Tải bản đầy đủ (.pdf) (47 trang)

Đề án: Nâng cao chất lượng thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra, xét xử các vụ án hình sự ở Viện kiểm sát nhân dân thị xã Bỉm Sơn, tỉnh Thanh hóa giai đoạn 2017-2020

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (571.73 KB, 47 trang )

Phần 1. MỞ ĐẦU
1.1 Lý do lựa chọn đề án
Cải cách tư  pháp luôn được Đảng và Nhà nước ta đặc biệt quan tâm. Bộ 
chính trị  đã ban hành nhiều Chỉ  thị, Nghị  quyết, trong đó có Nghị  quyết Trung  
ương số  08/NQ­TW ngày 02/01/2002 về  một số  nhiệm vụ  cấp bách trọng tâm 
công tác tư pháp trong thời gian tới và Nghị quyết số 49­NQ­TW ngày 02/08/2005 
về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020. Định hướng chỉ đạo trọng tâm là 
cải cách một bước cơ  bản, toàn diện hoạt động điều tra, kiểm sát và xét xử.  
Nâng cao chất lượng, hiệu quả  đấu tranh phòng chống và xử  lý tội phạm, góp  
phần giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, bảo vệ và tạo môi trường 
đầu tư thuận lợi, phát triển kinh tế, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất 
nước.
Trong những năm qua Viện Kiểm Sát nhân dân thị  xã Bỉm Sơn có nhiều đổi 
mới trong công tác chỉ đạo, điều hành, tạo sự chuyển biến rõ nét trong công tác  
chuyên môn nghiệp vụ. Vai trò công tố  được đề  cao, trách nhiệm công tố  được  
tăng cường. Hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra, xét xử các  
vụ án hình sự đã nâng cao chất lượng và hiệu quả, góp phần cùng các cơ quan tố 
tụng trong  hoàn thành tốt nhiệm vụ đấu tranh chống tội phạm. Cơ quan cảnh sát 
điều tra Công an thị xã Bỉm Sơn đã khởi tố  điều tra bình quân 100 vụ  án/150 bị 
can mỗi năm. Cùng với đó, phát sinh hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm 
sát điều tra tất cả các vụ  án đã khởi tố, xử lý đảm bảo đúng quy định của pháp  
luật.
Nhìn chung 5 năm gần đây[2011­2016], ba cơ quan tố tụng thị xã Bỉm Sơn đã  
giải quyết, xử lý gần 500 vụ án/ 700 bị cáo đều đảm bảo đúng qui định của luật 
tố  tụng, đúng nội dung bản chất của vụ án.Trong đó có vai trò thực hành quyền 
công tố và kiểm sát điều tra, xét xử của Viện kiểm sát nhân dân thị xã Bỉm Sơn,  

1


đã góp phần giữ vững ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội trên địa bàn thị xã, 


góp phần phát triển kinh tế xã hội trên địa bàn.
 Bên cạnh những kết quả tích cực đã đạt được,Viện kiểm sát nhân dân thị xã 
Bỉm Sơn còn bộc lộ một số hạn chế, thiếu sót trong hoạt động chuyên môn như: 
vẫn còn tình trạng chưa kiểm sát chặt chẽ, kịp thời việc tiếp nhận, giải quyết tố 
giác, tin báo tội phạm, phê chuẩn bắt khẩn cấp, gia hạn tạm giữ, sau đó phải 
chuyển xử  lý hành chính hoặc trả  tự  do, do hành vi chưa cấu thành tội phạm,  
việc truy tố  còn thiếu sót dẫn đến có vụ  án phải trả  hồ  sơ  điều tra bổ  sung, 
nhiều vụ  án kéo dài thời hạn giải quyết, còn để  xảy ra một số  trường hợp sai  
chưa kịp phát hiện những vi phạm trong hoạt động tư  pháp để  kháng nghị, kiến 
nghị  yêu cầu khắc phục….Tình trạng hạn chế  trên đây vẫn còn xảy ra  ở  Viện  
kiểm sát nhân dân thị xã Bỉm Sơn .
Trong giai đoạn cải cách tư pháp hiện nay, với vị trí, vai trò thực hành quyền 
công tố  và kiểm sát điều tra, xét xử các vụ  án hình sự  mà pháp luật đã giao cho 
ngành kiểm sát nói chung, Viện kiểm sát nhân dân thị xã Bỉm Sơn nói riêng, đang 
phải gánh vác một nhiệm vụ nặng nề là cùng các cơ  quan bảo vệ pháp luật xử 
lý, giải quyết các vụ án hình sự. Hạn chế tối đa những sai sót, vi phạm trong quá 
trình tác nghiệp tránh bỏ lọt tội phạm, làm oan người vô tội.
 1.2. Mục tiêu của đề án
Mục tiêu chính của đề  tài là “Nâng cao chất lượng thực hành quyền công tố 
và kiểm sát điều tra, xét xử  các vụ  án hình sự   ở  Viện kiểm sát nhân dân thị  xã  
Bỉm Sơn, tỉnh Thanh hóa giai đoạn 2017­2020”.
Để  thực hiện thành công và có hiệu quả  chất lượng đề  tài này, đặt ra mục  
tiêu cụ thể như sau:
­ Phát hiện, chấn chỉnh kịp thời các vi phạm trong hoạt động điều tra, truy tố, 
xét xử và thi hành án, không để  xảy ra quá hạn giam giữ, đình chỉ  điều tra, đình  
chỉ vụ án do không phạm tội, truy tố đúng người đúng tội, đúng Pháp luật.

2



­ Ngăn chặn kịp thời những trường hợp xâm phạm đến các quyền của công  
dân, không bỏ lọt tội phạm, không làm oan người vô tội, khắc phục tình trạng để 
án tồn đọng, kéo dài thời hạn giải quyết.
­ Thông qua thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động điều tra, xét xử, 
Viện kiểm sát nhân dân thị  xã Bỉm Sơn tham mưu, đề  xuất với cấp  ủy sở  tại, 
chính quyền địa phương có giải pháp nâng cao chất lượng hiệu quả  đấu tranh 
phòng chống tội phạm.
Đây là trách nhiệm chính trị  lớn của Viện kiểm sát nhân dân thị  xã Bỉm Sơn  
trước Đảng, chính quyền và nhân dân trong thị xã, phấn đấu từ  năm 2017– 2020 
hoạt động thực hành quyền công tố  và kiểm sát điều tra, xét xử  án hình sự  tại 
Viện kiểm sát nhân dân thị xã Bỉm Sơn đạt chất lượng về trình độ, kỹ năng thao  
tác chuyên môn nghiệp vụ  đạt 95% trở  lên, đáp  ứng yêu cầu cải cách tư  pháp 
thực hiện quản lý Nhà nước bằng Pháp luật. 
1.3 Nhiệm vụ của đề án
1.3.1 Thực hiện nghị quyết của Bộ chính trị
Bộ  chính trị  đã ban hành nhiều Chỉ  thị, Nghị  quyết, trong đó có Nghị  quyết  
Trung ương số 08/NQ­TW ngày 02/01/2002 về một số nhiệm vụ cấp bách trọng  
tâm   công   tác   tư   pháp   trong   thời   gian   tới   và   Nghị   quyết   số   49­NQ­TW   ngày  
02/08/2005 về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020.
1.3.2 Thực hiện chức năng, nhiệm vụ của ngành
Chức năng, nhiệm vụ  của ngành Kiểm sát là Thực hành quyền công tố  và 
kiểm sát hoạt động tư pháp.
1.3.3 Thực hiện nhiệm vụ chính trị của địa phương
Ngăn chặn kịp thời những trường hợp xâm phạm  đến pháp luật hình sự, 
không bỏ lọt tội phạm, không làm oan người vô tội. Thông qua thực hành quyền 
công tố  và kiểm sát hoạt động điều tra, xét xử, Viện kiểm sát nhân dân thị  xã  
Bỉm Sơn tham mưu, đề xuất với cấp ủy sở tại, chính quyền địa phương có giải 
pháp nâng cao chất lượng hiệu quả  đấu tranh phòng chống tội phạm. Đây là  

