Tải bản đầy đủ (.docx) (97 trang)

QUẢN LÍ HOẠT ĐỘNG PHÁT TRIỂN NGHỀ NGHIỆP CHO ĐỘI NGŨ GIÁO VIÊN TRUNG HỌC PHỔ THÔNG HUYỆN VĨNH LINH,TỈNH QUẢNG TRỊ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (485.34 KB, 97 trang )

ĐẠI HỌC HUẾ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM

LÊ PHƯỚC TRỌNG

QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG PHÁT TRIỂN NGHỀ NGHIỆP CHO ĐỘI NGŨ
GIÁO VIÊN THPT HUYỆN VĨNH LINH, TỈNH QUẢNG TRỊ

Chuyên ngành: QUẢN LÍ GIÁO DỤC
Mã số:8140114
LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC THEO ĐỊNH HƯỚNG
NGHIÊN CỨU

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
TS. TRƯƠNG ĐÌNH THĂNG
Thừa Thiên Huế, năm 2018


MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Trong bất kỳ thời đại nào, bất kỳ quốc gia nào, giáo dục luôn là lĩnh vực được
quan tâm hàng đầu. Bởi giáo dục là nhân tố quyết địnhtrong việc phát triển nguồn lực
lao động có chất lượng nhằm phục vụ cho sự phát triển xã hội và sự phát triển của các
quốc gia. . Nhận thức rõ tầm quan trọng của giáo dục và đào tạo, Đảng ta đã khẳng
định tại văn kiện Đảng toàn quốc lần thứ IX như sau “Con người và nguồn nhân lực là
yếu tố quyết định sự phát triển đất nước trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa,
cần tạo chuyển biến cơ bản, toàn diện về giáo dục và đào tạo” [12].Công cuộc đổi mới
giáo dục thời gian qua đề cập khá nhiều đến mục tiêu nâng cao chất lượng đội ngũ
nhà giáo. Các chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, nhà nước trong ngành giáo
dục ngày càng hướng đến mục tiêu nâng cao chất lượng nguồn nhân lực. Luật Giáo
dục 2009 khẳng định: “Nhà giáo giữ vai trò quyết định trong việc bảo đảm chất


lượng giáo dục” [26];
Do đó nhà giáo có đủ khả năng để đáp ứng với nhiệm vụ đào tạo theo sự thay
đổi của mỗi thời kì là một trong những vấn đề quan trọng của giáo dục. Nhà nước ta
luôn có các chính sách để giáo viên có thể có điều kiện để nâng cao khả năng về trình
độ chuyên môn nghiệp vụ cho bản thân.Nghị quyết 29-NQ/TW về đổi mới căn bản
toàn diện giáo dục Việt Nam đã xác định:“Giáo viên chính là lực lượng xung kích trên
mặt trận đổi mới, là người đi đầu quyết định tới chất lượng giáo dục”; “Đổi mới mạnh
mẽ mục tiêu, nội dung, phương pháp đào tạo, đào tạo lại, bồi dưỡng và đánh giá kết
quả học tập, rèn luyện của nhà giáo theo yêu cầu nâng cao chất lượng, trách nhiệm,
đạo đức và năng lực nghề nghiệp”.
Để đáp ứng được yêu cầu đổi mới giáo dục, người giáo viên cần phải phát triển
nghề nghiệp liên tục. Phát triển nghề nghiệp tức là phát triển con người trong vai trò
nghề nghiệp của người đó hay nói cách khác là tạo được vị thế của người đó trong
nghề nghiệp của họ. Phát triển nghề nghiệp giáo viên là một giáo viên đạt được các
kỹ năng nâng cao đáp ứng các yêu cầu sát hạch việc giảng dạy, giáo dục một cách hệ
thống. Đây là quá trình thay đổi bản thân để thích ứng với yêu cầu của nghề dạy học.
Phát triển nghề nghiệp liên tục của giáo viên bao hàm phát triển năng lực chuyên
môn và năng lực nghiệp vụ của nghề (nghiệp vụ sư phạm) cho giáo viên. Năng lực
nghiệp vụ sư phạm của giáo viên lại được xác định bởi năng lực thực hiện các vai trò
2


của giáo viên trong quá trình lao động nghề nghiệp của mình. Bản thân các vai trò của
giáo viêncũng không phải là bất biến.
Giáo viên là nhân tố quyết định chất lượng giáo dục và là yếu tố then chốt của
mọi sự cải cách, đổi mới giáo dục. Bất kể thời đại nào, giáo dục luôn luôn phải thay
đổi để phù hợp với lịch sử của thời đại. Do đó để đáp ứng được sự thay đổi thì giáo
viên phải thay đổi đầu tiên bởi không có thầy giỏi cả về năng lực chuyên môn và
phẩm chất đạo đức thì khó có thể có một nền giáo dục có chất lượng phù hợp với xu
thế. Những năm qua tỉnh nhà đã có nhiều đổi mới trong giáo dục bám sát với chủ

trương của Bộ GD&ĐT nhằm nâng cao chất lượng giáo dục. Tuy nhiên, nhìn vào thực
tế hiện nay, năng lực đội ngũ giáo viên phổ thông tỉnh Quảng Trị nói chung và giáo
viên trung học phổ thông huyện Vĩnh Linh nói riêng đang là vấn đề đáng lo ngại trước
yêu cầu đổi mới giáo dục[27]. Nếu Chương trình giáo dục phổ thông mới được triển
khai trong thời gian tới với định hướng và yêu cầu chuyển từ trang bị nội dung kiến
thức sang phát triển phẩm chất và năng lực người học bằng việc dạy học tích hợp và
lồng ghép, dạy học phân hóa, trải nghiệm sáng tạo… thì đội ngũ giáo viên cần phải
không ngừng phát triển nghề nghiệp để thích ứng được với những đổi thay.
Trong những năm qua, cùng với cả nước, việc tổ chức quản lý hoạt động phát
triển nghề nghiệp giáo viên trung học phổ thông luôn được ngành giáo dục – đào tạo
huyện Vĩnh Linh, tỉnh Quảng Trị quan tâm. Nhiều hình thức và nội dung phát triển
nghề nghiệp được đưa vào chương trình bồi dưỡng cho giáo viên trung học phổ thông
bước đầu đã thu được một số kết quả đáng khả quan. Tuy nhiên, công tác quản lý phát
triển nghề nghiệp giáo viên ở các trường trung học phổ thông trên địa bàn huyện Vĩnh
Linh còn ít được quan tâm nghiên cứu. Hầu như chưa có bất cứ đề tài nào nghiên cứu
về quản lý hoạt động phát triển nghề nghiệp giáo viên các trường THPT tại huyện
Vĩnh Linh được thực hiện.
Xuất phát từ những lý do trên, tôi đã lựa chọn đề tài “Quản lý hoạt động phát
triển nghề nghiệp cho đội ngũ giáo viên trung học phổ thông huyện Vĩnh Linh,
tỉnh Quảng Trị” để thực hiện nghiên cứu.
2. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu cơ sở lý luận và thực trạng quản lý hoạt động phát triển
nghề nghiệp cho đội ngũ giáo viên trung học phổ thông huyện Vĩnh Linh, tỉnh Quảng
3


Trị, luận văn đề xuất các biện pháp quản lý hoạt động phát triển nghề nghiệp cho đội
ngũ giáo viên trung học phổ thông nhằm đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục.
3. Khách thể và đối tượng nghiên cứu
3.1.Khách thể nghiên cứu: Hoạt động phát triển nghề nghiệp cho đội ngũ giáo

viên trung học phổ thông.
3.2. Đối tượng nghiên cứu: Quản lý hoạt động phát triển nghề nghiệp cho đội
ngũ giáo viên trung học phổ thông huyện Vĩnh Linh, tỉnh Quảng Trị.
4. Giả thuyết khoa học
Công tác quản lý hoạt động phát triển nghề nghiệp cho đội ngũ giáo viên trung
học phổ thông huyện Vĩnh Linh, tỉnh Quảng Trị trong thời gian qua vẫn còn nhiều bất
cập, hạn chế, chưa đáp ứng nhu cầuphát triển nghề nghiệp của đội ngũ giáo viên trung
học phổ thông. Nếu đề xuất và áp dụng đồng bộ các biện pháp quản lýhoạt động phát
triển nghề nghiệp cho đội ngũ giáo viên trung học phổ thôngmột cách khoa học, khả
thi với điều kiện thực tế của huyện Vĩnh Linh, tỉnh Quảng Trị thì có thể nâng cao
được hiệu quả công tác này,đáp ứng được mục tiêu phát triển nghề nghiệp của đội ngũ
giáo viên trong giai đoạn hiện nay.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
5.1.Nghiên cứu cơ sở lý luận về quản lý hoạt động phát triển nghề nghiệp cho
đội ngũ giáo viên trung học phổ thông.
5.2. Khảo sát, phân tích, đánh giá thực trạng quản lý hoạt động phát triển nghề
nghiệp cho đội ngũ giáo viên trung học phổ thông huyện Vĩnh Linh, tỉnh Quảng Trị.
5.3. Đề xuất các biện pháp quản lý hoạt động phát triển nghề nghiệp cho đội
ngũ giáo viên trung học phổ thông huyện Vĩnh Linh, tỉnh Quảng Trị.
6. Phương pháp nghiên cứu
6.1.Nhóm phương pháp nghiên cứu lý luận
Sử dụng phương pháp phân tích, tổng hợp, hệ thống hóa các tài liệu liên quan
đến vấn đề nghiên cứu nhằm xây dựng cơ sở lý luận về quản lý hoạt động phát triển
nghề nghiệp cho đội ngũ giáo viên trung học phổ thông.
6.2. Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn
4


