Tải bản đầy đủ (.doc) (97 trang)

luận văn thạc sĩ quản lý nhà nước về ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động dự trữ quốc gia 1

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (627.86 KB, 97 trang )

i

LỜI CẢM ƠN
Trong quá trình nghiên cứu thực hiện đề tài luận văn “Quản lý nhà
nước về ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động dự trữ quốc gia”,
tôi đã nhận được nhiều sự giúp đỡ quý báu của các tập thể và cá nhân.
Trước tiên, tôi xin cảm ơn tập thể các thầy cô giáo đã giảng dạy trong
chương trình cao học chuyên ngành quản lý kinh tế khóa 22 của Trường đại
học Thương mại. Những kiến thức các thầy cô truyền đạt đã tạo dựng nền
tảng lý luận vững chắc cho tôi trong quá trình nghiên cứu đề tài. Đặc biệt, tôi
xin cảm ơn sự hướng dẫn tận tình, chu đáo của PGS, TS Đàm Gia Mạnh. Sự
hiểu biết sâu sắc về khoa học cũng như kinh nghiệm quý báu của thầy đã giúp
tôi có những giải pháp nghiên cứu phù hợp để hoàn thành tốt luận văn này.
Tôi cũng xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ và tạo điều kiện của tập thể
lãnh đạo, cán bộ, công chức Tổng cục Dự trữ nhà nước, Cục Công nghệ thông
tin trong quá trình thu thập số liệu, tài liệu, khảo sát tình hình thực tế tại cơ
quan, đơn vị để giúp tôi hoàn thành luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Học viên cao học

Phạm Thúy Lâm


ii

MỤC LỤC
5. Phương pháp nghiên cứu...........................................................................................................................7
6. Kết cấu luận văn.........................................................................................................................................9
(1) Phương pháp hành chính............................................................................................................... 22
Phương pháp hành chính là các cách tác động trực tiếp bằng các quyết định dứt khoát mang tính bắt
buộc của Nhà nước lên đối tượng và khách thể trong quá trình tổ chức ứng dụng CNTT nhằm đạt


được mục tiêu đặt ra trong các tình huống nhất định..........................................................................22
Các phương pháp hành chính tác động vào đối tượng quản lý theo hai hướng: tác động về mặt tổ
chức và tác động điều chỉnh hành động của đối tượng quản lý...........................................................22
Theo hướng tác động về mặt tổ chức, Nhà nước xây dựng và ban hành hệ thống pháp luật, tạo cơ sở
pháp lý cho các hoạt động ứng dụng CNTT được thực hiện thuận lợi. Theo đó, Quốc hội ban hành các
Luật như Luật Công nghệ thông tin, Luật Giao dịch điện tử nhằm đảm bảo các hoạt động ứng dụng
CNTT được chấp hành nhất quán. Tiếp đó Chính phủ ban hành Nghị định, Thủ tướng Chính phủ ban
hành Quyết định để quy định chi tiết hoặc hướng dẫn cụ thể văn bản Luật. Để triển khai thực hiện
Luật, Nghị định, Quyết định, các Bộ có liên quan ban hành Thông tư để điều chỉnh hoạt động ứng
dụng CNTT........................................................................................................................................... 22
Theo hướng tác động điều chỉnh hành động của đối tượng quản lý, Nhà nước sử dụng công cụ chế tài
để bắt buộc tất cả các cơ quan, đơn vị, tổ chức, cá nhân đều phải tuân thủ quy định, nếu vi phạm sẽ bị
xử lý theo nhiều hình thức thích hợp từ xử phạt hành chính đến xử lý hình sự...................................23
(2) Phương pháp kinh tế..................................................................................................................... 23
Các phương pháp kinh tế tác động vào đối tượng quản lý thông qua các lợi ích kinh tế để cho đối
tượng bị quản lý lựa chọn phương án hoạt động có hiệu quả nhất trong phạm vi hoạt động..............23
Trong ứng dụng CNTT, việc sử dụng phương pháp kinh tế được nhà nước thực hiện thông qua việc đề
ra các chiến lược, quy hoạch, kế hoạch để các cơ quan, tổ chức phải thực hiện. Bên cạnh đó, Nhà
nước còn tác động lên hoạt động ứng dụng CNTT bằng các phương pháp kinh tế thông qua việc sử
dụng đòn bẩy kinh tế như các chính sách ưu đãi, hỗ trợ về lãi suất, thuế,...để khuyến khích, thu hút
các cá nhân, doanh nghiệp, tổ chức phát triển ứng dụng CNTT theo hướng vừa ích nước, vừa lợi nhà.
........................................................................................................................................................... 23


