghiên cứu. 

Phương pháp 
Phương pháp nghiên cứu: mô tả cắt ngang. 

BN nằm trong nhóm đối  tượng  nghiên  cứu 
sẽ  được  đánh  giá  trước  phẫu  thuật  bằng  các 
bảng IPSS, IIEF‐15, các bệnh kèm theo cũng như 
thuốc đã sử dụng trước khi phẫu thuật. 
Phân loại BN dựa theo các mức độ nhẹ, vừa, 
nặng  của  bảng  IPSS  và  IIEF‐15.  Cụ  thể:  bảng 
IPSS  có  7  câu  hỏi,  mỗi  câu  hỏi  thấp  nhất  là  0 
điểm, nhiều nhất là 5 điểm. Tổng số điểm dưới 8 
điểm là rối loạn nhẹ, 8‐19 điểm là rối loạn trung 
bình,  từ  20  điểm  trở  lên  là  rối  loạn  nặng.  Bảng 
IIEF‐15 gồm có 15 câu hỏi. Mỗi câu hỏi có điểm 
từ  0‐5.  Tổng  số  điểm  từ  20  trở  xuống  là  RLC 
nặng, 21‐30 là RLC trung bình, 31‐59 là RLC nhẹ 

và từ 60 trở lên là không RLC. 
Đánh giá mối tương quan giữa IPSS, IIEF‐15, 
thuốc sử dụng cũng như các bệnh kèm theo. 
Phần  mềm  thống  kê  được  sử  dụng:  SPSS 
16.0. 

KẾT QUẢ 
Từ  tháng  9/2009  đến  tháng  12/2012,  ở  khoa 
Ngoại Tiết Niệu bệnh viện Chợ Rẫy có 258 bệnh 
nhân  nam  bị  bướu  lành  TTL  có  chỉ  định  phẫu 
thuật  CĐNS  TTL  qua  ngã  niệu  đạo  và  đồng  ý 
tham gia nghiên cứu. Các bệnh nhân này được 
chúng tiến hành phỏng vấn đánh giá theo thang 
điểm IPSS và IIEF‐15 cũng như các thăm khám 
lâm sàng và cận lâm sàng khác. Kết quả là: 

Tuổi bệnh nhân 
Tổng số BN: 258. 
Tuổi nhỏ nhất: 55. 
Tuổi lớn nhất: 95. 
Tuổi trung bình: 74,8. 

346

Chuyên Đề Thận ‐ Niệu  


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 3 * 2013 

Nghiên cứu Y học


Tuổi trên 80: 67 BN (26%). 
Tuổi từ 71‐ 80: 102 BN (40%). 
Tuổi từ 61‐70: 70 BN (27%). 
Tuổi từ 60 trở xuống: 19 BN (7%). 

Biểu đồ 3. Tỉ lệ các mứa độ RL đi tiểu theo IPSS. 

Bệnh kèm theo 

 
Biểu đồ 1. Số lượng bệnh nhân. 

Rối  loạn  cương  (đánh  giá  theo  bảng  IIEF‐
15) 
Tổng  số  BN  bị  RLC:  241/258  BN  chiếm 
93,4%. 

Trong 258 BN bị bướu lành TTL có chỉ định 
CĐNS TTL qua ngã niệu đạo thì 219 BN có bệnh 
khác  kèm  theo  chiếm  85%.  Cụ  thể  là:  Bệnh  tim 
mạch:  62  BN  (24%),  bệnh  tiểu  đường:  96  BN 
(37,2%), tăng huyết áp: 74 BN (28,7%), suy thận: 
27  BN  (10,5%),  bệnh  tiết  niệu  khác:  57  BN 
(22,1%), các bệnh khác: 35 BN (13,6%). 

Không bị RLC: 17 BN chiếm 6,6%. 
RLC nhẹ: 59 BN chiếm 22,9%. 
RLC trung bình: 96 BN chiếm 37,2%. 
RLC nặng: 86 BN chiếm 33,3%. 

 
Biểu đồ 4. Các bệnh kèm theo 

Thuốc đã sử dụng 
57 BN sử dụng thuốc tim mạch. 
73 BN sử dụng thuốc điều trị tiểu đường. 
122 BN sử dụng thuốc ức chế α. 
Biểu đồ 2. Tỉ lệ các mứa độ RLC theo IIEF‐15. 