Việc sử dụng các phương pháp nghiên cứu thực tiễn nhằm khảo sát đánh giá
thực trạng vấn đề nghiên cứu. Ba phương pháp được sử dụng trong nghiên cứu này,

gồm có:
- Phương pháp điều tra bằng phiếu: Bằng phiếu câu hỏi (điều tra) dành cho
cán bộ quản lý, giáo viên nhằm đánh giá thực trạng hoạt động phát triển nghề nghiệp
và quản lý hoạt động phát triển nghề nghiệp cho đội ngũ giáo viên THPT huyện Vĩnh
Linh, Tỉnh Quảng Trị.
+ Bộ phiếu 1: Trưng cầu ý kiến của CBQL để lấy ý kiến đánh giá về công tácphát
triển nghề nghiệp và quản lý hoạt động phát triển nghề nghiệp cho đội ngũ giáo viên
THPT.
+ Bộ phiếu 2: Trưng cầu ý kiến của giáo viên về công tác phát triển nghề nghiệp
cho đội ngũ giáo viên THPT trong nhà trường.
- Phương pháp phỏng vấn: Sử dụng phương pháp phỏng vấn Bán cấu trúc. Đây
là hình thức phỏng vấn trong đó người phỏng vấn dựa theo danh mục các câu hỏi hoặc
các chủ đề đã được xác định, tuy nhiên thứ tự và cách đặt câu hỏi tùy thuộc vào ngữ cảnh
và đặc điểm của đối tượng được phỏng vấn. Áp dụng phương pháp này, người phỏng vấn
có thể đặt thêm các câu hỏi liên quan đến chủ đề nghiên cứu nhằm làm rõ và sâu các vấn
đề nghiên cứu.
Nhằm tìm hiểu sâu, thu thập đến mức tối đa thông tin về thực trạng hoạt động phát
triển nghề nghiệp cho đội ngũ giáo viên THPT, tham khảo ý kiến để khảo nghiệm tính
hợp lý và tính khả thi của các biện pháp quản lý đã đề xuất, cần tiến hành phỏng vấn sâu
một số đối tượng trong nhà trường, đó là: Lãnh đạo nhà trường; Tổ trưởng chuyên môn,
giáo viên, nhân viên để xin ý kiến đánh giá, nhận xét của họ về hoạt động phát triển nghề
nghiệp.
Để thực hiện nhóm phỏng vấn với các đối tượng trên cần phải thiết kế bộ câu hỏi
về vấn đề cần tham khảo ý kiến và có thể gửi câu hỏi trước cho người được phỏng vấn để
chuẩn bị ý kiến.
- Phương pháp nghiên cứu văn bản:
+ Nghiên cứu những đặc điểm của trường, đội ngũ CBQL, GV liên quan đến công
tác phát triển nghề nghiệp cho đội ngũ giáo viên qua các giai đoạn thông qua các văn bản
nội bộ của nhà trường.
+ Phân tích các văn bản xây dựng chuẩn mực nghề nghiệp của cán bộ, giáo viên

5


và các văn bản liên quan đến tác phát triển nghề nghiệp cho đội ngũ giáo viên.
+ Nghiên cứu một số kết quả đạt được thông qua báo cáo nội bộ của một số nhà
trường để đánh giá khái quát các biện pháp tác phát triển nghề nghiệp cho đội ngũ giáo
viên.
6.3. Phương pháp xử lý số liệu: Nhằm xử lý các kết quả điều tra.
+ Đối với phương pháp điều tra bằng phiếu: Xử lý số liệu bằng phần mềm SPSS
theo phương pháp phân tích định tính .
+ Đối với phương pháp phỏng vấn, nghiên cứu văn bản: Dữ liệu từ 2 phương pháp
này được tiến hành phân tích theo phương pháp xử lý dữ liệu định tính; các dữ liệu được
tổng hợp những nội dung phù hợp để đưa ra câu trả lời chính xác nhất đối với những vấn
đề nghiên cứu.
7. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài tập trung khảo sát thực trạng và đề xuất biện pháp quản lý hoạt động
phát triển nghề nghiệp cho đội ngũ giáo viên trung học phổ thông huyện Vĩnh Linh,
tỉnh Quảng Trị (gồm 4 trường trung học phổ thông trên địa bàn huyện Vĩnh Linh, tỉnh
Quảng Trị) từ tháng 1 năm 2019 đến tháng 10 năm 2019.
8. Ý nghĩ lý luận và thực tiễn của đề tài
8.1. Ý nghĩa lý luận:Nghiên cứu để làm sáng tỏ lý luận về khoa học quản lý
nói chung và quản lý hoạt động phát triển nghề nghiệp cho đội ngũ giáo viên THPT
nói riêng.
8.2. Ý nghĩa thực tiễn: Những biện pháp do tác giả đề xuất có giá trị thực tiễn,
làm cơ sở khoa học cho các nhà quản lý xây dựng và thực hiện các biện pháp phát
triển nghề nghiệp cho đội ngũ giáo viên THPT một cách tích cực, hiệu quả hơn.
9. Cấu trúc của luận văn
Luận văn được cấu trúc gồm 3 phần:
Phần 1: Mở đầu
Phần 2: Nội dung nghiên cứu, gồm 3 chương:

Chương 1. Cơ sơ lý luận về quản lý hoạt động phát triển nghề nghiệp cho đội
ngũ giáo viên trung học phổ thông.
Chương 2. Thực trạng quản lý hoạt động phát triển nghề nghiệp cho đội ngũ
giáo viên trung học phổ thông huyện Vĩnh Linh, tỉnh Quảng Trị.
6


Chương 3. Biện pháp quản lý hoạt động phát triển nghề nghiệp cho đội ngũ
giáo viên trung học phổ thông huyện Vĩnh Linh, tỉnh Quảng Trị.
Phần 3: Kết luận và kiến nghị
- Danh mục tài liệu tham khảo
- Phụ lục

7


Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG PHÁT TRIỂN
NGHỀ NGHIỆP CHO ĐỘI NGŨ GIÁO VIÊN TRUNG HỌC PHỔ THÔNG
1.1. Khái quát lịch sử vấn đề nghiên cứu
1.1.1 Những nghiên cứu ở nước ngoài
Vấn đề phát triển nghề nghiệp cho giáo viên được rất nhiều tác giả ngoài nước
chú trọng nghiên cứu trong nhiều thập kỷ vừa qua. Các nghiên cứu thường tập trung
vào mối quan hệ giữa phát triển nghề nghiệp giáo viên (teacher’s professional
development) và thành tích học tập của học sinh (student achievement). Các nghiên
cứu (ví dụ: nghiên cứu của Bredeson [….], Borko [……], Vermunt […..]) đều chỉ ra
rằng có mối liên hệ chặt chẽ giữa phát triển nghề nghiệp giáo viên và thành tích học
tập của học sinh. Theo đó, quá trình phát triển nghề nghiệp giáo viên giúp nâng cao
chất lượng giáo dục và cải thiện thành tích học tập của học sinh.
Có nhiều yếu tố liên quan đến hoạt động phát triển nghề nghiệp giáo viên. Ví dụ,

Borko đưa ra mô hình các yếu tố như sau:

Người hướng dẫn
(facilitators)

Chương trình
phát triển nghề
nghiệp (PD
Program)

Giáo viên
(teachers)

Bối cảnh (context)