iii

DANH MỤC SƠ ĐỒ, BẢNG BIỂU

Sơ đồ 2.1: Cơ cấu tổ chức quản lý của Tổng cục DTNN.............................................................................38
Sơ đồ 2.2: Hệ thống QLNN về ứng dụng CNTT tại Tổng cục DTNN.............................................................40

Bảng 2.1: Kinh phí đầu tư ứng dụng CNTT giai đoạn 2014-2017...............................................................48
Bảng 2.2: Thống kê hiện trạng thiết bị CNTT toàn ngành..........................................................................53
Bảng 2.3: Thống kê các phần mềm đang vận hành tại Tổng cục DTNN......................................................54
Bảng 2.4: Thống kê số lượng, trình độ của cán bộ làm công tác ứng dụng CNTT.......................................58
Bảng 2.5: Thống kê tình hình bồi dưỡng, cập nhật kiến thức CNTT..........................................................59
Bảng 2.6: Thống kê tình hình kiểm tra ứng dụng CNTT.............................................................................61


iv

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
STT
1
2
3
4
5
6

Ký hiệu
CNTT
DTQG
DTNN
KT-XH
TW
QLNN

Nguyên nghĩa
Công nghệ thông tin
Dự trữ quốc gia

Dự trữ nhà nước
Kinh tế - xã hội
Trung ương
Quản lý nhà nước


1

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Dự trữ quốc gia là nguồn dự trữ chiến lược của nhà nước nhằm chủ động
đáp ứng những yêu cầu cấp bách về phòng, chống, khắc phục hậu quả thiên
tai, hỏa hoạn, dịch bệnh; bảo đảm quốc phòng, an ninh; bình ổn thị trường,
góp phần ổn định kinh tế vĩ mô và thực hiện các nhiệm vụ đột xuất bức thiết
khác của nhà nước.
Qua hơn 60 năm xây dựng và phát triển, ngành dự trữ quốc gia của Việt
Nam đã thực hiện tốt chức trách của mình, đóng góp tích cực vào sự nghiệp
đấu tranh giải phóng dân tộc, xây dựng và bảo vệ tổ quốc, khẳng định được vị
trí của một ngành kinh tế đặc biệt trong nền kinh tế quốc dân.
Trong thời kỳ đổi mới, nền kinh tế nước ta chuyển từ cơ chế tập trung
quan liêu bao cấp sang cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có sự
quản lý của nhà nước, nhiệm vụ của ngành dự trữ quốc gia (DTQG) lại càng
nặng nề và khó khăn hơn. Hiện nay, có nhiều vấn đề đặt ra đối với ngành dự
trữ, đặc biệt là những vấn đề liên quan đến cơ chế quản lý, hiệu lực và hiệu
quả hoạt động dự trữ, nguồn nhân lực làm công tác dự trữ…Tất cả những vấn
đề đó chỉ có thể giải quyết một cách khoa học và hiệu quả khi ngành DTQG
có một hệ thống thông tin đầy đủ, chính xác và kịp thời.
Có thể khẳng định, để đáp ứng yêu cầu cải cách hành chính, đổi mới
phương thức lãnh đạo và quản lý, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý thì việc
đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin (CNTT) vào hoạt động DTQG chính

là giải pháp mang tính chiến lược đối với tất cả các Bộ, ngành quản lý hàng
dự trữ quốc gia, trong đó, có Bộ Tài chính.
Tổng cục Dự trữ Nhà nước (DTNN) trực thuộc Bộ Tài chính là cơ quan
dự trữ quốc gia chuyên trách, có chức năng tham mưu để Bộ Tài chính thực
hiện quản lý nhà nước về DTQG, trực tiếp quản lý các mặt hàng DTQG như
lương thực, vật tư, thiết bị cứu hộ, cứu nạn, vật tư thông dụng động viên công