3



trách nhiệm chính trị lớn của Viện kiểm sát nhân dân thị xã Bỉm Sơn trước Đảng,  
chính quyền và nhân dân trong thị xã, phấn đấu từ năm 2017 – 2020.
1.3.4 Thực hiện nghị quyết của chi bộ, chỉ tiêu nghiệp vụ của đơn vị đề 
ra.
Thực hiện tốt nghị quyết của chi bộ đề ra trong việc đấu tranh phòng, chống  
tội phạm. Phấn đấu thực hiện bằng và vượt chỉ tiêu nghiệp vụ của đơn vị đề ra  
trong từng thời kỳ.
1.4. Giới hạn của đề án
1.4.1 Phạm vi đối tượng 
     Là hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra,xét xử  các vụ án 
hình sự, được tổ chức triển khai thực hiện cho chính đơn vị Viện kiểm sát nhân  
dân thị xã Bỉm Sơn nhằm nâng cao chất lượng thực hành quyền công tố và kiểm 
sát điều tra, xét xử  án hình sự  để  đáp  ứng yêu cầu cải cách tư  pháp nhằm nâng 
cao vị thế của ngành kiểm sát trong hoạt động tố tụng, đề án này được triển khai 
trên toàn đơn vị Viện kiểm sát nhân dân thị xã Bỉm Sơn, tỉnh Thanh Hóa, tất cả từ 
cán bộ  nghiệp vụ, kiểm tra viên, kiểm sát viên, người giữ  trọng trách như  viện  
trưởng, phó viện trưởng đều phải tiếp tục học tập rèn luyện về trình độ kỹ năng 
công tác kiểm sát nói chung,  vì trong các khâu kiểm sát thì thực hành quyền công  
tố  và kiểm sát điều tra, kiểm sát xét xử  án hình sự  là khâu mũi nhọn của hoạt  
động kiểm sát.
1.4.2 Không gian
Đề án Nâng cao chất lượng thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra, xét 
xử các vụ án hình sự được triển khai thực hiện trong phạm vi địa bàn thị  xã Bỉm  
Sơn do đội ngũ Cán bộ, Kiểm sát viên, Kiểm tra viên, lãnh đạo của đơn vị  trực 
tiếp thực hiện.
1.4.3 Thời gian thực hiện đề án
Quá trình triển khai thực hiện đề án, lãnh đạo đơn vị Viện kiểm sát nhân dân 
thị xã Bỉm Sơn phải có tổ chức họp rút kinh nghiệm kết quả thực hiện hằng năm 


4


nhằm tìm ra những  ưu điểm đã đạt được trong quá trình hoạt động chuyên môn  
nghiệp vụ  để  phát huy, đồng thời cũng rút ra được những thiếu sót, tồn tại, 
vướng mắc, từ  đó rút ra ở nguyên nhân chủ quan và khách quan, đề có biện pháp 
thảo luận, bàn bạc, khắc phục  để các năm sau của quá trình thực hành đề  án có 
chất lượng hiệu quả  tốt hơn năm trước. Từ  cơ  sở  thực tiễn đó, đơn vị  tổ  chức 
tổng kết thực tiễn thực hiện đề  án triển khai từ  đầu năm 2017 và kết thúc  vào 
năm 2020. 
                                            Phần 2. NỘI DUNG
      2.1 Căn cứ xây dựng đề án
2.1.1 Căn cứ khoa học, lý luận   
2.1.1.1 Căn cứ khoa học 
Các khái niệm thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra, xét xử hình sự
    * Khái niệm thực hành quyền công tố
Thực hành quyền công tố  giai đoạn điều tra, xét xử  là hoạt động của Viện  
kiểm sát nhân dân trong tố tụng hình sự để thực hiện việc buộc tội của nhà nước 
đối với người phạm tội, được thực hiện trong giai đoạn điều tra, xét xử phát sinh 
từ khi thụ lý giải quyết tố giác tin báo tội phạm, kiến nghị khởi tố đến khởi tố,  
điều tra và trong suốt quá trình khởi tố, điều tra và xét xử vụ án hình sự.
* Khái niệm kiểm sát điều tra hình sự
Kiểm sát điều tra các vụ án hình sự là hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân 
tuân theo pháp luật của các chủ  thể tham gia quan hệ pháp luật tố  tụng hình sự 
phát sinh trong giai đoạn điều tra, nhằm đảm bảo cho quá trình điều tra khách  
quan, toàn diện, đầy đủ  của những vi phạm pháp luật, trong quá trình diều tra  
phải được phát hiện, khắc phục.
* Khái niệm kiểm sát xét xử vụ án hình sự


5


Kiểm sát xét xử  vụ  án hình sự  là hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân  
nhằm kiểm sát tuân theo pháp luật của các chủ thể tham gia quan hệ pháp luật tố 
tụng hình sự phát sinh trong giai đoạn xét xử vụ án, nhằm đảm bảo cho quá trình  
xét xử vụ án được khách quan toàn diện
Từ  các khái niệm nêu trên, các giai đoạn thực hành quyền công tố, kiểm sát 
điều tra và kiểm sát xét xử được phân định như sau:
­ Giai đoạn thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra. Giai đoạn này theo 
quy định của Bộ Luật tố tụng hình sự thì hoạt động  hành quyền công tố và kiểm  
sát điều tra được phát sinh từ cơ quan cảnh sát điều tra quyết định thụ lý tố giác 
tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố, các hoạt động bắt, tạm giữ hình sự cho  
đến quyết định khởi tố  vụ  án, khởi tố  bị  can, tạm giam bị  can, cho đến khi cơ 
quan kết thúc điều tra bằng bản kết luận điều tra kèm theo vụ án chuyển đề nghị 
Viện kiểm sát truy tố bị can bằng một tội danh cụ thể.
­ Giai đoạn thực hành quyền công tố  và kiểm sát xét xử  vụ  án hình sự, phát 
sinh từ  khi Viện kiểm sát đã có quyết định truy tố  bằng bản cáo trạng chuyển  
theo hồ  sơ  sang Tòa án để  xét xử  theo thẩm quyền, Tòa án thụ  lý đến khi tiến  
hành xét xử và bản án có hiệu lực pháp luật.
Thực hành quyền công tố  và chức năng kiểm sát là hai chức năng hoàn toàn  
độc lập của Viện kiểm sát, được phân định rõ ràng tại các điều 23 Bộ  luật tố 
tụng hình sự  quy định nhiệm vụ  quyền hạn của Viện kiểm sát khi thực hiện 
quyền công tố  và kiểm sát tuân theo pháp luật trong quá trình giải quyết các vụ 
án hình sự. Trong hai chức năng hoàn toàn độc lập này đều do Viện kiểm sát tiến  
hành và luôn gắn bó với nhau.
Khi một vụ  án hình sự  xảy ra, từ  giai đoạn tiếp nhận tin tố  giác tội phạm,  
khởi tố  điều tra, xét xử  thì Viện kiểm sát đồng bộ  phải thực hiện cả  hai chức  
năng này.
Quyền công tố là quyền đại diện cho Nhà nước truy cứu trách nhiệm hình sự 

đối với người có hành vi phạm tội. Phạm vi quyền công tố  bắt đầu từ  khi tội  

6


phạm xảy ra và tiếp diễn suốt từ khởi tố, điều tra đến truy tố bị can ra tòa tranh 
tụng tại phiên tòa và kết thúc bằng bản án có hiệu lực pháp luật. Thực hành 
quyền công tố   ở  Việt Nam chúng ta căn cứ  vào các quy định của Hiến pháp và 
pháp luật và thực tiễn từ  trước tới nay được giao cho duy nhất Viện kiểm sát. 
Vậy chủ thể thực hành quyền công tố ở Việt nam là Viện kiểm sát nhân dân.
Như  vậy chức năng này cũng phát sinh bắt đầu từ  khi phát sinh tố  tụng cho 
đến khi vụ án được đưa ra xét xử, án có hiệu pháp luật. Trách nhiệm của Viện  
kiểm sát có nhiệm vụ  giám sát hoạt động của cơ  quan điều tra từ  khi thụ  lí tin 
báo tố giác tội phạm, khởi tố điều tra vụ án, kiểm sát hoạt động xét xử của Tòa 
án từ khi Viện kiểm sát quyết định truy tố bị can bằng cáo trạng chuyển sang tòa 
án để  xét xử  cho đến khi án có hiệu lực, kiểm sát hoạt động của những người 
tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng. Nếu phát hiện vi phạm sẽ sử dụng  
thẩm quyền do pháp luật quy định để điều chỉnh.
 2.1.1.2 Căn cứ lý luận
Tiêu chí đánh giá chất lượng thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra xét 
xử các vụ án hình sự được xác định như sau:
­ Để nâng cao chất lượng thực hành quyền công tố, kiểm sát, điều tra, xét xử 
các vụ án hình sự còn được đánh giá bằng việc thực hiện có hiệu quả các chỉ tiêu 
kế hoạch được giao. Các chỉ tiêu kế hoạch đó đều được thảo luận bàn bạc để đi 
đến xây dựng kế hoạch công tác từng năm của đơn vị trên cơ sở bám sát chỉ tiêu  
kế hoạch của ngành như: phấn đấu 100% án kiểm sát điều tra kết thúc trong thời  
hạn luật định, truy tố 100% án kết thúc điều tra đề nghị truy tố, không có án cải 
sửa, không có án bị hủy, không có án khởi tố sau đó phải đình chỉ do bị can không 
phạm tội, giảm đến mức tối thiểu án quá hạn, án trả  hồ  sơ  điều tra bổ  sung, 
không có oan, sai trong hoạt động công tố, kiểm sát điều tra xử  vụ  án hình sự,  