Ba yếu tố chính có tác động qua lại với nhau bao gồm: PD Program (chương trình
phát triển nghề nghiệp cho giáo viên), Facilitators (người hướng dẫn) và Teachers
(giáo viên). Trong đó bối cảnh cụ thể của nhà trường hoặc của địa phương cũng là yếu
tố tác động lên ba yếu tố đó. Dựa trên các yếu tố cũng như sự tác động của bối cảnh
cụ thể nhiều tác giả ở nhiều quốc gia đã đi sâu vào nghiên cứu các vấn đề liên quan
đến phát triển năng lực cho đôi ngũ giáo viên, và các nghiên cứu hầu hết đều theo các
xu hướng chính sau:
8


Xu hướng thứ nhất là: xây dựng chương trình phát triển nghề nghiệp cho giáo viên.
Việc xây dựng chương trình này các tác giả chủ yếu tập trung vào việc làm rõ phương
pháp nội dung hình thức để có thể phát triển nghề nghiệp giáo viên. Tại Anh, hội đồng
giáo dục năm 2005 đã đưa ra 12 nhóm năng lực cần có đối với giáo viêntừ đó yêu cầu
giáo viên phải rèn luyện để đạt được[32]. Ở Úc, trường Queensland đã đưa ra yêu cầu

phát triển nghề nghiệp đối với giáo viên gồm những vấn đề sau:
Thứ nhất: Giáo viên phải hoàn thành số lượng giờ tối thiểu các hoạt động phát triển
nghề nghiệp.
Thứ hai: Cần có sự cân bằng giữa phát triển nghề nghiệp giáo viên do trường/đơn vị
sử dụng lao động định hướng và hỗ trợ với phát triển nghề nghiệp giáo viên do bản
thân giáo viên xác định.
Thứ 3: Các hoạt động phát triển nghề nghiệp cần đa dạng và phong phú và liên quan
đến chuẩn nghề nghiệp giáo viên[37].
Tổ chức OECD đã đưa ra các hình thức/mô hình phát triển nghề nghiệp giáo
viên phổ biến, đó là
+ Các mô hình tương tác (quan hệ) có tổ chức
+ Nhóm nhỏ hoặc mô hình riêng lẻ (cá nhân)[36]
Trong xu hướng này việc xây dựng nên chương trình tốt, phù hợp sẽ tạo nên nền tảng
vững chắc cho việc phát triển nghề nghiệp cho giáo viên. Bởi lẽ có chương trình tốt,
Xu thế thứ hai là: “Nghiên cứu về đặc điểm của một chương trình phát triển nghề
nghiệp cho giào viên có hiệu quả” cũng được các nhóm tác giả nước ngoài đặc biệt
chú trọng.
Trong xu thế này các tác giả chủ yếu phân tích và tìm ra đặc điểm chung của
các chương trình mang lại hiệu quả cao của một chương trình phát triển nghề nghiệp
cho giáo viên. Trong một nghiên cứu của Villegas-Reimers đã chỉ những đặc điểm cơ
bản của chương trình phát triển nghề nghiệp giáo viên tốt bao gồm: Dựa trên xu
hướng tạo dựng thay vì dựa trên mô hình chuyển giao; Là một quá trình mang tính tất
yếu và lâu dài đối với mỗi giáo viên; Được thực hiện với những nội dung cụ thể; Liên
quan mật thiết với những thay đổi/cải cách trường học; Phát triển nghề nghiệp giáo
viên là một quá trình cộng tác; Được thực hiện và thể hiện rất đa dạng và có thể rất
khác biệt ở những bối cảnh khác nhau[39].

9



Xu hướng thứ ba: Đánh giá tính hiệu quả của các chương trình phát triển nghề
nghiệp cho giáo viên.
Trong xu hướng này có các nhóm tác giả Veenman, Van Tulder và Voeten[38]
chỉ ra các yếu tố ảnh hưởng đến hiệu của các khóa bồi dưỡng. Còn tác giả Fresko
(1985) đã đánh giá sự tác động của các khoá bồi dưỡng đến năng lực chuyên môn và
sự tự tin của giáo viên dạy Toán [33].
Xu hướng thứ tư của các nhóm tác giả là nghiên cứu về xây dựng chuẩn nghề
nghiệp cho đội ngủ giáo viên.
Trong chuẩn nghề nghiệp,theo nghiên cứu của nhóm tác giả Đinh Thị Hồng
Vân trong “Nghiên cứu đề xuất các đặc điểm và yêu cầu phát triển nghề nghiệp của
giáo viên và cán bộ quản lý trung học cơ sở” chỉ ra rằng: một số nước đã tiến đến
xây dựng chuẩn nghề nghiệp cho giáo viêntừng ngành học, cấp học, môn học. Mục
đích của việc xây dựng chuẩn là giúp đội ngũ giáo viên biết được các yêu cầu nghề
nghiệp để phấn đấu, rèn luyện và đạt chuẩn. Chuẩn nghề nghiệp cũng là cơ sở để
đánh giá, xếp loại giáo viên. Đối với các các cơ sở đào tạo giáo viên, chuẩn nghề
nghiệp định hướng cho việc thiết lập nội dung, chương trình giáo dục.Các quốc gia
có nền giáo dục tốt đều có các chuẩn nghề nghiệp được xây dựng nghiêp túc như
Hoa Kỳ, Anh, Úc…[21]
1.1.2. Những nghiên cứu ở Việt Nam
Những năm gần đây giáo dục ở Việt Nam được chú trọng nhằm mục đích nâng
cao chất lượng giáo dục nước nhà ngang tầm quốc tế, mà giáo viên là đội ngũ nòng
cốt tạo nên sự đột phá trong giáo dục. Do đó vấn đề xây dựng chuẩn nghề nghiệp, mô
hình nghề nghiệp giáo viên, đào tạo giáo viên theo hướng tiếp cận năng lực...đều rất
được chú trọng và tạo cơ sở lý luận vững chắc cho những nghiên cứu về phù hợp nghề
và thích ứng nghề giáo viên.
Ngoài ra, một số bài báo, công trình nghiên cứu về hoạt động bồi dưỡng nghề
nghiệp cho đội ngũ GV nói chung cũng đã được tiến hành. Có thể kể đến những công
trình sau:
- Tác giả Nguyễn Thúy Hồng (2017) với bài viết “Đào tạo bồi dưỡng GV và
cán bộ quản lí giáo dục đáp ứng yêu cầu đổi mới căn bản toàn diện giáo dục phổ

thông” đăng trên Tạp chí Khoa học Giáo dục số 136 [20].

10


- Tác giả Trịnh Thanh Hải (2017) với bài viết “Bồi dưỡng GV phổ thông theo
hướng tiếp cận năng lực dạy học” đăng trên Tạp chí Khoa học Giáo dục số 138 [17].
- Tác giả Nguyễn Văn Bản (06-2017) với bài viết “Biện pháp nâng cao chất
lượng bồi dưỡng GV và cán bộ quản lí giáo dục của trường Đại học Đồng Tháp đáp
ứng yêu cầu đổi mới giáo dục mầm non và giáo dục phổ thông trong giai đoạn mới”
đăng trên Tạp chí Khoa học số 26 [5].
- Nguyễn Thanh Hùng, Đinh Thị Hồng Vân, Nguyễn Việt Dũng (2017) với đề
tài “Nghiên cứu đề xuất các đặc điểm và yêu cầu phát triển nghề nghiệp của GV và
cán bộ quản lý THCS”. [21]
- Lê Thị Kim Long, Lê Thị Thu Hiền, Trịnh Thanh Hải với đề tài “Nghiên cứu
đề xuất các giải pháp và chính sách đặc thù trong đào tạo và phát triển nghề nghiệp
cho giáo viên và cán bộ quản lý vùng Tây Bắc” đăng trên tạp chí Giáo dục số 435 (kì
1- 08/2018)[23]
Những luận văn liên quan đến đề tài cũng được tiến hành như:
(1) “Quản lý hoạt động bồi dưỡng giảng viên trường Đại học y dược thành phố
Cần Thơ” (Luận văn Thạc sĩ Quản lý giáo dục - Lê Thị Gái, năm 2018).[14]
(2) “Biện pháp nâng cao mức độ đáp ứng chuẩn nghề nghiệp của đội ngũ giáo
viên trung học phổ thông huyện Đông Hải tĩnh Bạc Liêu” (Luận văn Thạc sĩ Quản lý
giáo dục – Hà Văn Út, năm 2013) [29]
Trên cơ sở đề xuất của các nhà giáo dục học có uy tín và học tập kinh nghiệm
giáo dục và đào tạo của các nước phát triển, năm 2009, 2010, 2018 Bộ Giáo dục và
Đào tạo đã ban hành quy Quy định Chuẩn nghề nghiệp giáo viên trung học. Theo đó,
chuẩn nghề nghiệp giáo viên trung học gồm có 5 tiêu chuẩn:
Tiêu chuẩn 1: Phẩm chất nhà giáo.
Tiêu chuẩn 2: Phát triển chuyên môn nghiệp vụ.