34 BN sử dụng thuốc ức chế 5α‐reductase. 

Đánh giá theo thang điểm IPSS 

54 BN sử dụng Tadenan. 

Rối loạn nhẹ: 37 BN chiếm 14,3%. 
Rối loạn TB: 96 BN chiếm 37,2%. 
Rối loạn nặng: 125 BN chiếm 48,5%. 

Chuyên Đề Thận ‐ Niệu 

Bảng 1. Liên quan giữa mức độ RLC và tuổi. 
P<0,05
Nhẹ (59)
5 (8,5%)
<= 60 (10)
61- 70 (64) 20 (33,9%)
Tuổi
71- 80 (100) 32 (54,2%)
2 (3,4%)

>80 (67)

RLC
TB (96)
Nặng (86)
3 (3,1%)
2 (2,3%)
34 (35,4%) 10 (11,6%)
49 (51%) 19 (22,1%)
10 (10,5%) 55 (64%)

347


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 3 * 2013

Nghiên cứu Y học 

Bảng 2. Liên quan giữa mức độ RLC và thang điểm 
IPSS. 
IPSS
Nhẹ
TB
Nặng
Nhẹ (59) 12 (20,3%) 16 (27,2%) 31 (52,5%)
16 (16,7%) 28 (29,2%) 52 (54,1%)
TB (96)
Nặng (86) 5 (5,9%) 25 (29,1%) 56 (65%)

P<0,05


RLC

Bảng 3. Liên quan giữa mức độ RLC các bệnh kèm 
theo. 


Tiểu
đường Không

Tim
mạch Không

THA
Không

Suy
thận Không

Nhẹ (59)
15 (25,4%)
44 (74,6%)
9 (15,3%)
50 (84,7%)
8 (13,6%)
51 (86,4%)
5 (9,3%)
54 (90,7%)

RLC

TB (96)
32 (33,3%)
64 (66,7%)
17 (17,7%)
79 (82,3%)
25 (26%)
71 (74%)
10 (10,4%)
86 (89,6%)

Nặng (86)
49 (57%)
37 (43%)
29 (33,7%)
57 (66,3%)
41 (47,7%)
45 (42,3%)
14 (14%)
72(86%)

P
<0,0
5
<0,0
5
<0,0
5
<0,0
5


BÀN LUẬN 
Bướu lành TTL là bệnh rất phổ  biến  ở  nam 
giới  cao  tuổi  và  có  liên  quan  đến  chức  năng 
cương  cũng  như  chức  năng  tình  dục  của  BN. 
Điều trị nội khoa hay điều trị phẫu thuật bướu 
lành  TTL  cũng  ảnh  hưởng  đến  chức  năng  tình 
dục đặc biệt là rối loạn xuất tinh của BN (1,3,9). 

Tuổi và RLC 
Tần  suất  RLC  ở  những  BN  nam  theo  tuổi 
được báo cáo rất khác nhau nhưng đều có một 
điểm  chung  là  tuổi  càng  cao  thì  tần  suất  RLC 
càng tăng(4). Đều này càng thể hiện rõ khi BN có 
thêm bướu lành TTL(5). 
Trong nghiên cứu của chúng tôi, tỉ lệ RLC ở 
BN có tuổi dưới 60 là 10/19 BN chiếm 52,6%. Tỉ 
lệ này tăng lên đến 100% (67/67 BN) khi BN trên 
80 tuổi. Kết quả này cũng phù hợp với các y văn 
trong và ngoài nước  (4,5,6). Kết quả của chúng tôi 
cao hơn các kết quả khác có lẽ do các triệu chứng 
đường tiểu dưới (LUTS) ảnh hưởng nặng nề đến 
chất lượng cuộc sống của BN. 