trong năm không có  kiểm sát  viên  để   thiếu  sót  trong hoạt  động chuyên  môn  
nghiệp vụ… Các tiêu chí phê chuẩn bắt giam đều đúng luật định …Kịp thời phát  
hiện sai sót của cơ quan tố tụng và có kiến nghị, kháng nghị hiệu quả, đây là tiêu 

7


chí hết sức quan trọng để  đánh giá chất lượng hoạt động thực hàh quyền công 
tố, kiểm sát điều tra, xét xử trong năm.
­ Khai thác tối ưu nhất mối quan hệ phối hợp giữa các cơ quan cảnh sát điều 
tra, tòa án thị xã để nhằm thực hiện có hiệu qua chức năng công tố và chức năng 
kiểm sát trong cả hai giai đoạn điều tra và xét xử.
Với cơ  quan cảnh sát điều tra công an thị  xã, trên cơ  sở  hoạt động độc lập  
theo pháp luật của từng ngành, còn phải mở  ra quan hệ phối hợp, bàn bạc, giải  
quyết, xử  lý những vụ  việc phức tạp trên cơ  sở  tạo điều kiện cùng hoàn thành  
nhiệm vụ.
Với cơ  quan tòa án là cơ  quan xét xử, viện kiểm sát hoạt động công tố  và 
kiểm sát xét xử độc lập theo pháp luật nhưng không ngừng quan hệ phối hợp để 
bàn biện pháp giải quyết những vụ việc khó, phức tạp.
Việc khai thác tối  ưu quan hệ  phối hợp 3 ngành tố  tụng trong huyện tốt thì  
chất lượng thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra, xét xử  các vụ  án hình  
sự cũng được nâng cao.
­ Kiểm sát viên được phân công làm nhiệm vụ thực hành quyền công tố, kiểm  
sát điều tra, xét xử phải có trách nhiệm bám sát diễn biến hoạt động điều tra, xét 
xử  để  kịp thời phát hiện thiếu sót để  yêu cầu thực hiện đúng luật nhất là giai  
đoạn điều tra, kiểm sát viên phải theo sát điều tra viên để  kịp thời chỉ  đạo điều 
tra tránh sai sót cũng như thiếu tinh thần trách nhiệm trong điều tra.
2. 1.2 Căn cứ  chính trị, pháp lý:
2.1.2.1 Căn cứ chính trị: 
a. Hệ  thống các quan điểm của Đảng về  vai trò của ngành kiểm sát 

trong thực hành quyền cồng tố và kiểm sát điều tra, xét xử  các vụ  án hình 
sự.
Ngày 02/01/2002, Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết số 08­NQ/TW về một số 
nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới. Tiếp đó ngày 25/4/2005,  
Bộ  Chính trị  ban hành Nghị  quyết số  48 về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện 

8


hệ  thống pháp luật Việt Nam đến 2010, định hướng đến năm 2020. Nghị  quyết 
số  49 về Chiến lược caỉ cách tư  pháp đến năm 2020 và Kết luận số  79­KL/TW  
ngày 28/7/2010 của Bộ chính trị  theo tinh thần nghị quyết 49 vẫn giữ nguyên vị 
trí vai trò của ngành kiểm sát như  hiện nay. Với 03 nghị quyết trên, Bộ Chính trị 
đã xác định các định hướng quan trọng, toàn diện cho Chiến lược cải cách tư 
pháp đến 2020 và việc xây dựng hệ  thống pháp luật Việt Nam. Trong đó, Nghị 
quyết   số   49   xác   định:   Trước   mắt   VKSND   giữ   nguyên   chức   năng   thực   hành  
quyền công tố  và kiểm sát hoạt động tư  pháp. VKSND được tổ  chức phù hợp  
với tổ chức của tòa án và tăng cường trách nhiệm công tố trong trong hoạt động  
điều tra.
Trong quá trình thực hiện cải cách tư pháp, VKSND đã là cơ quan đi đầu, thực 
hiện có hiệu quả  việc đổi mới sâu rộng cả về  mặt tổ  chức hoạt động, đội ngũ 
cán bộ, KSV đến phương pháp, phương châm thực hiện, đóng góp một phần 
quan trọng vào thành quả chung của sự nghiệp đổi mới của đất nước.
Nhằm không ngừng nâng cao chất lượng, hiệu quả của các khâu công tác và 
tổ  chức hoạt động của ngành Kiểm sát, đáp  ứng yêu cầu cải cách tư  pháp của 
Đảng và Nhà nước, trong nhiều năm qua,Viện trưởng VKSNDTC đã ban hành  
nhiều Chỉ thị quán triệt VKSND các cấp tổ chức triển khai thực hiện nghiêm chủ 
trương cải cách tư  pháp như: Các Chỉ  thị  về  thực hiện nhiệm vụ công tác hằng 
năm của ngành Kiểm sát, Chỉ  thị  số  03/2008/CT­VKSTC­VPT1 ngày 19/6/2008  
về tăng cường công tác kháng nghị phúc thẩm hình sự, Chỉ thị số 04/CT­VKSTC­

VPT1 ngày 17/5/2012 về tăng cường công tác kháng nghị phúc thẩm dân. Chỉ thị 
số 06/CT­VKSTC ngày 05/11/2012 về tăng cường công tác thống kê và ứng dụng  
công nghệ  thông tin, Chỉ  thị  số  04/CT­VKSTC ngày 14/8/2013 về  tăng cường 
công tác thanh tra, Chỉ  thị  số  06/CT­ VKSTC ngày 06/12/2013 về  tăng cường 
trách nhiệm công tố  trong hoạt động điều tra, gắn công tố  với hoạt động điều 
tra, Chỉ  thị  số  05/CT­ VKSTC­ TTr ngày 31/3/2014 về  tăng cường kỉ  cương, kỉ 
luật công vụ và trật tự nội vụ, Chỉ thị số 08/CT­VKSTC ngày 16/10/2014 về đổi  

9


mới nâng cao chất lượng công tác thi đua, khen thưởng...Ngoài ra, để  thực hiện 
tốt nhiệm vụ của ngành, Viện trưởng Viện Kiểm Sát Nhân Dân Tối Cao đã ban 
hành hệ thống các quy chế về hoạt động nghiệp vụ, thanh kiểm tra, thi đua khen  
thưởng, xây dựng ngành... 
Đặc biệt thời gian vừa qua, diễn ra một sự  kiện chính trị  quan trọng của 
ngành đó là Luật tổ  chức Viện Kiểm Sát Nhân Dân sửa đổi đã được Quốc hội 
khóa XIII, kì họp thứ 8 thông qua ngày 21/11/2014. Với 6 chương 101 điều. Luật 
tổ chức Viện Kiểm Sát Nhân Dân năm 2014 tiếp tục khẳng định rõ hơn vị trí của  
Viện Kiểm Sát Nhân Dân là thiết chế  hiến định trong bộ  máy Nhà nước, có  
nhiệm vụ bảo vệ Hiến pháp và pháp luật, bảo vệ quyền con người, quyền công 
dân, bảo vệ pháp chế XHCN. Đây là một dự án luật công phu, khoa học, phù hợp  
thực tiễn, đáp ứng được yêu cầu cải cách tư pháp, đổi mới tổ chức, kiện toàn bộ 
máy, nâng cao chất lượng mọi hoạt động của ngành kiểm sát.
b. Nội dung, biện pháp thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra, xét 
xử các vụ án hình sự
Nội dung biện pháp thực hành quyền công tố và điều tra, xét xử án hình sự tại  
Viện Kiểm Sát Nhân Dân cấp huyện, thị  cũng được cụ  thể  hóa tại Bộ  luật tố 
tụng hình sự, luật tổ  chức Viện Kiểm Sát Nhân Dân, các quy chế  của Viện 
Kiểm Sát Nhân Dân Tối Cao, các thông tư liên ngành.