Tiêu chuẩn 3: Xây dựng môi trường giáo dục.
Tiêu chuẩn 4: Phát triển mối quan hệ giữa nhà trường gia đình và xã hội.
Tiêu chuẩn 5: Sử dụng ngoại ngữ hoặc tiếng dân tộc, ứng dụng công nghệ.
thông tin khai thác và sử dụng thiết bị công nghệ trong dạy học và giáo dục.
Trong mỗi tiêu chuẩn, lại có các tiêu chí đánh giá rất cụ thể, chi tiết và rõ ràng.
Có thể nói rằng các nghiên cứu liên quan đến năng lực, phẩm chất giáo viên, mô hình

11


nghề nghiệp, quy định về chuẩn nghề nghiệp chính là công cụ lý luận quan trọng cho
các nghiên cứu liên quan đến phù hợp nghề sư phạm
1.2. Những khái niệm cơ bản của đề tài
1.2.1. Giáo viên trung học phổ thông
Giáo viên THPT là “người học người lớn” có tri thức, kinh nghiệm công tác
trong dạy học và giáo dục và các kinh nghiệm này ảnh hưởng lớn đến việc học tập
của họ. Bên cạnh những đặc điểm chung về nghề nghiệp, lao động sư phạm của người
giáo viên còn mang tính đặc thù. Giáo viên THPT có nhu cầu, động cơ và động lực
học tập cao.
Nhiệm vụ chính của giáo viên THPT là dạy học theo từng bộ môn, từ hoạt
động dạy học nhằm truyền đạt tri thức và thực hiện sứ mệnh cao cả là giáo dục nhân
cách cho học sinh cấp THPT.
1.2.2. Phát triển nghề nghiệp giáo viên
Nghề nghiệp giáo viên là một ngành mang tính đặc thù bởi những đặc điểm của đối
tượng, công cụ lao động nghề nghiệp đòi hỏi giáo viên phải phát triển liên tục về
chuyên môn nghiệp vụ để đáp ứng được sự thay đổi liên tục của đối tượng và công cụ
lao động nghề nghiệp.
Phát triển nghề nghiệp của cá nhân tức là việc phát triển con người trong vai
trò nghề nghiệp của người đó. Theo Villegass-Reimers (2003) & Gladthorn (1995)
cho rằng phát triển nghề nghiệp giáo viên là sự phát triển nghề nghiệp mà một giáo

viên đạt được do có các kỹ năng nâng cao đáp ứng các yêu cầu sát hạch việc giảng
dạy, giáo dục một cách hệ thống [39]. Theo Guskey (2000) thì phát triển nghề nghiệp
giáo viên là thành phần rất quan trọng trong gần như tất cả các chương trình/đề án
phát triển giáo dục hiện đại ở các quốc gia trên thế giới[34]. Theo OECD (2009), phát
triển nghề nghiệp giáo viên là các hoạt động phát triển kỹ năng, kiến thức, chuyên
môn và các đặc điểm khác cần thiết đối với giáo viên[36].
Phát triển nghề nghiệp của giáo viên là phát triển năng lực chuyên môn và
năng lực nghiệp vụ nghề cho giáo viên. Trong thời đại hiện nay đã và đang đặt ra
những yêu cầu mới đối với giáo viên, theo đó, người giáo viên phải đảm nhận thêm
những vai trò mới như: vai trò người hướng dẫn; tư vấn và chăm sóc tâm lý học sinh.
Phát triển nghề nghiệp giáo viên là một quá trình mang tính tất yếu và lâu dài
đối với mỗi giáo viên. Tất yếu bởi dạy học và giáo dục là những quá trình thay đổi và
12


gắn liền với sự sáng tạo của mỗi giáo viên. Về bản chất, phát triển nghề nghiệp giáo
viên là quá trình mỗi giáo viên phải tăng sự thích ứng trong lao động nghề nghiệp của
chính bản thân mình. Thực tiễn dạy học đã cho thấy rằng những phương pháp giảng
dạy tốt sẽ có ảnh hưởng tích cực đến việc học sinh học cái gì và học như thế nào. Rèn
luyện bản thân làm thế nào để có cách dạy hay và làm việc như thế nào để trở thành
một giáo viên giỏi là cả một quá trình lâu dài. Kết quả của quá trình này như thế nào
phụ thuộc vào mức độ tích cực của mỗi giáo viên trong việc phát triển những kiến
thức nghề nghiệp cũng như các giá trị và quan điểm đạo đức nghề nghiệp của họ. Bên
cạnh đó, việc giám sát và hỗ trợ của các chuyên gia hoặc đồng nghiệp có kinh nghiệm
để mỗi giáo viên phát triển được các kỹ năng nghề nghiệp đóng vai trò quan trọng.
Bên cạnh đó việc phát triển nghề nghiệp cho đội ngũ giáo viên phải dựa trên
những đinh hướng sẵn có của các cấp bộ nghành, do đó việc các nghị định thông tư
được thông qua giúp cho hoạt động phát triển nghề nghiệp cho đội ngũ giáo viên nói
chung giáo viên THPT nói riêng. Nổi bật có:
(1) Nghị quyết số 29-NQ/TW ngày 04/11/2013 của Ban Chấp hành Trung

ương Đảng (khóa XI) về “Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp
ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa”.[4]
(2) Nghị quyết số 88/2014/QH13 về đổi mới chương trình, sách giáo khoa
giáo dục phổ thông [10]
(3) Quyết định số 404/QĐ-TTg ngày 27/3/2015 phê duyệt đề án đổi mới
chương trình, sách giáo khoa giáo dục phổ thông. [6]
(4) Thông báo số 148/TB-BGDĐT ngày 24/3/2015 về kết luận của Thứ
trưởng Nguyễn Vinh Hiển tại Hội thảo “Nâng cao năng lực đào tạo, bồi dưỡng
giáo viên, cán bộ quản lý của các trường sư phạm đáp ứng yêu cầu đổi mới
giáo dục phổ thông”[25].
Đặc biệt trong giai đoạn hiện nay PTNN cho GV THPT là tất yếu do việc Bộ
giáo dục và đào tạo đang triển khai khung chương trình giáo dục phổ thông mới thể
hiện mục tiêu giáo dục phổ thông nhằm phát triển học sinh một cách toàn diện đòi hỏi
các cấp quản lý, lãnh đạo các trường học, cũng như bản thân giáo viên phải có các kế
hoạch để phát triển năng lực đạt chuẩn năng lực nghề nghiệp đáp ứng yêu cầu giảng
dạy trong thời đại mới
13


1.2.3. Quản lý
Trong xã hội loài người, khi có sự xuất hiện mội quan hệ giữa người với
người thì bắt đầu xuất hiện hiện tượng quản lý. Quản lý xuất hiện trong những hoạt
động có tổ chức, có phối hợp phân công lao động. Và hoạt động đó tồn tại và phát
triển như yếu tố khách quan đảm bảo cho các hoạt động chung đạt kết quả mong
muốn.
Theo C.Mác: “Quản lý là lao động điều khiển lao động”. [11, tr.21] Ông coi
việc xuất hiện quản lý như là kết quả tất nhiên của sự chuyển nhiều quá trình lao
động cá biệt, tản mạn, độc lập với nhau thành một quá trình xã hội được phối hợp
lại. Ông viết: “Bất cứ lao động hay lao động chung nào mà tiến hành trên một quy

mô khá lớn đều yêu cầu phải có một sự chỉ đạo để điều hòa những hoạt động cá
nhân… Một nhạc sĩ độc tấu thì điều khiển lấy mình, nhưng một dàn nhạc thì phải có
nhạc trưởng” [11, tr.22].
Về quan niệm quản lý có khá nhiều định nghĩa khác nhau. Frederick
Winslow Taylor cho rằng, quản lý là biết được chính xác điều bạn muốn người khác
làm, và sau đó hiểu được rằng họ đã hoàn thành công việc một cách tốt nhất và rẻ
nhất [15]. Trong tác phẩm “Những vấn đề cốt yếu của quản lý”, tác giả H. Koontz
lại khẳng định: “Quản lý là một hoạt động thiết yếu, nó đảm bảo phối hợp những nỗ
lực hoạt động cá nhân nhằm đạt được mục đích của nhóm hoặc tổ chức. Mục tiêu
của quản lý là hình thành một môi trường mà trong đó con người có thể đạt được
các mục đích của nhóm với thời gian, tiền bạc, vật chất và sự bất mãn cá nhân ít
nhất” [18,tr.48]…
Từ quan niệm của các học giả đã nêu trên, có thể khái quát:
Quản lý là sự tác động có tổ chức, có tính hướng đích của chủ thể quản lý
lên đối tượng quản lý nhằm huy động, sử dụng hợp lý, có hiệu quả nhất các tiềm
năng, các cơ hội, các nguồn lực cơ bản như tài lực, vật lực, nhân lực… của hệ
thống để đạt mục tiêu xác định trong bối cảnh và thời gian nhất định.
Quản lí là hoạt động của nhà quản lí nhằm đề ra các mục tiêu quản lí và thực
hiện nó theo một quá trình nhất định. Đó là hoạt động trong đó nhà quản lí sử dụng
các vai trò, chức năng và phương pháp quản lí một cách khéo léo vào việc lập kế
hoạch, tổ chức, chỉ đạo và KTĐG; việc phân công và phối hợp các lực lượng làm