2

nghiệp, muối trắng. Nhận thức được tầm quan trọng của việc ứng dụng CNTT
vào hoạt động của ngành, trong những năm vừa qua, Tổng cục DTNN đã đặc
biệt quan tâm đến việc xây dựng các cơ chế, chính sách để thúc đẩy phát triển
ứng dụng CNTT trong hoạt động của đơn vị nhằm đáp ứng các mục tiêu quản
lý nhà nước (QLNN) về DTQG theo định hướng phát triển bền vững và chủ
trương hiện đại hóa ngành. Giai đoạn 2010 – 2016, Tổng cục DTNN đã cơ
bản xây dựng một hệ thống CNTT thống nhất từ trung ương (TW) đến địa
phương phục vụ cho công tác chỉ đạo và điều hành. Bên cạnh đó, môi trường
pháp lý dần được hình thành, bộ máy tổ chức với chức năng, nhiệm vụ của
đơn vị chuyên trách về CNTT trong ngành cơ bản đã được kiện toàn phù hợp
với mục tiêu phát triển DTQG.
Tuy vậy, xét về tổng thể và dài hạn thì hiệu quả ứng dụng CNTT trong
hoạt động của Tổng cục DTNN còn chưa cao, chưa bắt kịp với sự phát triển
kinh tế - xã hội (KT-XH) nói chung và sự phát triển nhanh chóng của CNTT
nói riêng. Các kế hoạch, dự án ứng dụng CNTT đã được xây dựng và phê
duyệt nhưng trong quá trình triển khai còn gặp vướng mắc, các ứng dụng
CNTT trong hoạt động chưa thực sự đi vào cuộc sống, đội ngũ cán bộ làm
công tác ứng dụng CNTT và QLNN về ứng dụng CNTT tại Tổng cục còn hạn
chế cả về số lượng và chất lượng...
Để khắc phục các hạn chế, bất cập này thì cần thiết phải có chiến lược,

giải pháp cụ thể, phù hợp với sự phát triển của công nghệ cũng như yêu cầu
quản lý để đẩy mạnh và nâng tầm ứng dụng CNTT trong hoạt động của Tổng
cục DTNN lên một tầm cao mới mang tính đột phá. Theo đó, đòi hỏi công tác
QLNN về ứng dụng CNTT tại Tổng cục DTNN phải được đổi mới toàn diện,
nhanh chóng bắt kịp sự phát triển của công nghệ. Vì vậy, cần có những công
trình nghiên cứu bài bản, có hệ thống, cả dưới góc độ lý luận và thực tiễn để
từ đó đưa ra các giải pháp cụ thể nhằm nâng cao hiệu quả của công tác QLNN
về ứng dụng CNTT tại Tổng cục DTNN, đáp ứng được yêu cầu, nhiệm vụ đặt
ra trong quá trình hiện đại hóa ngành.


3

Chính vì vậy, tác giả đã chọn đề tài “Quản lý nhà nước về ứng dụng
công nghệ thông tin trong hoạt động dự trữ quốc gia” làm đề tài luận văn
thạc sỹ của mình.
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài
Liên quan đến đề tài nghiên cứu, trong thời gian qua có một số công
trình khoa học, một số báo cáo chuyên ngành về ứng dụng CNTT trong hoạt
động của các cơ quan, đơn vị, địa phương như:
- Luận văn thạc sỹ của Nguyễn Văn Nam tại Trường Đại học kinh tế
thành phố Hồ Chí Minh. Đề tài về “Giải pháp đẩy mạnh ứng dụng công nghệ
thông tin trong quản lý chính quyền tỉnh An Giang” [15].
Luận văn đã đi sâu tìm hiểu thực trạng công tác ứng dụng CNTT trong
quản lý của các cấp chính quyền tỉnh An Giang, trong đó, có đề cập đến vai
trò của QLNN đối với ứng dụng CNTT trên địa bàn tỉnh. Đồng thời, trên cơ
sở những bất cập, hạn chế trong quá trình thực hiện của chính quyền tỉnh An
Giang, luận văn đã phân tích các nguyên nhân và đề xuất những giải pháp
khắc phục mang tính chiến lược nhằm đảm bảo cho việc ứng dụng CNTT có
hiệu quả hơn.