2.1.2.2. Căn cứ pháp lý: 
a. Nhiệm vụ quyền hạn của Viện Kiểm Sát Nhân Dân cấp huyện, thị
Viện kiểm sát nhân dân thực hành quyền công tố  và kiểm sát việc tuân thủ 
Pháp luật trong tố tụng hình sự.
­ Viện kiểm sát thực hành quyền công tố  trong tố  tụng hình sự, quyết định  
việc truy tố người phạm tội ra trước Tòa án.
­ Viện kiểm sát, kiểm sát việc tuân thủ  theo Pháp luật trong tố  tụng hình sự 
có trách nhiệm phát hiện kịp thời vi phạm pháp luật của cơ  quan tiến hành tố 
tụng, người tiến hành tố  tụng và người tham gia tố  tụng, áp dụng những biện  

10


pháp do Bộ luật tố tụng hình sự quy định để loại trừ việc vi phạm pháp luật của 
những cơ quan hoặc cá nhân này.
Viện kiểm sát thực hành quyền công tố  và kiểm sát việc tuân theo pháp luật 
trong tố tụng hình sự nhằm bảo đảm mọi hành vi phạm tội đều phải được xử lý  
kịp thời, việc khởi tố  điều tra truy tố, xét xử  thi hành án đúng người đúng tội, 
đúng pháp luật, không để lọt tội phạm và người phạm tội, không làm oan người 
vô tội (Điều 23 Bộ luật tố tụng hình sự).
* Viện kiểm sát thực hành quyền công tố nhằm bảo đảm:
­ Mọi hành vi phạm tội, người phạm tội phải được phát hiện, khởi tố  điều  
tra, truy tố, xét xử  kịp thời, nghiêm minh, đúng người đúng tội, đúng Pháp luật, 
không làm oan người vô tội, không để lọt tội phạm và người phạm tội.
­ Không để người nào bị khởi tố, bị bắt tạm giữ, tạm giam, bị hạn chế quyền  
con người, quyền công dân trước Pháp luật.
­ Khi thực hiện chức năng thực hành quyền công tố, Viện kiểm sát nhân dân 
có nhiệm vụ, quyền hạn sau đây:
+ Yêu cầu khởi tố, hủy bỏ  quyết định khởi tố  hoặc không khởi tố  vụ  án 
trước pháp luật, phê chuẩn, không phê chuẩn quyết định khởi tố  bị  can của cơ 

quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra, 
trực tiếp khởi tố  vụ  án, khởi tố  bị  can trong những trường hợp do Bộ  luật tố 
tụng hình sự quy định.
+ Quyết định phê chuẩn việc áp dụng, thay đổi, hủy bỏ  các biện pháp hạn  
chế  quyền con người, quyền công dân trong việc giải quyết tố  giác, tin báo về 
tội phạm, kiến nghị khởi tố và trong việc khởi tố, điều tra truy tố theo quy định 
của Bộ luật tố tụng hình sự.
+ Hủy bỏ  các quyết định tố  tụng trước pháp luật khác trong việc giải quyết  
tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố và trong việc khởi tố, điều tra của 
cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều 
tra.

11


+ Khi cần thiết đề  ra yêu cầu điều tra và yêu cầu cơ  quan điều tra, cơ  quan  
được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra thực hiện.
+ Yêu cầu cơ  quan điều tra, tổ  chức, cá nhân hữu quan cung cấp tài liệu để 
làm rõ tội phạm, người phạm tội.
+ Trực tiếp giải quyết tố  giác, tin báo về  tội phạm, kiến nghị  khởi tố, tiến  
hành một số hoạt động điều tra làm rõ căn cứ, quyết định việc buộc tội đối với 
người phạm tội.
+ Điều tra các tội phạm xâm phạm hoạt động tư pháp, các tội phạm về tham 
nhũng, chức vụ xảy ra trong hoạt động tư pháp theo quy định của Pháp luật.
+ Quyết định áp dụng thủ tục rút gọn trong quá trình điều tra, truy tố.
+ Quyết định việc truy tố, buộc tội bị cáo tại phiên tòa.
+ Kháng nghị bản án, quyết định của Tòa án trong trường hợp viện kiểm sát  
nhân dân phát hiện oan, sai, bỏ lọt tội phạm, người phạm tội.
+ Thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn khác trong việc buộc tội đối với người 
phạm tội theo quy định của Bộ  luật hình sự  (Điều 3 – Luật tổ  chức Viện kiểm  

sát nhân dân – 2014)
b. Trình tự thủ tục thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra, xét xử 
các vụ án hình sự
* Giai đoạn thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra
Giai đoạn này được phát sinh từ  khi cơ  quan cảnh sát điều tra công an thị 
quyết định thụ  lý tố  giác và tin báo về  tội phạm, trình tự  của các giai đoạn này  
như sau:
 + Thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tiếp nhận giải quyết tin báo, tố 
giác tội phạm và kiến nghị khởi tố.
Theo quy định tại điều 103 Bộ  luật tố  tụng hình sự  thì cơ  quan điều tra có 
nhiệm vụ tổ chức tiếp nhận giải quyết các tin báo, tố giác tội phạm và kiến nghị 
khởi tố  thuộc thẩm quyền. Khi Viện kiểm sát nhân dân tiếp nhận được tin báo  

12


tố  giác tội phạm phải kịp thời chuyển cho cơ quan điều tra có thẩm quyền để 
xác minh, giải quyết.
Trong trường hợp cơ quan điều tra tiếp nhận tin báo tố  giác tội phạm không  
ra quyết định giải quyết hoặc ra quyết định giải quyết nhưng không thông báo 
cho Viện kiểm sát thì lãnh đạo Viện kiểm sát phải cử  ngay kiểm sát viên đã 
được phân công tiếp nhận và giải quyết tin báo tố  giác tội phạm kiểm sát chặt 
chẽ tính có căn cứ của tin báo đó. Viện kiểm sát phải chủ động, không được thụ 
động ngồi chờ, quan hệ phối hợp để  phân loại quyết tố  giác tin báo, tố  giác tội  
phạm phải được thực hiện thường xuyên giữa cơ  quan điều tra và Viện kiểm 
sát. Đối với những việc phức tạp cần có ý kiến chỉ đạo của lãnh đạo mỗi ngành 
tố tụng trong thị xã.
+ Thực hành quyền công tố và kiểm sát việc khởi tố vụ án hình sự:
Theo quy định tại điều 109 Bộ luật tố tụng hình sự, Viện kiểm sát thực hành 
quyền công tố  và kiểm sát việc tuân theo pháp trong việc khởi tố vụ án hình sự 

của cơ  quan điều tra, viện kiểm sát có quyền ra quyết định hủy bỏ  quyết định 
khởi tố vụ án không có căn cứ của cơ quan điều tra và ra quyết định không khởi 
tố vụ án hình sự hoặc Viện kiểm sát ra quyết định hủy bỏ quyết định không khởi 
tố vụ án của cơ quan điều tra, nếu quyết định không khởi tố án hình sự, không có  
căn cứ và ra quyết định khởi tố vụ án hình sự  giao cho cơ  quan điều tra để  tiến  
hành điều tra.
Do đó khi được phân công kiểm sát việc khởi tố vụ án hình sự, kiểm sát viên 
phải kiểm sát chặt chẽ  việc gửi kịp thời quyết định khởi tố, quyết định không 
khởi tố vụ án hình sự của cơ quan điều tra, tránh tình trạng là vụ án đã được khởi 
tố nhưng cơ quan điều tra không gửi kịp cho Viện kiểm sát, cơ quan điều tra chỉ 
gửi khi cần có sự phê chuẩn quyết định khởi tố bị can hoặc khi cần thiết phải có 
sự phê chuẩn lệnh tạm giam bị can…
+ Thực hành quyền công tố và kiểm sát khởi tố bị can:

13


Theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự 2003 thì nhiệm vụ, quyền hạn của 
Viện kiểm sát ở đây chủ yếu là xét phê chuẩn hoặc không phê chuẩn quyết định  
khởi tố bị can của cơ quan điều tra (Điều 126 Khoản 4 Bộ luật tố tụng hình sự).  
Với việc quy định thẩm quyền phê chuẩn quyết định khởi tố  bị  can, quyết định 
thay đổi, bổ sung quyết định khởi tố bị can của cơ quan điều tra là một bảo đảm  
quan trọng các quyền dân chủ  của công dân trong tố  tụng hình sự. Quyết định 
khởi tố  bị  can có ý nghĩa hoàn toàn khác với quyết định khởi tố  vụ  án vì quyết 
định khởi tố vụ án là hoạt động khởi động để cơ quan điều tra tìm kiếm dấu vết,  
tu thập chứng cứ chưa can thiệp sâu vào quyền cơ  bản của công dân. Trong khi 
đó quyết định khởi tố  bị  can có ý nghĩa và  ảnh hưởng rất lớn đối với người bị 
khởi tố bị can có ảnh hưởng sâu sắc tới sinh mạng chính trị, tới hình ảnh của bị 
can trong đời sống xã hội, tới tâm lý, tình cảm của người bị khởi tố. Chính vì vậy  
mà Pháp luật đã giao quyền phê chuẩn quyết định khởi tố bị can cho Viện kiểm  

sát và đó cũng là giao quyền quyết định cuối cùng cho viện kiểm sát đối với có 
khởi tố hay không khởi tố một công dân, mặc dù quyết định đó do cơ  quan điều  
tra ban hành. Việc giao thẩm quyền phê chuẩn quyết định khởi tố  bị  can cho  
Viện kiểm sát nhằm đảm bảo việc khởi tố một công dân phải có căn cứ và đúng 
Pháp luật. Do đó khi nhận được quyết định khởi tố bị can và tài liệu có liên quan  
của cơ  quan điều tra chuyển sang kiểm sát viên, chuyên viên được phân công 
phải nghiên cứu tài liệu, kiểm sát chặt chẽ tính có căn cứ và hợp pháp của quyết  
định, quyết định khởi tố bị can. Tính có căn cứ của quyết định khởi tố bị can phải 
được phản ánh đầy đủ  trong tài liệu gửi kèm, kiểm sát viên được phân công  
không được chỉ kiểm tra tính có căn cứ nêu trong quyết định khởi tố bị can. Tính  
có căn cứ nêu trong quyết định khởi tố bị can của cơ quan điều tra chỉ có giá trị so 
sánh, khi tính có căn cứ được phản ánh trong các tài liệu gửi kèm.
Tính có căn cứ của quyết định khởi tố bị can được thể hiện qua những chững  
cứ  có trong tài liệu gửi kèm, khẳng định chính bị  can là người đã thực hiện,  
người đã thực hiện hành vi phạm tội trong vụ  án và người thực hiện hành vi 

14


phạm tội đủ  tuổi chịu trách nhiệm hình sự đối với tội đó (Điều 12 Bộ  luật hình 
sự)
Tính hợp pháp của quyết định khởi tố bị can thể hiện ở thủ tục ra quyết định 
và hình thức quyết định khởi tố bị can. Một quyết định khởi tố bị can phải ghi rõ  
ngày, tháng, năm, địa điểm ra quyết đinh, họ  tên, chức vụ  người ra quyết định, 
dấu của cơ  quan ra quyết định, họ  tên, ngày tháng năm sinh, nghề  nghiệp, hoặc  
hoàn cảnh gia đình của bị can, bị can bị khởi tố vì tội gì, theo điều khoản nào của  
Bộ luật hình sự, thời gian và địa điểm phạm tội và những tình tiết khác…
Kiểm sát viên được phân công thực hành quyền công tố  và kiểm sát điều tra 
cần phải nhận thấy, nếu quyết định khởi tố  bị  can thỏa mãn hai điều kiện kiện  
trên thì kiểm sát viên làm báo cáo nói rõ tính có căn cứ và tính hợp pháp của quyết  

định khởi tố bị can  và đề xuất lãnh đạo yêu cầu cơ quan cảnh sát điều tra thị xã  
ra quyết định đúng theo quy định của Pháp luật. Sau khi cơ  quan điều tra đã đáp 
ứng đúng yêu cầu của Viện kiểm sát thì kiểm sát viên làm đề xuất đề  nghị lãnh 
đạo viện phê chuẩn quyết định khởi tố bị can.
Trong vòng 24h, kể từ khi ra quyết định hoặc yêu cầu Viện kiểm sát phải gửi 
cho cơ  quan điều tra để  thực hiện, đồng thời kiểm sát viên phải kiểm sát chặt 
chẽ việc thực hiện các quyết định và yêu cầu. Nếu cơ quan điều tra không thực 
hiện thì kiểm sát viên phải báo cáo kịp thời với lãnh đạo Viện kiểm sát để  có  
biện pháp xử lý kịp thời theo quy định của Pháp luật.
Ngoài các hoạt động nêu trên, kiểm sát viên phải kiểm sát chặt chẽ các biện 
pháp điều tra do cơ quan điều tra áp dụng đối với người bị  khởi tố trước khi có 
sự phê chuẩn của Viện kiểm sát. Trước khi có sự phê chuẩn quyết định khởi tố 
bị can, cơ quan điều tra chỉ có quyền áp dụng một biện pháp duy nhất đó là tiến 
hành hỏi cung bị  can ngay sau khi có quyết định khởi tố  bị  can, các biện pháp  
điều tra khác mà Pháp luật quy định, chỉ áp dụng đối với bị can như áp giải bị can  
(Điều 130 Bộ  luật tố  tụng hình sự) ra lệnh bắt bị  can để  tạm giam, lệnh tạm  
giam…(các Điều 80, 88, 91, 92, 93, 146,…Bộ luật tố  tụng hình sự) thì cơ  quan 

15


điều tra không được áp dụng, các biện pháp này chỉ được áp dụng khi quyết định  
khởi tố bị can đã được Viện kiểm sát phê chuẩn.
* Giai đoạn thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử vụ án hình sự:
Phạm vi thực hành quyền công tố  và kiểm sát tuân theo pháp luật trong giai  
đoạn xét xử vụ án hình sự ( xét xử sơ thẩm) được bắt đầu từ khi bản cáo trạng 
và quyết định truy tố  của Viện kiểm sát cùng hồ  sơ vụ  án đã được chuyển đến 
Tòa án cho đến khi bản án sơ thẩm có hiệu lực pháp luật.
Giai đoạn này thì vị  trí chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát 
trong việc thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử hình sự đã được quy định 

tại Mục 4 Chương II Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2014, trong giai 
đoạn xét xử  vụ  án hình sự, Viện kiểm sát nhân dân có trách nhiệm thực hành 
quyền công tố, bảo  đảm việc truy tố   đúng người,   đúng tội,  đúng pháp luật, 
không để lọt tội phạm và người phạm tội, không làm oan người vô tội, kiểm sát 
việc  xét  xử  các  vụ   án hình  sự,  nhằm  bảo  đảm việc  xét xử   đúng  pháp luật,  
nghiêm minh, kịp thời.
Theo quy định của Luật tổ chức Viện kiểm sát và các Điều 206, 207, 217 Bộ 
luật tố  tụng hình sự thì tại phiên tòa xét xử  sơ thẩm các vụ  án hình sự  thì kiểm  
sát viên phải thực hiện nhiệm vụ theo quy định cụ thể. 
Pháp luật còn quy định về nhiệm vụ  và quyền hạn của Viện kiểm sát trong  
thực hiện công tác kiểm sát  xét vụ  án hình sự. Viện kiểm sát có nhiệm vụ  và  
quyền hạn kiểm sát tuân thủ  theo pháp luật trong hoạt động xét xử  của Tòa án,  
như kiểm sát thời hạn đưa vụ án ra xét xử, thời hạn mở phiên tòa (Điều 176 Bộ 
luật tố  tụng hình sự), kiểm sát nội dung quyết định đưa vụ  án ra xét xử  (Điều  
178 Bộ luật tố tụng hình sự)…, kiểm sát việc tiến hành thủ tục tố tụng của hội  
đồng xét xử, của những người triệu tập đến phiên tòa…nếu phát hiện thấy Tòa 
án hoặc hội đồng xét xử  có vi phạm pháp luật thì kiểm sát viên phải có ý kiến  
kịp thời, kiến nghị Tòa án, hội đồng xét xử khắc phục những thiếu sót vi phạm.