14


cho các cá nhân hợp tác cùng nhau để thực hiện và đạt được mục tiêu mà tổ chức
đã đề ra.
1.2.4. Quản lý giáo dục
Giáo dục là một hoạt động chuyên môn nhằm thực hiện quá trình truyền đạt
và lĩnh hội kinh nghiệm lịch sử - xã hội qua các thế hệ, đồng thời là một động lực

thúc đẩy sự phát triển xã hội. “Một quy luật của tiến bộ xã hội là thế hệ đi sau phải
lĩnh hội cả những kinh nghiệm xã hội mà các thế hệ đi trước đã tích lũy và truyền
lại, đồng thời phải làm phong phú thêm những kinh nghiệm đó” [24, tr.32]. Để hoạt
động này vận hành có hiệu quả, giáo dục phải được tổ chức thành các cơ sở, tạo nên
một hệ thống thống nhất. QLGD được xem như là một hoạt động chuyên biệt để
quản lý các cơ sở giáo dục.
Có nhiều quan niệm khác nhau về QLGD:
Tác giả Nguyễn Ngọc Quang cho rằng: “QLGD là hệ thống những tác động
có mục đích, có kế hoạch, hợp quy luật của chủ thể quản lý (hệ giáo dục) nhằm làm
cho hệ vận hành theo đường lối và nguyên lý giáo dục của Đảng, thực hiện các tính
chất của nhà trường xã hội chủ nghĩa Việt Nam, mà tiêu điểm hội tụ là quá trình dạy
học, giáo dục thế hệ trẻ, đưa hệ giáo dục tới mục tiêu dự kiến, tiến lên trạng thái
mới về chất” [24, tr.25].
Còn tác giả Trần Kiểm khẳng định: “QLGD là hoạt động tự giáo dục của chủ
thể quản lý nhằm huy động, tổ chức, điều phối, điều chỉnh, giám sát, một cách có
hiệu quả các nguồn lực giáo dục (nhân lực, vật lực, tài lực) phục vụ cho mục tiêu
phát triển giáo dục, đáp ứng yêu cầu về phát triển kinh tế - xã hội” [22, tr.36].
Theo nghĩa đó, QLGD là tập hợp các tác động có mục đích, có kế hoạch,
hợp quy luật của chủ thể quản lý ở các cấp khác nhau trong hệ thống lên các đối
tượng quản lý trực thuộc, thông qua việc thực hiện các chức năng quản lý và việc
sử dụng hợp lý các tiềm năng, cơ hội nhằm làm cho hệ thống giáo dục vận hành,
đảm bảo được các tính chất và nguyên lý của nền giáo dục Việt Nam, đạt mục tiêu
giáo dục đã đề ra.
1.2.5. Quản lí trường học
Trường học là một bộ phận của xã hội, là một tổ chức giáo dục được quản lý
chẵn chẽ. Hoạt động chính của nhà trường là dạy và học, việc quản lý nhà trường
chính là quản lý việc hoạt động dạy và học sao cho đạt được mục tiêu giao dục.
15



Theo tác giả Đặng Quốc Bảo: "Trường học là một thiết chế xã hội trong đó diễn
ra quá trình đào tạo giáo dục với sự hoạt động tương tác của hai nhân tố Thầy Trò. Trường học là một bộ phận của cộng đồng và trong guồng máy của hệ thống
giáo dục quốc dân, nó là đơn vị cơ sở" [2, tr3].
Tác giả Phạm Minh Hạc đã đưa ra nội dung khái quát về khái niệm quản
lý nhà trường: "Quản lý nhà trường là thực hiện đường lối giáo dục của Đảng
trong phạm vi trách nhiệm của mình, tức là đưa nhà trường vận hành theo
nguyên lý giáo dục để tiến tới mục tiêu giáo dục, mục tiêu đào tạo đối với ngành
giáo dục, với thế hệ trẻ và với từng học sinh'' [16, tr22].
Trong hoạt động giáo dục, quản lý nhà trường là nội dung quan trọng của
hệ thống quản lý nói chng, nó thể hiện việc nhà quản lý trường học sử dụng việc
quản lý để thực hiện các chức năng của mình nhằm điều hành các hoạt động dạy
và học, đồng thời quản lý các thiết bị, cơ sở vật chất nhằm đạt được mục tiêu
giáo dục.
1.2.6.Quản lý hoạt động phát triển nghề nghiệp cho giáo viên trung học phổ
thông
Quản lý phát hoạt động triển nghề nghiệp cho giáo viên nói chung và giáo viên
THPT nói riêng là một bộ phận cấu thành trong QLGD và quản lý nhà trường, không
thể tách rời và độc lập với các hoạt động quản lý nhà trường. Trong đó, quản lý phát
triển nghề nghiệp giáo viên tập trung vào quản lý các hoạt động bồi dưỡng, đào tạo,
rèn luyện và tự học nhằm nâng cao trình độ về chuyên môn, nghiệp vụ, năng lực sư
phạm và các ứng xử của giáo viên THPT với học sinh. Bên cạnh đó xây dựng các
chuẩn mực và kiểm tra giáo viên với các chuẩn mực được cơ quan đưa ra yêu cầu
giáo viên THPT đáp ứng.[31]
1.3. Những vấn đề lý luận về hoạt động phát triển nghề nghiệp cho đội ngũ giáo
viên trung học phổ thông
1.3.1. Vai trò của hoạt động phát triển nghề nghiệp cho đội ngũ giáo viên
trung học phổ thông
Trên thế giới hiện nay một trong những nghề có tầm ảnh hưởng lớn đến xã hội,
tương lai của mỗi đất nước, mỗi quốc gia nhất đó chính là nghề giáo viên. Trong khi
đó sự biến đổi của xã hội diễn ra thường xuyên và liên tục, chính điều này đòi hỏi

nghành giáo dục cũng không ngừng phải đổi mới thay đổi để phù hợp với xã hội. Ở
16


nhiều quốc gia trong đó có Việt Nam chức năng của các trường học đang thay đổi kéo
theo yêu cầu cấp thiết giáo viên phải thay đổi, đặc biệt là giáo viên THPT nơi đào tạo
nền tảng để học sinh có thể tiếp cận những kiến thức về nghề nghiệp tương lai. Và yêu
cầu cho giáo viên lồng ghép các nhu cầu học tập đặc biệt của học sinh trong lớp học;
sử dụng hiệu quả hơn nữa công nghệ thông tin và các phương tiện truyền thông để
giảng dạy; tìm ra phương pháp hơn để phụ huynh tham gia nhiều hơn vào hoạt động
trong trường học[39].
Mặt khác lượng kiến thức mới được bổ sung vào ngành giáo dục tăng một cách
chóng mặt cả về số lượng lẫn chất lượng, bên cạnh đó nền tảng kiến thức của nhiều
môn học và các lĩnh vực khác cũng thay đổi theo[34]. Vì vậy lượng kiến thức mà giáo
viên được đào tạo trước khi tốt nghiệp không thể chuẩn bị cho giáo viên đầy đủ năng
lực để ứng phó với những thách thức mà họ sẽ phải đối mặt trong suốt sự nghiệp
giảng dạy. Do đó, hoạt động phát triển nghề nghiệp cho giáo viên phải trở thành một
vấn đề cấp thiết đối với nền giáo dục của các quốc gia trên thế giới. Bản thân giáo
viên muốn phát triển và đáp ứng được yêu cầu mới cần phải thường xuyên được bồi
dưỡng, tự đổi mới, tự học hỏi để phát triển năng lực chuyên môn và nghiệp vụ sư
phạm.
Bên cạnh đó, phát triển nghề nghiệp cũng chính là một trong những yêu cầu
được đặt ra đối với các chương trình cải cách hay đổi mới giáo dục hiện đại. Thực
tế đã cho thấy nhiều giáo viên vẫn chưa thực sự chú trọng vào việc phát triển nghề
ngiệp của bản thân, họ xem việc phát triển nghề nghiệp chỉ là “nghĩa vụ”, “làm cho
có”. Họ tham gia các chương trình bồi dưỡng phát triển nghề nghiệp vì đó là
chương trình do các đơn vị quản lý họ đưa ra. Do đó hiệu quả của chương trình
phát triển nghề nghiệp giáo viên trước đây gần như không mang lại hiệu quả, có
chăng thì hiệu quả cũng rất thấp. Điều này cũng có nhiều nguyên nhân nhưng chủ
yếu do chương trình bồi dưỡng không hợp lý và do bản thân mỗi giáo viên chưa có