- Luận văn thạc sỹ của tác giả Phan Văn Hải về “Ứng dụng công nghệ
thông tin phục vụ phát triển kinh tế xã hội tỉnh Vĩnh Phúc - Thực trạng và giải
pháp” [14].
Xuất phát từ việc phân tích đặc điểm, vai trò của CNTT nói chung, tác
giả đã làm nổi bật tầm quan trọng của việc ứng dụng CNTT trong việc phát
triển kinh tế, xã hội tỉnh Vĩnh Phúc. Tuy nhiên, bên cạnh những mặt đạt được,
tác giả cũng phân tích, làm rõ những bất cập, khó khăn để từ đó đề xuất
những giải pháp nhằm đẩy mạnh ứng dụng CNTT trong việc phục vụ phát
triển KT - XH của tỉnh Vĩnh Phúc. Trong hệ thống các giải pháp, tác giả đã
phân tích khá cụ thể giải pháp về nâng cao vai trò của QLNN với ứng dụng
CNTT trên địa bàn tỉnh.


4

- Luận văn thạc sỹ của Đỗ Ngọc Nam về “Hoàn thiện chính sách đẩy
mạnh ứng dụng công nghệ thông tin trong các cơ quan nhà nước tỉnh Quảng
Ninh”[16].
Tác giả đi từ phân tích cơ sở lý luận QLNN đối với lĩnh vực CNTT và
QLNN về ứng dụng CNTT để tìm hiểu, đánh giá thực trạng công tác ứng
dụng CNTT và QLNN đối với ứng dụng CNTT trong hoạt động của các cơ
quan hành chính, đơn vị sự nghiệp trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh. Từ đó đã
nghiên cứu đề xuất các giải pháp để hoàn thiện công tác xây dựng chính sách
nhằm đẩy mạnh ứng dụng CNTT trong hoạt động của các cơ quan nhà nước
trên địa bàn tỉnh.
- Luận văn thạc sỹ của Phạm Minh Tuấn - Trường đại học Kinh tế - Đại
học Quốc gia Hà Nội. Đề tài “Quản lý nhà nước về lĩnh vực công nghệ thông
tin trong các cơ quan nhà nước trên địa bàn tỉnh Hà Giang” [19].
Trên cơ sở lý luận QLNN đối với lĩnh vực CNTT và QLNN về ứng dụng
CNTT, luận văn tìm hiểu, đánh giá thực trạng công tác QLNN về ứng dụng

CNTT trong hoạt động của các cơ quan, đơn vị trên địa bàn tỉnh Hà Giang, từ
đó đưa ra các giải pháp khá đồng bộ để hoàn thiện công tác QLNN về ứng
dụng CNTT trong hoạt động của các cơ quan, đơn vị trên địa bàn tỉnh Hà
Giang như giải pháp về xây dựng cơ chế chính sách, giải pháp về nguồn nhân
lực, giải pháp về kiểm tra, thanh tra...
Cùng với các công trình nghiên cứu trên, tác giả còn nghiên cứu, tham
khảo các Nghị quyết của Bộ Chính trị, các văn bản quy phạm pháp luật có liên
quan đến CNTT và ứng dụng CNTT trong hoạt động của cơ quan nhà nước để
phục vụ cho việc nghiên cứu luận văn như Luật Giao dịch điện tử, Luật Công
nghệ thông tin, Nghị định số 64/2007/NĐ-CP ngày 10/4/2007 của Chính phủ
về ứng dụng CNTT trong hoạt động của cơ quan Nhà nước; Nghị định
102/2009/NĐ-CP về quản lý đầu tư ứng dụng CNTT sử dụng nguồn vốn ngân
sách nhà nước, Quyết định số 1605/QĐ-TTg phê duyệt Chương trình quốc gia
về ứng dụng CNTT trong hoạt động của cơ quan nhà nước giai đoạn 2011 –