IPSS và RLC 
Theo kết quả nghiên cứu của chúng tôi thấy 
có mối liên quan mật thiết giữa mức độ RLC và 
mức  độ  rối  loạn  theo  thang  điểm  IPSS.  Trong 

348


nhóm  RLC  nhẹ,  IPSS  rối  loạn  nhẹ  chỉ  có  20,3% 
nhưng tăng dần theo đến IPSS rối loạn nặng là 
52,5%. Tương tự, trong nhóm RLC trung bình và 
RLC  nặng  thì  tỉ  lệ  cũng  tăng  dần  khi  IPSS  rối 
loạn nặng dần. 
Kết  quả  của  chúng  tôi  cũng  phù  hợp  với 
các kết quả khác đã được báo cáo như Vassilis 
Poulakis  báo  cáo  trên  522  BN  bị  bướu  lành 
TTL  có  chỉ  định  phẫu  thuật  (17,18).  Nghiên  cứu 
Alf‐One  của  Hartung  R  và  cs  trên  3230  BN  ở 
Nga, Trung Đông, Châu Mỹ Latinh và Châu Á 
cũng có kết quả tương tự  (7). Trong nghiên cứu 
‘Cologne  Male  Survey’  trên  8000  nam  giới, 
Braun M báo cáo tỉ lệ LUST ở những BN RLC 
là  72,2%  trong  khi  tỉ  lệ  LUTS  ở  những  người 
không bị RLC chỉ có 37,7%(2). 
Kết  quả  này  cho  thấy  RLC  tỉ  lệ  thuận  với 
mức  độ  rối  loạn  đánh  giá  theo  thang  điểm 
IPSS(13). 

RLC và bệnh tiểu đường 
Trong  nghiên  cứu  của  chúng  tôi,  nhóm  BN 
bị RLC nhẹ có tiểu đường chỉ có 25,4% nhưng tỉ 
lệ này tăng lên đáng kể ở nhóm RLC trung bình 
có tiểu đường là 33,3% và ở nhóm RLC nặng có 
tiểu  đường  thì  tỉ  lệ  này  là  57%.  Điều  này  cho 
thấy mức độ liên quan tỉ lệ thuận giữa hai bệnh 
này. 
Theo nghiên cứu của Vũ Lê Chuyên trên 211 
BN bị RLC thì trong bệnh nội khoa phối hợp có 

12%  tiểu  đường.  Tiểu  đường  chỉ  gặp  ở  nhóm 
trên  40  tuổi,  cao  nhất  ở  nhóm  51‐60  tuổi  là 
30%(20).  Trong  nghiên  cứu  của  chúng  tôi,  tuổi 
trung bình của BN cao hơn (74,8), có nhiều bệnh 
phối hợp hơn nên tỉ lệ cao hơn là hợp lí. 
Theo nghiên cứu của Felman  (4), RLC xảy ra 
ít nhất là 50% những BN đã được chẩn đoán là 
tiểu đường trong 10 năm. 
Theo  báo  cáo  của  Nguyễn  Thành  Như(10) 
trong  chuyên  đề  hội  nghị  khoa  học  kỹ  thuật 
bệnh viện Bình Dân 2004 thì RLC có thể xảy ra 
trên ít nhất là 50% BN tiểu đường và tới 12% BN 
đến khám đầu tiên vì RLC được phát hiện có bị 

Chuyên Đề Thận ‐ Niệu  


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 3 * 2013 

Nghiên cứu Y học

tiểu. Kết quả nghiên cứu của chúng tôi cũng có tỉ 
lệ tương tự với các báo cáo này(18). 

Kết quả nghiên cứu của chúng tôi cũng có tỉ lệ 
tương tự như các báo cáo này. 

RLC và suy thận 

KẾT LUẬN 


Trong nghiên cứu của chúng tôi, nhóm RLC 
nhẹ có suy thận là 9,3%, trong nhóm RLC trung 
bình  là  10.4%  và  nhóm  RLC  nặng  là  14%.  Mặc 
dù tỉ lệ thấp (27/258 BN) nhưng cũng phản ánh 
được mối liên quan tỉ lệ thuận giữa RLC và suy 
thận. 