ý thức để rèn luyện vấn đề phát triển nghề nghiệp bản thân. Tuy nhiên những năm
trở lại đây nhiều nghiên cứu đã cho thấy rằng hoạt động phát triển nghề nghiệp cho
giáo viên đã làm thay đổi đáng kể đến sự phát triển của giáo dục[24]. Chính vì vậy,
để đổi mới giáo dục, đổi mới và xây dựng chương trình phát triển nghề nghiệp giáo
viên chất lượng được đặc biệt nhấn mạnh trong các chương trình cải cách giáo dục
ở nhiều quốc gia trên thế giới.
17


Thường xuyên học tập để phát triển năng lực nghề nghiệp còn là một trong
những tiêu chuẩn trong Chuẩn nghề nghiệp giáo viên của các nước. Ở Việt Nam,
chuẩn nghề nghiệp giáo viên trung học năm 2018 cũng đưa năng lực phát triển
nghề nghiệp là 1 trong 5 tiêu chuẩn cần có đối với giáo viên. Giáo viên cần nắm
vững chuyên môn và thành thạo nghiệp vụ; thường xuyên cập nhật, nâng cao năng
lực chuyên môn đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục[23]
Như vậy, có thể thấy phát triển nghề nghiệp là một yêu cầu tất yếu đối với
giáo viên, đặc biệt là trong giai đoạn hiện nay. Thường xuyên phát triển chuyên
môn và nghiệp vụ sư phạm có thể giúp giáo viên phát triển sự thành thạo trong
nghề và gia tăng sự thích ứng trong lao động nghề nghiệp của họ. Điều này cũng sẽ
kéo theo những ảnh hưởng tích cực đến việc hình thành, phát triển hoạt động học
và tự giáo dục của học sinh.
1.3.2. Nội dung phát triển nghề nghiệp cho đội ngũ giáo viên trung học
phổ thông.
Nội dung phát triển nghề nghiệp cho đội ngũ giáo viên nói chung và giáo viên
THPT nói riêng ở các nước có ba đặc điểm chính sau đây:
Thứ nhất, nội dung phát triển nghề nghiệp của giáo viên gắn liền với những
bối cảnh/hoàn cảnh cụ thể của các đơn vị và những thay đổi/cải cách trường học
Theo Villegas-Reimers (2003) khi phân tích tổng quan cơ sở lý luận về phát
triển nghề nghiệp giáo viên đã chỉ ra đặc điểm liên quan đến nội dung của các
chương trình các hoạt động phát triển nghề nghiệp giáo viên. Theo tác giả thì việc

phát triển nghề nghiệp giáo viên phải diễn ra với những bối cảnh, hoàn cảnh cụ thể.
Tức là việc phát triển nghề nghiệp của giáo viên phải có sự liên hệ giữa việc đào
tạo và bồi dưỡng với thực tế đào tạo tại các trường [39] điều này mới đem lại hiệu
quả. Bởi mỗi khi phát triển nghề nghiệp giáo viên với chương trình đào tạo bồi
dưỡng cho giáo viên dù hay dù tốt bao nhiêu mà không sát với cách thức đào tạo và
thực tế tại trường học thì bồi dưỡng kết thúc thì giáo viên cũng không thể áp dụng
vào thực tế vì nhiều lý do trong đó có điều kiện về cơ sở vật chất và đối tượng áp
dụng. Do đó mô hình phát triển nghề nghiệp hiệu quả nhất phải tính đến sự gắn kết
giữa các hoạt động phát triển nghề nghiệp với thực tế nhà trường, với hoạt động
hàng ngày của giáo viên và học sinh. Họ phải tạo cơ hội cho giáo viên tham gia tích
cực vào chính chương trình/hoạt động đó trong bối cảnh của đơn vị mình.
18


Cũng hướng đến việc xây dựng nội dung phát triển nghề nghiệp hiệu quả,
Hawley và Valli (1999, trích dẫn trong Lawrence, 2005) [40] đã đưa ra các nguyên
tắc thiết kế hoạt động phát triển nghề nghiệp. Trong đó, nhóm tác đề xuất rằng mỗi
giáo viên khi có nhu cầu phát triển nghề nghiệp bản thân họ phải được tham gia vào
nội dung cũng như chương trình đào tạo để chính họ đưa ra yêu cầu họ cần đào tạo
cái gì cũng như cách thức phát triển/áp dụng những kinh nghiệm mà họ sẽ được học
thông qua các hoạt động phát triển nghề nghiệp. Bên cạnh đó, nội dung phát triển
nghề nghiệp giáo viên cũng cần tập trung vào những gì học sinh phải học và cách
thức giải quyết các vấn đề khác nhau mà học sinh có thể gặp phải trong quá trình
học tập. Tức là nội dung phát triển nghề nghiệp cho giáo viên cần dựa trên cơ sở
phân tích sự khác nhau giữa thực tế của học sinh và mục tiêu và tiêu chuẩn cho việc
học của học sinh. Hơn nữa, nội dung của phát triển nghề nghiệp nên kết hợp đánh
giá nhiều nguồn thông tin về đầu ra cho học sinh và hướng dẫn và các quá trình
khác có liên quan đến việc áp dụng những gì được học từ các hoạt động phát triển
nghề nghiệp.
Tương tự, Bruce và Beverley cũng đồng tình với việc đưa nội dung phát triển

nghề nghiệp trở nên gần gũi với đơn vị công tác của người học. Nhóm tác giả đã
xác định bốn thành phần chính của đào tạo phát triển nghề nghiệp giáo viên, trong
đó chỉ ra rằng các chương trình phát triển nghề nghiệp cần bao gồm việc giúp giáo
viên có cơ hội để mô hình hoá các kỹ năng mới được học, lý tưởng nhất là trong
môi trường gần giống với nơi làm việc. Việc đào tạo, bồi dưỡng giáo viên thông
qua các hoạt động phát triển nghề nghiệp, theo đó, sẽ hướng đến khả năng thực
hành để phát triển năng lực cho người học nhiều hơn là chỉ dừng lạimức độ hình
thành tri thức lý thuyết cho họ[31].
Bên cạnh đó, phát triển nghề nghiệp giáo viên ra đời từ nhu cầu tất yếu đổi
mới giáo dục. Nhiều chương trình phát triển nghề nghiệp giáo viên đã cho thấy sự
liên kết về nội dung của các chương trình với những thay đổi/cải cách trong trường
học đương thời. Phát triển nghề nghiệp giáo viên thực chất là quá trình xây dựng
văn hoá trường học chứ không đơn thuần là đào tạo, bồi dưỡng kỹ năng cho người
học. Trong phát triển nghề nghiệp, giáo viên đư ợc trao quyền trở thành những
người chuyên nghiệp, theo đó, họ cần được nhận những tác động tương đương với
những gì họ sẽ tác động đến học sinh. Nếu không nhận được sự hỗ trợ từ nhà
19


trường/cơ sở giáo dục hoặc những người cải cách chương trình, chương trình phát
triển giáo viên khó đạt được hiệu quả mong muốn[39].
Thứ hai, nội dung phát triển nghề nghiệp giáo viên tạo cơ hội cho giáo viên
hiểu được các lý thuyết nền tảng cho kiến thức và kỹ năng được học
Đặc điểm này xuất phát từ nhận định của Villegas-Reimers khi thực hiện
nghiên cứu tổng quan về việc phát triển nghề nghiệp giáo viên ở các quốc gia trên
thế giới. Theo tác giả, giáo viên là người có sẵn nền tảng kiến thức. Họ tham gia
vào các hoạt động phát triển nghề nghiệp để giúp bản thân có thể học thêm những
kiến thức và kinh nghiệm mới dựa trên cơ sở nền tảng kiến thức đã có. Do đó, các
chương trình phát triển nghề nghiệp cho giáo viên thường bao gồm nội dung giúp
người học xây dựng nên những học thuyết/cơ sở lý luận và thực tiễn mới và giúp họ