5

2015, Quyết định số 1819/QĐ-TTg ngày 26/10/2015 phê duyệt Chương trình
quốc gia về ứng dụng CNTT trong hoạt động của cơ quan nhà nước giai đoạn
2016 - 2020...
Từ tổng quan các công trình nghiên cứu, các văn bản pháp luật nêu trên,
có thể rút ra một số đánh giá như sau:
Các vấn đề lý luận liên quan đến CNTT và ứng dụng CNTT đã được hệ
thống khá đầy đủ và được vận dụng để đánh giá thực trạng, đề xuất giải pháp
cụ thể nâng cao chất lượng công tác ứng dụng CNTT tại một số cơ quan, đơn
vị, địa phương. Tuy nhiên, cho đến thời điểm hiện nay, vẫn chưa có nhiều
công trình nghiên cứu một cách bài bản, đầy đủ về QLNN đối với hoạt động
ứng dụng CNTT cũng như những bất cập, hạn chế của nó mà chủ yếu QLNN
về ứng dụng CNTT được đề cập đến trên phương diện như là một giải pháp

cần phải xem xét để nâng cao chất lượng của công tác ứng dụng CNTT tại các
cơ quan, đơn vị.
Tương tự như vậy, trong thời gian qua, chưa có công trình nào nghiên
cứu về QLNN đối với ứng dụng CNTT trong hoạt động DTQG tại Tổng cục
DTNN cũng như kiến nghị các giải pháp nhằm nâng cao chất lượng công tác
này trong thời gian tới. Do đó, việc nghiên cứu đề tài “Quản lý nhà nước về
ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động dự trữ quốc gia” là cấp thiết
và có tính mới, không trùng lặp với những công trình nghiên cứu trước đó.
3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục tiêu nghiên cứu
Nghiên cứu đề xuất các giải pháp hoàn thiện công tác QLNN về ứng
dụng CNTT trong hoạt động DTQG tại Tổng cục DTNN trong thời gian tới.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để giải quyết được mục tiêu nghiên cứu nói trên, luận văn thực hiện ba
nhiệm vụ nghiên cứu:
- Hệ thống hóa cơ sở lý luận về CNTT, ứng dụng CNTT cũng như công
tác QLNN về ứng dụng CNTT.


6

- Tìm hiểu thực trạng công tác ứng dụng CNTT và QLNN về ứng dụng
CNTT tại Tổng cục DTNN. Từ đó, đánh giá và nhận định thành tựu đạt được
cũng như những hạn chế và nguyên nhân hạn chế của công tác này.
- Đề xuất một số giải pháp và kiến nghị với cơ quan quản lý có thẩm
quyền nhằm hoàn thiện công tác QLNN về ứng dụng CNTT trong hoạt động
DTQG tại Tổng cục DTNN thời gian tới.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Các vấn đề lý luận về CNTT, ứng dụng CNTT và QLNN về ứng dụng