RLC là một bệnh ngày càng gặp nhiều hơn. 
Từ  trước  đến  nay,  chúng  ta  thường  chú  ý  về 
RLC ở những nam giới trẻ để tiến hành điều trị 
mà bỏ quên một đối tượng khác là những nam 
giới lớn tuổi có LUTS đặc biệt là bướu lành TTL. 
Trong  những  thập  niên  gần  đây,  đã  có  nhiều 
báo cáo về mối liên hệ  giữa  RLC  và  bướu  lành 
TTL trong đó bướu lành TTL được xem là yếu tố 
nguy cơ cao của RLC. 

Theo  Trần  Quán  Anh  (16)  thì  suy  giảm  chức 
năng  cương  dương  vật  chiếm  45%  trên  những 
nam giới bị suy thận mạn. 
Theo  Nguyễn  Thành  Như(10)  thì  khoảng 
50%  BN  suy  thận  cần  lọc  máu  bị  RLC  nhưng 
nhiều BN có chức năng cương cải thiện sau khi 
ghép thận. 
Kết  quả  nghiên  cứu  của  chúng  tôi  có  tỉ  lệ 
thấp hơn vì chúng tôi nghiên cứu tỉ lệ suy thận 
trong  nhóm  BN  bị  RLC  trong  khi  các  báo  cáo 
trên thì nghiên cứu tỉ lệ BN bị RLC trong nhóm 
BN  suy  thận.  Mặc  dù  kết  quả  khác  biệt  nhưng 

cũng  phản  ánh  được  sự  tương  quan  giữa  RLC 
và suy thận(18). 

RLC và bệnh tim mạch 
Trong  kết  quả  nghiên  cứu  của  chúng  tôi, 
nhóm  BN  bị  RLC  nhẹ  có  bệnh  tim  mạch  là 
15,3%, trong nhóm RLC trung bình là 17,7% và 
trong nhóm RLC nặng là 33,7%. Kết quả này cho 
thấy  mối  liên  quan  của  hai  loại  bệnh  này.  Tỉ  lệ 
tăng dần từ nhóm RLC nhẹ đến RLC nặng. Tỉ lệ 
này cũng phù hợp với các báo cáo và y văn đã 
được công bố. 
Theo Trần Quán Anh(16), các bệnh tim mạch 
có liên quan đến nguyên nhân gây RLC. Những 
cản  trỡ  cơ  giới  từ  thành  mạch  hoặc  từ  những 
thay đổi áp lực động mạch làm cho lượng máu 
tưới  vào  dương  vật  không  đủ.  Bệnh  xơ  vữa 
thành mạch là nguyên nhân của khoảng 40% các 
trường hợp RLC ở nam giới trên 50 tuổi. 
Theo  Felman(4),  có  tới  39%  nam  giới  đang 
điều trị bệnh tim, 15% đang điều trị THA, 9,6% 
đang  điều  trị  các  bệnh  tim  mạch  khác  bị  RLC. 

Chuyên Đề Thận ‐ Niệu 

Kết quả nghiên cứu được báo cáo trong bài 
này cho thấy tần suất RLC ở những BN nam bị 
bướu lành TTL rất cao. Cụ thể là trong tổng số 
258 BN, tỉ lệ RLC là 93,4%, trong đó RLC nhẹ là 
22,9%, RLC trung bình là 37,2% và RLC nặng là 

33,3%.  Bên  cạnh  đó,  các  yếu  tố  nguy  cơ  khác 
như bệnh tim mạch, tiểu đường, suy thận…cũng 
làm  tăng  tần  suất  của  RLC.  Bướu  lành  TTL 
không chỉ ảnh hưởng đến chức năng cương của 
BN mà còn ảnh hưởng đến chức năng tình dục 
khác  như  xuất  tinh,  giảm  ham  muốn,  rối  loạn 
khoái cảm… 
Kết  quả  báo  cáo  của  bài  báo  này  góp  phần 
làm rõ thêm về mối liên hệ của hai bệnh trên từ 
đó có chính sách chăm sóc và điều trị hợp lí cho 
những BN này. 

TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1.

2.

3.

4.

5.
6.

7.