có thể phát triển chuyên môn trong lĩnh vực nghiên cứu. Hơn nữa, việc phát triển
nghề nghiệp cho giáo viên cũng được minh chứng bằng kiến thức chuyên môn
vững chắc giúp người học xây dựng được nền tảng lý luận và áp dụng thành thục
trong thực tiễn sau khi đã bồi dưỡng phát triển nghề nghiệp[39].Đặc điểm này cũng
được rút ra từ kết quả nghiên cứu của Bruce và Beverley khi xác định các thành
phần chính của công tác đào tạo phát triển nghề nghiệp cho giáo viên[31].
Thứ ba, nội dung phát triển nghề nghiệp giáo viên được xây dựng dựa trên
chuẩn nghề nghiệp giáo viên tương ứng
Muốn phát triển nghề nghiệp giáo viên thì phải xem xét xem lượng kiến thức
hiện tại của giáo viên có đáp ứng được nhu cầu thực tiễn hay không. Muốn đánh
giá được điều này phải dựa vào một chuẩn đánh giá. Vì vậy các chuẩn đánh giá
nghề nghiệp giáo viên ra đời để đáp ứng cho yêu cầu của xã hội và ngành giáo dục
đối với sự phát triên nghề nghiệp của giáo viên. Chính vì vậy, nội dung các chương
trình phát triển nghề nghiệp cho giáo viên ở các nước thường căn cứ vào chuẩn
nghề nghiệp dành cho họ. Chuẩn nghề nghiệp của các quốc gia trên thế giới đã xác
định các năng lực cần có đối với người giáo viên. Mặc dù có sự khác biệt tương
đối, đa phần chuẩn nghề nghiệp của các quốc gia đều nhấn mạnh đến các tiêu chuẩn
liên quan đ ến năng lực chuyên môn và năng lực nghiệp vụ sư phạm cho giáo viên.
Chuẩn nghề nghiệp của giáo viên trung học Việt Nam được xác định gồm 5 tiêu
chuẩn[32]. Nội dung các hoạt động phát triển nghề nghiệp cho giáo viên
THPTthường được tổ chức phong phú, đa dạng, giúp giáo viên có thể mở rộng, đổi
20


mới tri thức khoa học liên quan đến giảng dạy môn học do bản thân phụ trách và
đồng thời mở rộng, phát triển, đổi mới tri thức, kỹ năng thực hiện các hoạt động
dạy học và giáo dục trong nhà trường cũng như phát triển các giá trị, đạo đức nghề
nghiệp.
1.3.3. Các phương pháp và hình thức phát triển nghề nghiệp cho đội ngũ
giáo viên trung học phổ thông

Các hình thức, mô hình và phương pháp PTNN cho GV THPT là khá đa
dạng và được xây dựng theo các đinh hướng nhất đinh.
Thứ nhất, phát triển nghề nghiệp giáo viên dựa trên xu hướng kiến tạo thay
vì dựa trên mô hình chuyển giao
Trong xu hướng này người dạy phải tạo được sự trình kích thích người học trở
thành người học tích cực, chủ động trong việc tiếp nhận, phát triển tri thức, kỹ năng
và đánh giá phản biện lại thông tin mà bản thân người học thu được. Điều này đồng
nghĩa với việc chuyển đổi từ phương pháp người dạy truyền thụ một chiều sang xu
hướng dạy học hiện đại. Thực tế này thay đổi mô hình về mối quan hệ giữa nhà
giáo dục và người được giáo dục. Nhà giáo dục không còn là trung tâm của quá
trình giáo dục, người được giáo dục không đơn thuần chỉ là đối tượng của giáo dục
mà là chủ thể của quá trình giáo dục, tự học, tự khởi xướng, tự tổ chức và tự đánh
giá quá trình học tập của mình. Theo cách hiểu này, nhà giáo dục sẽ đóng vai trò là
người hướng dẫn hoặc cố vấn[39].
Với sự thay đổi của nền giáo dục hiện đại, trong nền giáo dục này đòi hỏi
người học phải luôn nêu cao tinh thần tích cực, chủ động trong việc lĩnh hội kiến
thức. Do đó việc phát triển nghề nghiệp cho giáo viên cũng nhằm hướng đến mục
tiêu thực hiện tốt nhất có thể việc giảng dạy, giáo dục học sinh, giúp học sinh phát
triển toàn diện về nhân cách. Chính vì vậy, trong phát triển nghề nghiệp, giáo viên
được xác định vị trí, vai trò tương tự như những gì họ sẽ thực hiện với học sinh của
mình. Tức là bản thân mỗi giáo viên được xem là người học tích cực, chủ động
tham gia các nhiệm vụ giảng dạy, đánh giá, quan sát và phản hồi[39][36]. Giáo viên
phải tích cực tự tìm hiểu, không thụ động trong quá trình tham gia các hoạt động
phát triển nghề nghiệp.
Thứ hai, phát triển nghề nghiệp giáo viên mang tính chất liên tục, lâu dài

21


Đối với nghề nghiệp giáo viên một trong những yếu tố quan trọng để có thể

mang lại hiệu quả cao trong giáo dục chính là mỗi cái nhân phải trải qua quá trình
phát triển nghề nghiệp giáo viên lâu dài và liên tục. Họ bắt đầu sự nghiệp khi vừa
rời ghế nhà trường và tiếp tục trong quá trình lao động nghề nghiệp của giáo viên
tại cơ sở giáo dục cho đến khi họ về hưu. Và quá trình phát triển nghề nghiệp giáo
viên được tổ chức liên tục và lâu dài[39][36] và được duy trì bền vững theo thời
gianbởi sự thay đổi không ngừng của xã hội đặt ra đối với bản thân họ, sự phát triển
như vũ bão của thông tin và sự ra đời của các phương tiện khoa học kỹ thuật hiện
đại. Chính vì vậy, các chương trình phát triển nghề nghiệp thường tạo điều kiện để
giáo viên có thể không ngừng nâng cao năng lực chuyên môn và nghiệp vụ sư
phạm để đáp ứng với những điều đó.
Tính liên tục và lâu dài của quá trình phát triển nghề nghiệp cho giáo viênchủ
yếu dựa vào trường học và được xây dựng trong công việc giảng dạy hàng ngày
[35]. Để mỗi giáo viên phát triển nghề nghiệp hiệu quả thì cần bao gồm đào tạo,
thực hành, phản hồi, cung cấp đủ thời gian và hỗ trợ theo dõi [35][39]. Ngoài ra,
chính các hoạt động liên quan đến việc theo dõi và hỗ trợ giáo viên - bao gồm sự hỗ
trợ từ các nguồn ngoài trường học để có thể cung cấp các nguồn lực cần thiết và các
quan điểm mới sẽ giúp giáo viên tự học lâu dài, không chỉ giới hạn trong các
chương trình phát triển nghề nghiệp. Theo OECD, các trường học phải trở thành
các tổ chức học tập theo hướng tạo môi trường để giáo viên có thể chia sẻ chuyên
môn và kinh nghiệm của họ một cách có hệ thống, và hướng này đã và đang trở
thành xu hướng của các quốc gia trên thế giới hiện này[36].
Thứ ba, phát triển nghề nghiệp giáo viên là một quá trình mang tính chất cộng
tác
Giáo viên hoạt động trong môi trường giáo dục, đặc biệt là giáo dục phổ thông
không thể tự mình tạo nên hiệu quả giáo dục bởi nền giáo dục THPT đòi hỏi nhiều
thành phần, nhiều nội dung đến từ nhiều mặt được phối hợp quản lý chẵn chẽ tạo
nên sự tác động toàn diện đến học sinh. Do đó khi phát triển nghề nghiệp cho giáo
viên, đặc biệt là giáo viên THPT đòi hỏi tính chất cộng tác cao mới mang lại hiệu
quả. Tức là sự phát triển nghề nghiệp được tổ để giải quyết vấn đề theo hướng cần
đến sự hợp tác của các giáo viên trong quá trình học tập. Đặc biệt, sự phát triển

nghề nghiệp được xem là hiệu quả khi có thể xây dựng hỗ trợ đồng đẳng trong giải
22