CNTT, đồng thời, tiếp cận thực tiễn công tác QLNN về ứng dụng CNTT trong
hoạt động DTQG tại Tổng cục DTNN.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi nội dung
Luận văn nghiên cứu những lý luận cơ bản về CNTT, ứng dụng CNTT
và QLNN về ứng dụng CNTT. Trên cơ sở đó, đi vào nghiên cứu cụ thể thực
trạng công tác QLNN về ứng dụng CNTT trong hoạt động DTQG tại Tổng
cục DTNN.
- Phạm vi không gian
Theo quy định tại Luật Dự trữ quốc gia, hoạt động DTQG được thực
hiện bởi các Bộ, ngành quản lý hàng DTQG như Bộ Tài chính (Tổng cục
DTNN), Bộ Y tế, Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn, Bộ Công thương,
Bộ Quốc phòng, Bộ Công an, Đài truyền hình Việt Nam, Đài Tiếng nói Việt
Nam. Tuy nhiên, hàng hóa DTQG do Tổng cục DTNN thuộc Bộ Tài chính
quản lý chiếm tỷ trọng lớn nhất trong các Bộ, ngành quản lý hàng DTQG
(trên 80%) nên trong luận văn giới hạn chủ thể quản lý hoạt động DTQG là
Tổng cục DTNN. Như vậy phạm vi không gian của luận văn giới hạn nghiên
cứu tại Tổng cục DTNN, tập trung vào đối tượng quản lý là hoạt động ứng
dụng CNTT trong hoạt động tác nghiệp nhập, xuất, bảo quản hàng DTQG tại
Tổng cục DTNN.


7

- Phạm vi thời gian:
Luận văn giới hạn sử dụng dữ liệu thứ cấp nghiên cứu thực trạng trong 4
năm gần đây (2014 - 2017). Đồng thời, Luận văn định hướng đề xuất giải
pháp và kiến nghị hoàn thiện công tác QLNN về ứng dụng CNTT trong hoạt
động DTQG tại Tổng cục DTNN đến năm 2025.
Như vậy, phạm vi nghiên cứu của Luận văn sẽ nghiên cứu các vấn đề lý

luận QLNN về ứng dụng CNTT trong hoạt động DTQG nhìn từ góc độ quản
lý cụ thể tại Tổng cục DTNN trong thời gian từ năm 2014-2017.
5. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng tổng hợp nhiều phương pháp nghiên cứu như vận
dụng phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác Lênin kết hợp với phương pháp tổng hợp, phân tích và phương pháp so sánh.
Trong đó, hai nhóm phương pháp chính được luận văn sử dụng là phương pháp
nghiên cứu lý thuyết và phương pháp thu thập, phân tích và xử lý dữ liệu.
- Phương pháp nghiên cứu lý thuyết:
Phương pháp cụ thể được sử dụng trong luận văn là phương pháp phân
loại và hệ thống hóa lý thuyết. Trên cơ sở tài liệu là các sách, giáo trình, luận
án, bài NCKH, bài báo khoa học trên các tạp chí có nội dung liên quan đến
ứng dụng CNTT hoặc QLNN đối với ứng dụng CNTT để phân loại và sắp xếp
theo hệ thống logic và từ đó, xây dựng lên một lý thuyết hoàn chỉnh giúp hiểu
biết đầy đủ và phù hợp nhất về đối tượng cần nghiên cứu.
Ngoài ra, dữ liệu được thu thập từ các văn bản pháp luật quy định liên
quan đến CNTT, ứng dụng CNTT trong hoạt động DTQG, báo cáo kết quả
ứng dụng CNTT trong hoạt động DTQG các năm từ 2014-2017, kế hoạch 5
năm ứng dụng CNTT trong ngành DTQG giai đoạn 2011-2015, kế hoạch 5
năm ứng dụng CNTT trong ngành DTQG giai đoạn 2016-2020. Các dữ liệu
này được dùng để viết chương 2.
Luận văn cũng kế thừa kết quả nghiên cứu của các công trình có liên


8

quan, đồng thời dựa vào các chủ trương, đường lối của Đảng và chính sách
của Nhà nước về ứng dụng CNTT trong hoạt động của các cơ quan nhà nước,
chiến lược phát triển DTQG đến năm 2020, định hướng đến năm 2025 để làm
tư liệu tham khảo viết chương 3.
- Phương pháp thu thập, phân tích và xử lý dữ liệu:

Phương pháp này được thực hiện gồm các bước sau:
+ Thu thập dữ liệu: tác giả thực hiện thu thập các số liệu, các thông tin
cần thiết về ứng dụng CNTT trong phạm vi thời gian nghiên cứu luận văn
nhằm tìm ra bản chất và tính quy luật của hiện tượng nghiên cứu. Các thông
tin được sử dụng trong luận văn là thông tin thứ cấp, được thu thập và chọn
lọc, tổng hợp từ các Nghị quyết, Chỉ thị, Chương trình, Đề án, Báo cáo đã
được các cơ quan chức năng công bố. Các tài liệu này được thu thập từ Bộ
Thông tin và Truyền thông, Bộ Tài chính, Tổng cục DTNN.
+ Tổng hợp, phân tích dữ liệu: tác giả sử dụng phương pháp này để tổng
hợp các tài liệu thu thập được từ nhiều nguồn, trên cơ sở đó phân tích để đưa
ra các kết luận, đánh giá phục vụ cho mục đích nghiên cứu. Để phục vụ cho
công việc nghiên cứu, tác giả sử dụng bảng thống kê để tổng hợp số liệu. Các
bảng thống kê chủ yếu được sử dụng ở chương 2 với các số liệu được cập
nhật từ năm 2014 đến năm 2017. Qua bảng thống kê có thể so sánh, đối chiếu,
phân tích theo nhiều phương pháp khác nhau để đánh giá bản chất của hiện
tượng nghiên cứu.
+ Đánh giá, xử lý dữ liệu: Dựa trên các số liệu đã phân tích để đưa ra
nhìn nhận, đánh giá đối với thực trạng vấn đề nghiên cứu. Từ đó đưa ra những
ưu điểm và hạn chế trong công tác QLNN về ứng dụng CNTT trong hoạt
động DTQG, tìm được nguyên nhân, phương pháp hoàn thiện hơn nữa công
tác này trong thời gian tới.


9

6. Kết cấu luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, luận văn được kết cấu
gồm 3 chương:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận cơ bản về quản lý nhà nước đối với
ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động dự trữ quốc gia.

Chương 2: Thực trạng quản lý nhà nước về ứng dụng công nghệ thông
tin trong hoạt động dự trữ quốc gia tại Tổng cục Dự trữ Nhà nước thời gian
qua.
Chương 3: Một số giải pháp hoàn thiện công tác quản lý nhà nước về
ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động dự trữ quốc gia tại Tổng cục
Dự trữ Nhà nước thời gian tới.


10

CHƯƠNG 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ QUẢN LÝ
NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI ỨNG DỤNG CÔNG NGHỆ THÔNG TIN
TRONG HOẠT ĐỘNG DỰ TRỮ QUỐC GIA

1.1. Những khái niệm chung
1.1.1. Khái niệm, đặc điểm, vai trò của công nghệ thông tin
1.1.1.1. Khái niệm công nghệ thông tin
Thuật ngữ CNTT xuất hiện khoảng những năm 70 của thế kỷ XX. Thuật
ngữ này thực chất gắn liền với sự phát triển của máy vi tính, thiết bị manh nha
ra đời từ thời chiến tranh thế giới thứ II.
Trên thế giới, có nhiều quan điểm khác nhau về CNTT. Theo từ điển
American Heritage thì CNTT là sự phát triển, cài đặt hay vận hành các hệ
thống máy vi tính và các phần mềm ứng dụng. Theo từ điển Oxford thì CNTT
là việc nghiên cứu hoặc sử dụng thiết bị điện tử, đặc biệt là máy vi tính, để
lưu giữ, phân tích và gửi thông tin. Theo định nghĩa của hiệp hội CNTT của
Hoa Kỳ, CNTT là việc nghiên cứu, thiết kế, phát triển, vận hành, hỗ trợ và
quản lý hệ thống thông tin dựa trên máy vi tính, đặc biệt là các phần mềm ứng
dụng và phần cứng máy vi tính. “Thông tin” ở đây có thể được biểu hiện ở
dạng chữ, hình ảnh, âm thanh. Sau thuật ngữ CNTT, vào khoảng năm 2000 thì