16


Thực hành quyền công tố  tại phiên tòa và kiểm sát tuân theo pháp luật trong  
xét xử các vụ án hình sự là hai nhiệm vụ khác nhau nhưng chúng có mối quan hệ 
chặt chẽ với nhau, hỗ trợ nhau để cùng thực hiện tốt chức năng kiểm sát.
Trong hoạt động thực hành quyền công tố  và kiểm sát xét xử  các vụ  án hình 
sự. Có những thao tác nghiệp vụ  bằng quyết định là: Phân công, thay đổi kiểm 
sát viên thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử sơ thẩm.
Phân công kiểm sát viên thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử sơ thẩm,  
việc phân công kiểm sát viên giải quyết từng vụ án cụ thể.

Trong trường hợp kiểm sát viên phải từ  chối tiến hành tố  tụng thì quy định 
tại Điều 45 Bộ luật tố tụng hình sự, kiểm sát viên có thể  bị thay đổi nếu thuộc  
các trường hợp quy định tại Điều 42 Bộ  luật tố  tụng hình sự. Vì vậy, khi phân  
công kiểm sát viên, lãnh đạo Viện kiểm sát thị xã phải chú ý điều này: không để 
xảy ra trường hợp Tòa án hoặc những người tham gia tố tụng tại phiên tòa đề 
nghị  thay đổi kiểm sát viên. Kiểm sát viên khi được giao nhiệm vụ  thực hành  
quyền công tố và kiểm sát xét xử đối với vụ án, nếu gặp những trường hợp phải  
từ  chối tiến hành tố  tụng quy định  ở  Điều 42 Bộ  luật tố  tụng hình sự  thì phải  
chủ động báo cáo với viện trưởng hoặc phó viện trưởng phụ  trách để  cử  kiểm  
sát viên khác thay thế. Việc thay đổi kiểm sát viên (Điều 43 Bộ luật tố tụng hình  
sự) thì viện trưởng là người quyết định việc có thể thay đổi hoặc không thay đổi 
(phó viện trưởng phụ trách nêu ra quyết định phải được viện trưởng phân công). 
Nếu Viện kiểm sát ra quyết định không thay đổi kiểm sát viên thì phải có văn 
bản nói rõ về việc không thay đổi. Về  việc có mặt của kiểm sát viên tại phiên  
tòa Điều 184 Bộ  luật tố tụng hình sự quy định tại phiên tòa kiểm sát viên, viện 
kiểm sát cùng cấp phải tham gia phiên tòa. Vì vậy ngay sau khi nhận được quyết  
định đưa vụ án ra xét xử, Viện kiểm sát phải chủ động sắp xếp phân công kiểm  
sát viên tham gia phiên tòa.
Trước khi tham gia phiên tòa, kiểm sát viên phải nghiên cứu hồ sơ vụ án. Đây  
là nhiệm vụ  trọng tâm của kiểm sát viên khi được phân công thực hành quyền  

17


công tố và kiểm sát xét xử. Chỉ có nghiên cứu kỹ hồ sơ, nắm vững nội dung vụ 
án thì kiểm sát viên mới có thể  hoàn thành việc buộc tội bị  cáo trước tòa. Nếu 
không nắm vững hồ  sơ  thì chất lượng tham gia xét xử  của kiểm sát viên sẽ 
không đạt yêu cầu và không sử  dụng nhuần nhuyễn các chứng cứ  buộc tội khi 
luận tội.  Do  đó, lời buộc tội của kiểm sát viên sẽ  kém thuyết phục.  Không 
nghiên cứu kỹ hồ sơ là việc làm thiếu trách nhiệm và thường dẫn đến tình trạng  

lúng túng, bị động (thực tiễn này đã rút kinh nghiệm nhiều phiên tòa, trong nhiều  
năm, phiên tòa nào kiểm sát viên nghiên cứu kỹ hồ sơ thì chất lượng công tố đạt 
kết quả tốt và ngược lại).
Việc báo cáo của kiểm sát viên, trước khi tham gia phiên tòa, kiểm sát viên  
phải cáo báo với lãnh đạo viện về việc giải quyết vụ án, nội dung này được quy 
định tại Điều 6 quy chế kiếm sát xét xử.
+  Năm là hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử  sơ  thẩm  ở 
giai đoạn trước khi mở phiên tòa.
Chuẩn bị đề cương xét hỏi và chuẩn lời luận tội:
Trước khi tham gia phiên tòa, kiểm sát viên phải làm cho được dự  thảo, đề 
cương tham gia xét hỏi. Mục đích của việc xét hỏi là để  nhằm làm rõ hành vi  
phạm tội của bị cáo (trên cơ sở yếu tố cấu thành tội phạm và dấu hiệu đặc trưng 
của tội phạm cụ  thể).  Để  chủ  động, kiểm sát viên cần dự  kiến những tình 
huống diễn biến có thể  xảy ra tại phiên tòa như  (thái độ, tâm lý của bị  cáo, khă 
năng phản cung, thay đổi lời khai của bị  cáo so với lời khai  ở  giai đoạn điều 
tra…)
Cũng cần dự báo trước những vấn đề  mà luật sư  sẽ hỏi, sẽ nêu ra tại phiên  
tòa để chủ động, tự tin khi tranh luận.
Kiểm sát hoạt đông của Tòa án trước khi mở phiên tòa.
Ở  giai đoạn xét xử  sơ  thẩm các vụ  án hình sự, ngoài việc thực hành quyền 
công tố  kiểm sát viên còn nhiệm vụ, quyền hạn kiểm sát hoạt động xét xử  của 
Tòa án, của Hội đồng xét xử và những người tham gia tố tụng. Hoạt động kiểm 

18


sát xét xử không phải là để cản trở việc xét xử mà là tạo điều kiện cho Hội đồng 
xét xử  giải quyết vụ  án một cách đúng pháp luật, khách quan, toàn diện, bảo  
đảm việc thực hiện các quyền và nghĩa vụ của những người tham gia phiên tòa.
Do đó, để đạt được mục đích trên, khi tiến hành kiểm sát xét xử sơ thẩm các  

vụ án hình sự, kiểm sát viên phải kiểm sát chặt chẽ việc tiến hành các thủ tục tố 
tụng của Tòa án, của Hội đồng xét xử   ở  từng giai đoạn cụ  thể, kiểm sát việc 
chấp hành pháp luật của những người tham gia tố tụng.
Ngoài ra kiểm sát viên còn phải kiểm sát chặt chẽ các nội dung như: Việc áp  
dụng, thay đổi, hủy bỏ  biện pháp ngăn chặn của Tòa án (Điều 177 Bộ  luật tố 
tụng hình sự, việc chấp hành Pháp luật của Tòa án về  thời hạn chuẩn bị xét xử 
(Điều 176 Bộ luật tố tụng hình sự), nội dung quyết định mở phiên tòa (Điều 178 
Bộ  luật tố  tụng hình sự), việc giao quyết định của Tòa án, việc tạm đình chỉ 
hoặc đình chỉ vụ án.
Việc kiểm sát tuân theo Pháp luật tại phiên tòa của Viện kiểm sát.
Tại phiên tòa ngoài nhiệm vụ  bảo vệ  cáo trạng và quan điểm truy tố  của 
Viện kiểm sát (thực hiện quyền công tố  trước tòa), kiểm sát viên còn có nhiệm  
vụ  và quyền hạn kiểm sát hoạt động xét xử  và của những người tham gia tố 
tụng, nhằm bảo đảm cho hoạt động xét xử của Tòa án đũng nghĩa, đúng tội đúng  
pháp luật và công minh, quyền và lợi ích hợp pháp của người tham gia tố  tụng 
được bảo đảm, tôn trọng quy trình xét xử. 
Tại phiên tòa, kiểm sát viên cần kiểm sát các hoạt động sau đây của hội đồng 
xét xử:
­ Kiểm sát thủ tục bắt đầu phiên tòa. Khi bắt đầu phiên tòa chủ tọa phiên tòa 
phải đọc quyết định đưa vụ  án ra xét xử, Thư  ký phiên tòa báo cáo danh sách có  
mặt của những người được triệu tập đến phiên tòa. Sau phần kiểm tra căn cước  
của những người tham gia tố  tụng, Chủ  tọa phiên tòa giải thích rõ quyền và 
nghĩa vụ  của những người này (Điều 201 Bộ luật tố tụng hình sự)