quyết vấn đề; tập trung thảo luận về thực tiễn và hỗ trợ các nhóm học sinh có nhu
cầu tương đương; thách thức tình hình hiện tại bằng cách tăng kỳ vọng và mang lại
quan điểm mới; và hỗ trợ từ một người nào đó có vai trò huấn luyện và/hoặc cố vấn
trong quá trình phát triển nghề nghiệp[36].
Thực tế quá trình giảng dạy cũng cho thấy khi giáo viên sử dụng sự hỗ trợ
của đồng nghiệp để giải quyết vấn đề, quan sát, giảng dạy và lập kế hoạch hợp tác
thường thành công hơn trong việc chuyển giao các kỹ năng mới đến thực tiễn giảng
dạy[31]
Thứ tư, phát triển nghề nghiệp giáo viên mang tính chất đa dạng
Tính chất của nghề nghiệp giáo viên vốn đa màu đa sắc bởi đối tượng là con
người, chính vì vậy phát triển nghề nghiệp giáo viên cũng mang tính chất đa dạng.
Tính đa dạng của phát triển nghề nghiệp giáo viên tạo ra sự khác biệt khi thực hiện
phát triển nghề nghiệp giáo viên ở những bối cảnh khác nhau. Thậm chí, trong cùng
một bối cảnh cụ thể nhưng có thể có những cách tiếp cận và triển khai phát triển nghề
nghiệp không hoàn toàn thống nhất Tác giả Villegas-Reimers trong một nghiên cứu
của mình đã chỉ ra điều đó[39]. Chính vì vậy việc phát triển nghề nghiệp cho giáo
viên cũng phải có tính mềm dẽo và đa dạng.
1.3.4. Các mô hình phát triển nghề nghiệp cho đội ngũ giáo viên trung học
phổ thông
Mô hình phát triển giáo viên là một trong những mô hình giáo dục, đây là mô
hình kiểu nhận thức. Mô hình phát triển nghề nghiệp cho giáo viên khá đa dạng và
dựa trên nhiều quan niệm khác nhau để đưa ra tiêu chí xây dựng mô hình phát triển
nghề nghiệp cho giáo viên. Chúng ta có thể xem xét các quan niệm sau trước khi tìm
hiểu các mô hình phát triển nghề nghiệp cho giáo viên.
+ Phát triển nghề nghiệp giáo viên đòi hỏi phải có sự gia tăng về kiến thức, các
kĩ năng, phán đoán liên quan đến các vấn đề trong lớp học và có sự đóng góp của các

giáo viên đối với cộng đồng dạy học.
+ Các chương trình nhằm mục đích phát triển nghề cho giáo viên nên tập trung
vào các vấn đề sau [35]
(i) Phát triển các kĩ năng sống;
(ii) Trở thành người có năng lực đối với các kĩ năng cơ bản của nghề dạy học;
(iii) Phát huy tính linh hoạt của người giảng dạy;
23


(iv) Có chuyên môn giảng dạy;
(v) Đóng góp vào sự phát triển nghề nghiệp của đồng nghiệp; và
(vi) Thực hiện vai trò lãnh đạo và tham gia vào việc ra quyết định.
Dựa vào các tiêu chí nêu trên ta có thể thấy răng hoạt động phát triển nghề
nghiệp có thể được phát triển một cách có chủ định hoặc không. Tức là các hoạt động
cho giáo viên có thể liên quan đến hoạt động phát triển nghề nghiệp nhưng cũng có
những hoạt động được thực hiện liên quan đến giáo viên hoặc được thực hiện bởi giáo
viên nhưng không có chủ ý thực hiện các tiêu chí phát triển nghề nghiệp của họ.
Mô hình phát triển nghề nghiệp giáo viên là cái thể hiện của phát triển nghề
nghiệp giáo viên. Nhưng giữa cái thể hiện và cái được thể hiện thường có sự phản ánh
không đầy đủ. Mặt khác các tiêu chí của chương trình phát triển giáo viên tương đối
phong phú, đa dạng vì thế việc xây dựng mô hình phát triển nghề nghiệp giáo viên
cũng có nhiều cách khác nhau dẫn đến có nhiều mô hình khác nhau. Hiện nay các mô
hình phát triển nghề nghiệp phổ biến bao gồm:
Mô hình cá nhân tự định hướng phát triển
Với mô hình này bản thân giáo viên tự đặt ra những mục tiêu phát triển nghề
nghiệp cho bản thân, tự hoạch định những hoạt động bồi dưỡng cá nhân và cách thức
để đạt những mục tiêu đó. Mô hình này thể hiện sự tụ vận động của bản thân dựa trên
những yêu cầu, động cơ phát triển của mỗi cá nhân. Mô hình này dựa trên cơ sở lý
luận là khó khăn thực tiễn trong hoạt động giảng dạy, từ đó họ tìm cách giải quyết vấn
đề bằng cách tự xây dựng định hướng phát triển nghề nghiệp, tạo nên một ý thức về

việc phát triển nghề nghiệp.
Trong mô hình này, các mục tiêu, các hoạt động và cách thức tiến hành cũng
như quá trình để hoàn thành mục tiêu đó được bản thân mỗi giáo viên liệt kê ra và tiến
hành thực hiện theo trình tự mà họ đã thiết lập. Họ tự chịu trách nhiệm cho kế hoạch
của bản thân cũng như kết quả đạt được sau hoạt động. Các nhà quản lý có vai trò
giám sát tạo điều kiện đánh giá và đóng góp ý kiến nhằm giúp mô hình này đạt kết
quả cao nhất.
Mô hình này khá thuận lợi khi thực hiện bởi mỗi cá nhân sẽ biết được họ cần
phái phát triển những gì và họ tiến hành thực hiện những yêu cầu nhằm đạt được mục
tiêu.
Mô hình giáo viên tham gia vào quá trình đổi mới
24


Trong quá trình thực hiện nghề nghiệp tại các trường học thường xuất hiện các
khó khăn khi thực hiện cải tiến chương trình đào tạo, thiết kế chương trình hay đổi
mới phương pháp. Từ những khó khăn trong thực tiễn tiến hành đánh giá tìm giải
pháp khắc phục thông qua việc tham gia các lớp tập huấn, hội thảo, nghiên cứu các tài
liệu và thực nghiệm. Mô hình này giúp cho quá trình phát triển nghề nghiệp giáo viên
phát triển khi đứng trước những thách thức đổi mới từ đó phục vụ cho công việc của
họ tốt hơn.
Mô hình thực hiện các nghiên cứu trong lớp học
Mô hình này yêu cầu giáo viên nghiên cứu sử dụng các phương pháp dạy học
của bản thân. Tức là mỗi giáo viên xác đinh các vấn đề nghiên cứu, tiến hành thu thập
phân tích số liệu và thực hiện thay đổi phương pháp. Khi thực hiện thay đổi phương
pháp lại tiến hành thu thập dữ liệu mới để so sánh đánh giá. Mô hình này dựa trên
quan điểm một giáo viên giỏi là phải có khả năng soi rọi đánh giá hiệu quả công việc
của chính mình. Mô hình này có thể được thực hiện do một hoặc một nhóm giáo viên
cùng chuyên môn thực hiện. Hiệu quả của mô hình này phụ thuộc vào việc thu thập số
liệu cho việc xây dựng các phương pháp mới có chính xác hay không.

Mô hình tập huấn
Giáo viên tham dự các lớp tập huấn theo: nhu cầu của bản thân hoặc yêu cầu
của tổ chức/người quản lý để phát triển năng lực chuyên môn, nghiệp vụ đáp ứng yêu
cầu mới của hoạt động dạy học và giáo dục.
Hoạt động tập huấn cho giáo viên có thể được thực hiện theo những hình thức
khác nhau: tập huấn đại trà, tập huấn cho nhóm giáo viên; tập huấn tập trung hoặc tập
huấn tại cơ sở giáo dục.
Mô hình mạng lưới giáo viên trong hướng dẫn đồng nghiệp
Mạng lưới của các giáo viên tạo điều kiện cho các giáo viên xích lại gần nhau
để giải quyết các vấn đề mà họ gặp phải trong công việc, và nhờ đó có thể phát triển
được sự nghiệp riêng của mỗi người với tư cách là các cá nhân hay với tư cách là
nhóm giáo viên. Các mạng lưới này có thể được tạo ra một cách tương đối không
chính thức thông qua các cuộc họp thường kì giữa các giáo viên; hoặc chính thức
thông qua việc thiết lập các mối quan hệ, giao tiếp và hội thoại.
Ở nước ta, những năm gần đây mô hình mạng lưới giáo viên cốt cán được áp
dụng khá rộng rãi nhờ vào dự án tài trợ của Intel đã phát huy vai trò của những giáo
25


×