Boyle  P.(2003),  The  association  between  lower  urinary  tract 
symptoms and erectile dysfunction in four centres: the UrEpik 
study. BJU Int:234‐87. 
Braun MH. (2003), Lower urinary tract symptoms and  erectile 

dysfunction:  co‐morbidity  or  typical  “Cologne  Male  Survey. 
Eur Urol: 145‐65. 
Chung  WS.  (2004),  Lower  urinary  tract  symptoms  and  sexual 
dysfunction in community‐dwelling men. Mayo Clin Proc:245‐
67. 
Feldman  HA.  (1994),  Impotence  and  its  medical  and 
psychosocial correlates: result of the Massachusetts Male Aging 
Study. J Urol 1994:236‐48 
Frankel  SJ.  (1998),  Sexual  dysfunction  in  men  with  lower 
urinary tract symptoms. J Clin Epidemiol. 
Jeroen  van  Moorselaar.,(2003),  LUST  and  sexual  dysfunction: 
Implications for managament of BPH. Eur Urol Supplements 2: 
347‐78 
Hartung R. (2003), Sexual dysfunction in 3,230 men with LUST 
suggestive  of  BPH  in  Europe,  Russia,  the  Middle  East,  Latinh 
American and Asia.: 346‐57. 

349


Nghiên cứu Y học 
8.

9.

10.

11.

12.


13.

14.

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 3 * 2013

McVary  K  (2006),  Lower  urinary  tract  symptoms  and  sexual 
dysfunction:  epidemiology  and  pathophysiology.  BJU  Int.:467‐
78.  
Michael  Muntener.  (2007),  Sexual  function  after  transurethral 
resection  of  the  prostate  (TURP):  Results  of  an  Independent 
prospective Multicentre Assessment of outcome. EAU: 345‐67. 
Nguyễn  Thành  Như  (2004),  “Một  số  đặc  điểm  dịch  tễ  học  ở 
những bệnh nhân bị rối loạn được điều trị tại bệnh viện Bình 
Dân trong ba năm (2000‐2001‐2002)”, Chuyên đề hội nghị khoa 
học bệnh viện Bình Dân, tr. 176‐179 
Rosen  R.  (2005),  Sexual  dysfunction  and  lower  urinary  tract 
symptoms (LUST) associated with benign prostatic hyperplasia 
(BPH). Eur Urol.: 589‐91. 
Rosen R et al. (2003), Lower urinary tract symptoms and male 
sexual dysfunction: the multinational survey of the aging male 
(MSAM‐7). Eur Urol.:124‐35.  
Rosen  R.  (2006),  Update  on  the  relationship  between  sexual 
dysfuction and lower urinary tract symptoms/ benign prostatic 
hyperplasia. Curr Opin Urol.: 125‐36. 
Rosen  R.  (2005),  Lower  urinary  tract  symptoms  severity  and 
International Prostate Symptom Score bother question correlate 

15.


16.
17.

18.
19.

20.

with  measures  of  erectile  and  ejaculation  in  benign  prostatic 
hyperplasia. J Urol:321‐34. 
Rosen RC. (2008), Validated questionnaires for assesing sexual 
dysfunction  and  BPH/LUST:  solidifying  the  common 
pathophysiologic link. Int J of Impotence Reseach.: 234‐46. 
Trần Quán Anh (2002), Rối loạn cương, Bệnh học giới tính nam, 
Nhà xuất bản Y học, tr. 379‐449. 
Vassilis  P.  (2006),  Erectile  dysfunction  after  transurethral 
prostatectomy for lower urinary tract symptoms: result from a 
center with over 500 patients. Asian J Androl.:133‐ 36. 
Vallancien G (2003), Sexual dysfunction in 1,274 European men 
suffering from lower urinary tract symptoms. J Urol.: 122‐125. 
Van  Dijk  M.  (2005),  The  association  between  lower  tract 
symptoms  and  sexual  dysfunction:  fact  or  fiction?.  Curr  Opin 
Urol.: 145‐49. 
Vũ Lê Chuyên (2000), “Khảo sát tình hình bệnh nhân rối loạn 
cương ở TP HCM”, Y học TP HCM, tr. 263‐269. 

 

Ngày nhận bài báo 

 
 
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 
Ngày bài báo được đăng: 
 

16‐05‐2013 
10‐06‐2013 
 15‐07‐2013 

 

350

Chuyên Đề Thận ‐ Niệu  



×