19


­ Sau khi nghe Chủ tọa phiên tòa đọc quyết định đưa vụ án ra xét xử, sau khi 
nghe Thư ký phiên tòa đọc danh sách có mặt của những người tham gia tố tụng,  
Kiểm sát viên phải kiểm tra ngay thành phần Hội đồng xét xử  xem có đúng với  

thành phần được nêu trong quyết định đưa vụ án ra xét xử mà Tòa án đã gửi cho  
Viện kiểm sát và những người tham gia tố  tụng có liên quan không, kiểm tra  
danh sách những người được triệu tập đển phiên tòa và danh sách có mặt của họ 
tại phiên tòa xem có phù hợp nhau không hoặc thiếu vắng một ai không.
Trước khi Hội đồng xét xử chuyển sang phần xét hỏi, kiểm sát viên cần chú ý  
yêu cầu Hội đồng xét xử quan tâm những trường hợp sau:
Trường hợp Pháp luật quy định bị  cáo bắt buộc phải có mặt tại phiên tòa: 
Trong trường hợp bị  cáo vắng mặt thì Tòa án có thể  tiến hành xét xử  trong các 
trường hợp sau:
­ Bị cáo trốn tránh và việc truy nã không có kết quả
­ Bị cáo đang ở nước ngoài và không thể triệu tập đến phiên tòa được
­

Nếu sự vắng mặt của bị cáo không trở ngại cho việc xét xử và họ đã được 

giao giấy triệu tập hợp lệ (Điều 187, Khoản 2 Bộ luật tố tụng hình sự)
Trường hợp Pháp luật quy đinh bắt buộc phải có người bào chữa mà người 
bào chữa vắng mặt tại phiên tòa (Điều 157, khoản 2 Bộ luật tố tụng hình sự)
Trường hợp người làm chứng, bị  hại, nguyên đơn dân sự, bị  đơn dân sự,  
người giám định, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án, người phiên  
dịch vắng mặt. Nếu sự vắng mặt của họ gây trở ngại cho việc xét xử vụ án hình 
sự  thì Hội đồng xét xử  cũng phải hoãn phiên tòa (Điều 191, khoản 1, Điều 192 
Bộ luật tố tụng hình sự)
Xong các thủ tục ban đầu, chuyển sang phần xét hỏi:
Trước khi tiến hành xét hỏi: Đại diện Viện kiểm sát là kiểm sát viên giữ 
quyền công tố đọc cáo trạng (Điều 206 Bộ luật tố tụng hình sự)
Hội đồng xét xử  tiến hành xét hỏi bị  cáo. Ngoài việc Hội đồng xét xử  tiến  
hành xét hỏi, Kiểm sát viên cũng tham gia xét xử tại phiên tòa, nhằm củng cố làm 

20



rõ thêm hành vi phạm tội, đánh giá chứng cứ, để  bảo vệ  cáo trạng. Cần nhận  
thức: Việc xét hỏi của Viện kiểm sát tại tòa là sự kiểm tra lại kết quả điều tra. 
Việc xét  hỏi của kiểm sát viên không phải hướng tới cái gì đó mà khẳng định  
kết quả điều tra, kiểm sát viên không cần xét hỏi toàn bộ nội dung vụ án, chỉ xét 
hỏi để nhằm làm rõ thêm, khi mà nội dung cần xét hỏi, Hội đồng xét xử chưa xét  
hỏi.
Xong phần xét hỏi chuyển sang phần tranh luận: Kiểm sát viên phải trình bày 
quan điểm luận tội bị cáo tại tòa. Luận tội của kiểm sát viên là một trong những  
nhiệm vụ rất quan trọng. Điều 217 Bộ luật tố tụng hình sự quy định, sau khi kết 
thúc việc xét hỏi tại phiên tòa, kiểm sát viên trình bày lời luận tội, đề  nghị  kết  
tội bị cáo. Luận tội của kiếm sát viên phải căn cứ vào những tài liệu, chứng cứ 
đã được kiểm tra tại phiên tòa và ý kiến tranh luận của bị cáo, người bào chữa, 
người bảo vệ quyền và nghĩa vụ của đương sự và những người tham gia tố tụng  
tại phiên tòa. Tranh luận tại tòa: 
Để  thực hiện tranh luận tại tòa hình sự  đạt chất lượng, đáp  ứng những yêu 
cầu của công tác cải cách tư pháp, đòi hỏi kiểm sát viên phải nắm vững và đánh 
giá chứng cứ  vụ  án một cách khách quan tổng hợp (cả  chứng cứ  buộc tội và 
chứng cứ gỡ tội) phải kiểm tra tính hợp pháp và có căn cứ tài liệu chứng cứ thu 
thập được trong quá trình điều tra, xét hỏi.
Trường hợp khi tranh luận, những người tham gia tố tụng có ý kiến khác nhau  
với luận tội, kiểm sát viên phải đưa ra những lập luận của mình đối với từng ý  
kiến không được lảng tránh hoặc đối đáp bằng việc giữ nguyên quan điểm truy  
tố trong cáo trạng…không căn cứ vào kết quả xét xử tại tòa, kiểm sát viên không 
được thụ động, ngồi chờ, đẩy trách nhiệm đối đáp cho Hội đồng xét xử, vì thực 
tiễn đã có nhiều trường hợp người tham gia tố  tụng nêu ý kiến ngược lại lời  
luận tội của kiểm sát viên nhưng kiểm sát viên né tránh không tranh luận lại, và 
khi được Hội đồng xét xử  yêu cầu đối đáp thì có kiểm sát viên trả  lời “tùy tòa  
quyết định”. Tuy nhiên không phải những người tham gia tố  tụng nêu câu hỏi  


21


nào, thắc mắc nào, kiểm sát viên cũng phải trả lời. Tranh luận những quan điểm, 
ý kiến khác với lời luận tội và có liên quan tới việc giải quyết vụ án. Kiểm sát  
viên không tranh luận những vấn đề không liên quan đến việc giải quyết vụ án.  
Khi có những câu hỏi không liên quan tới việc giải quyết vụ án thì kiểm sát viên 
lưu ý Hội đồng xét xử  bác bỏ  câu hỏi đó mà không cần nêu phải tranh luận lại  
hoặc có quan điểm ra yêu cầu kiểm sát viên tranh luận nhưng những nội dung  
thắc mắc có quan điểm đó đã được giải đáp rõ trong quá trình xét xử  tại tòa. 
Trong trường hợp này, kiểm sát viên không cần đối đáp mà chỉ  cần lưu ý Hội  
đồng xét xử là quan điểm đó đã được làm rõ ở giai đoạn nào của quá trình xét xử.
Khi tranh luận với những quan điểm của những người tham gia tố  tụng đối  
lập với quan điểm luận tội, đòi hỏi kiểm sát viên lý giải lập luận để đối đáp lại 
một cách dứt khoát, không vòng vo, né tránh. Các ý kiến tranh luận của kiểm sát 
viên phải dựa trên những căn cứ pháp luật và các chứng cứ có trong hồ sơ vụ án  
và đã được xem xét công khai tại phiên tòa, kiểm sát viên không được tranh luận  
theo ý kiến chủ  quan của mình. Kiểm sát viên phải kiên quyết bảo vệ  những  
quan điểm, lập luận đúng, bác bỏ những ý kiến, quan điểm sai trái nhằm bảo vệ 
sự thật, khách quan của vụ án. Trong quá trình tranh luận, kiểm sát viên phải có 
phương án đối đáp, tranh luận bình tĩnh, tôn trọng quyền bào chữa bị  cáo và ý 
kiến của những người tham gia tố tụng, bảo đảm dân chủ, tránh định kiến, bảo 
thủ.
Sau khi kết thúc phiên tòa sơ  thẩm hình sự, kiểm sát viên phải làm những  
việc sau đây:
­ Kiểm tra biên bản phiên tòa (Điều 200 Bộ luật tố tụng hình sự)
­ Kiểm tra việc giao bản án, quyết định của Tòa án (Điều 229 Bộ luật tố tụng  
hình sự)
­ Kiểm tra bản án, quyết định của Tòa án (Điều 199 Bộ luật tố tụng hình sự)

­ Kháng nghị bản án, quyết định của Tòa án (Điều 232 Bộ  luật tố  tụng hình  
sự)

22


­ Kiểm tra việc giữ  hồ  sơ kháng cáo, kháng nghị  (Điều 237 Bộ  luật tố  tụng  
hình sự)
­ Việc báo cáo kết quả xét xử, gửi bản án, quyết định sơ thẩm cho Viện kiểm  
sát (Điều 27 QC KSXX) 
­ Rút kinh nghiệm về  thực hành quyền công tố  và kiểm sát xét xử  sơ  thẩm  
sau phiên tòa.
­ Tuyên truyền kết quả phiên tòa, kiến nghị, phòng ngừa tội phạm.
­ Theo dõi kết quả xét xử phúc thẩm.
 2.1.3 Căn cứ thực tiễn:
Trong lộ trình cải cách tư pháp giai đoạn 2017­2020, để làm sao nền tư pháp  
Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển và hội nhập của đất nước, nền kinh tế thị 
trường phát triển kéo theo những mặt tích cực cũng không ít mặt trái, mặt tiêu  
cực xâm phạm vào xã hội Việt Nam mà thực trạng vi phạm, tội phạm gia tăng  
phức tạp. Đòi hỏi xã hội phải ổn định về an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội  
để tập trung vào phát triển kinh tế ­ xây dựng đất nước. Mà cơ quan bảo vệ pháp 
luật trong đó có Viện kiểm sát phải không ngừng nâng cao trình độ  nghiệp vụ 
chuyên môn, mới đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ đề ra.
Trong quá trình giải quyết các vụ  án hình sự  vai trò trách nhiệm của Viện 
kiểm sát đã được quy định là rất nặng nề, từ khi xảy ra tố giác tin báo tội phạm 
cho đến khi đưa vụ  án ra xét xử  thì nhiệm vụ  của Viện kiểm sát phải liên tục  
bám sát cơ  quan điều tra từ  khởi tố  vụ  án, bị  can, bắt, tạm giữ, tạm giam, hoạt  
động điều tra vụ  án. Trong giai đoạn này Viện kiểm sát phải phê chuẩn các  
quyết định của cơ quan điều tra như lệnh bắt khẩn cấp, gia hạn tạm giữ, khởi tố 
bị can, lệnh tạm giam, các quyết định không khởi tố vụ án, quyết định tạm đình  

chỉ, đình chỉ điều tra vụ án của cơ quan điều tra…Trong quá trình này nếu để xảy 
ra oan, sai, bỏ lọt tội phạm thì Viện kiểm sát đã phê chuẩn các quyết định của cơ 
quan điều tra thì phải chịu trách nhiệm về những sai sót nếu có.

23


Khi cơ quan điều tra kết thúc điều tra chuyển hồ sơ vụ án sang Viện kiểm sát 
đề  nghị  truy tố, Viện kiểm sát phải truy tố  bị can ra trước tòa. Tại phiên tòa sơ 
thẩm Viện kiểm sát thực hành quyền công tố  và kiểm sát xét xử  tại phiên tòa 
phải chịu trách nhiệm trước Nhà nước trong việc bảo vệ cáo trạng truy tố bị cáo  
đảm bảo tòa xử bị cáo đó có tội theo cáo trạng truy tố của Viện kiểm sát.
Tại phiên tòa Viện kiểm sát có trách nhiệm tranh luận, tranh tụng với luật sư 
bảo vệ  cho bị  cáo để  bảo vệ  nội dung cáo trạng truy tố  bị  cáo trước phiên tòa  
đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. 
Trong thực tiễn hoạt động công tố kiểm sát điều tra, kiểm sát xét xử  án hình 
sự  tại Viện kiểm sát nhân dân thị  xã Bỉm Sơn có lúc, có việc còn để  xảy ra 
những thiếu sót trong hoạt động công tố  và kiểm sát điều tra, xét xử  các vụ  án  
hình sự làm ảnh hưởng đến vị thế của đơn vị và ngành Kiểm sát.
Đây là cơ  sở  thực tiễn để  tôi chọn đề  án “Nâng cao chất lượng thực hành 
quyền công tố  và kiểm sát điều tra, xét xử  vụ  án hình sự  ở  Viện kiểm sát nhân  
dân thị xã Bỉm Sơn giai đoạn 2017­2020” với mục đích nhằm nâng cao trình độ, 
kỹ năng thực hiện nhiệm vụ công tác kiểm sát trong giai đoạn mới. 
2.2. Nội dung cơ bản của đề án:
2.2.1 Thực trạng của vấn đề cần giải quyết mà đề án hướng đến
2.2.1.1 Bối cảnh thực hiện đề án:
Thị xã Bỉm Sơn là một thị xã trong 27 huyện, thị xã, thành phố của tỉnh Thanh  
Hóa. Có diện tích là 6.701 ha, với số dân là 54.971 người, phía Bắc giáp tỉnh Ninh  
Bình, phía Nam giáp huyện Hà Trung, phía Đông giáp huyện Nga Sơn, phía Tây 
giáp huyện Thạch Thành ( Tỉnh Thanh Hoá). Đường giao thông thuận lợi gồm  

quốc lộ  1A và đường sắt Bắc ­ Nam chạy qua. Thị xã Thị  xã Bỉm Sơn có nhiều  
tiềm năng to lớn, đặc biệt là tiềm năng khoáng sản phục vụ  công nghiệp xây  
dựng. Diện tích mỏ đá ở Bỉm Sơn có tới 1.186,8 ha chiếm khoảng 18% tổng diện 
tích tự  nhiên. Trữ  lượng đá vôi ở  Bỉm Sơn dự  báo có tới vài tỷ  mét khối; lượng 
đá vôi đã thăm dò là hơn 600 triệu m3. Chất lượng đá vôi  ở  Bỉm Sơn có hàm 

24


lượng ô xít canxi và ô xít mangiê rất thích hợp cho sản xuất xi măng và là nguyên  
liệu tốt để  sản xuất các hoá chất như  đất đèn, bột nhẹ, làm chất lọc đường và 
làm đá ốp lát. Bỉm Sơn còn có đá phiến sét có chất lượng phù hợp để sản xuất xi 
măng thay thế cho loại đất sét dẻo. Đá phiến sét là nguyên liệu chính xếp sau đá 
vôi để sản xuất xi măng Poóclăng. Hiện nay trữ lượng đá phiến sét đã thăm dò là 
hơn 640 triệu tấn; dự báo trữ lượng có thể lên đến hàng tỷ tấn. Ngoài hai nguyên  
liệu trên Bỉm Sơn còn có đất sét dẻo để làm gạch ngói, trữ lượng đủ cho các nhà 
máy gạch ngói có công suất 100 triệu viên/năm. Nguồn nước ngầm trong lòng  
đất Bỉm Sơn đã được Đoàn địa chất 47 thăm dò xác định thuộc dạng nước ngầm  
các   tơ,   trữ   lượng   khá   phong   phú   để   phục   vụ   cho   sản   xuất   công 
nghiệp.                                                                        
    Do phần lớn diện tích đất đồi nên Bỉm Sơn có ưu thế mạnh về phát triển lâm 
nghiệp, trồng rừng, cũng là lợi thế cho phát tiển đô thị và phát triển công nghiệp. 
Diện tích đất lâm nghiệp ở Bỉm Sơn là: 2.419,85 ha. Toàn thị xã có 638,69 ha đất   
trồng rừng phòng hộ và rừng kinh tế.
Chính vì vậy cũng nảy sinh nhiều phức tạp về  an ninh chính trị, trật tự  an  
toàn xã hội. Nhất là lĩnh vực trật tự an toàn xã hội, các năm gần đây mỗi năm trên  
địa bàn xảy ra hàng trăm vụ án hình sự đủ các loại hình phạm tội, nổi cộm những 
năm gần đây gia tăng các loại tội về ma túy, trộm cắp, cướp, cướp giật, cố ý gây  
thương tích... và một số  loại tội phạm mới xuất hiện như mua bán phụ  nữ, trẻ 
em, hiếp dâm trẻ em, vận chuyển trái phép chất nổ, tàng trữ trái phép vũ khí quân 

dụng...
Chính vì vậy, nội dung xây dựng đề  án này có tác dụng thiết thực nhằm rèn  
rũa trình độ khả năng, kỹ năng thuần thục trong việc thao tác nghiệp vụ cho đội  
ngũ cán bộ, kiểm tra viên, kiểm sát viên trong đơn vị nhằm đáp ứng yêu cầu giải  
quyết các vụ  án hình sự  từ  giai đoạn mới xảy ra tố  giác, tin báo tội phạm đến  
khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử nhằm hạn chế thấp nhất các vụ án oan, sai, bỏ 
lọt tội phạm, án đình chỉ  do không cấu thành tội phạm, án hủy, án toà án tuyên 

25


×