thuật ngữ CNTT và truyền thông ra đời. CNTT và truyền thông theo quan
điểm của UNESCO là các dạng công nghệ được sử dụng để truyền, xử lý, lưu
giữ, tạo, trình bày, chia sẻ hay trao đổi thông tin bằng các phương tiện điện tử.
Các công nghệ ở đây bao gồm radio, tivi, video, điện thoại, hệ thống vệ tinh,
máy vi tính và phần cứng, phần mềm mạng cùng với tất cả các thiết bị, dịch
vụ liên quan đến các công nghệ này như e-mail, blog, hội nghị qua mạng…
Theo quan điểm của UNESCO có thể thấy, khái niệm CNTT và truyền thông
rộng hơn rất nhiều so với khái niệm CNTT. Việc “rộng” hơn ở đây là rộng
hơn về phương tiện. Tuy nhiên, trong xu thế hiện nay, người ta cũng không


11

tập trung phân biệt hai thuật ngữ này.
Ở Việt Nam, khái niệm CNTT được hiểu và định nghĩa chính thức lần
đầu tiên trong Nghị quyết số 49/CP của Chính phủ ngày 4/8/1993 về “Phát
triển CNTT ở Việt Nam trong những năm 90” và gần đây nhất chúng ta có
khái niệm CNTT tại Luật Công nghệ thông tin số 67/2006/QH11 ngày 29
tháng 6 năm 2006: “CNTT là tập hợp các phương pháp khoa học, công nghệ
và công cụ kỹ thuật hiện đại để sản xuất, truyền đưa, thu thập, xử lý, lưu trữ
và trao đổi thông tin số”[17].
Từ các định nghĩa trong và ngoài nước về CNTT, để thuận tiện trong quá
trình nghiên cứu về CNTT và ứng dụng CNTT trong hoạt động DTQG, luận
văn đã tiếp cận khái niệm về CNTT như sau:
CNTT là tập hợp các phương pháp khoa học, các phương tiện và công cụ
kỹ thuật hiện đại, chủ yếu là kỹ thuật máy tính và viễn thông, nhằm tổ chức
khai thác và sử dụng có hiệu quả các nguồn tài nguyên thông tin rất phong
phú và tiềm năng trong mọi lĩnh vực hoạt động của con người và xã hội.
1.1.1.2. Đặc điểm của công nghệ thông tin
Theo tác giả Phan Đình Diệu trong cuốn “Tổng quan về Công nghệ

thông tin” thì “CNTT là công nghệ được xây dựng dựa trên những thành quả
mới nhất của nhiều ngành công nghệ khác và của những lý thuyết khoa học
hiện đại. Để xây dựng được một ngành công nghệ mũi nhọn thì trước hết,
phải phát triển ngành khoa học đó trên cơ sở những lý thuyết hiện đại nhất,
đồng thời, có những bước đi thích hợp trong quá trình phát triển, ứng dụng
các tiến bộ kỹ thuật của ngành đó vào cuộc sống”[13]. Như vậy, có thể thấy,
đặc điểm đầu tiên của CNTT đó là công nghệ mũi nhọn.
Thứ hai, CNTT là công nghệ được ứng dụng phổ biến trong mọi lĩnh
vực.
Ngày nay, CNTT đã tác động mạnh mẽ đến mọi lĩnh vực của đời sống
KT-XH. Ứng dụng CNTT đã trở nên phổ biến rộng rãi trong tất cả các lĩnh
vực từ nông nghiệp, công nghiệp đến các dịch vụ quan trọng trong đời sống


12

hiện đại của con người như: y tế, giáo dục, khoa học kỹ thuật, quản lý công,
quản lý tài chính, quản lý sản xuất kinh doanh, các dịch vụ tài chính, thương
mại, ngân hàng, bảo hiểm,…
Thứ ba là đặc điểm mang tính đặc thù về kỹ thuật đó là CNTT là công
nghệ với nhiều tầng lớp. Theo tác giả Phan Đình Diệu “CNTT có nhiều tầng
lớp, trong đó, tầng lớp trên lại được xây dựng dựa trên các tầng lớp dưới”[13].
Theo đó, tầng dưới cùng là các linh kiện điện tử được sản xuất, lắp ráp
như máy vi tính, phần cứng...Tầng tiếp theo là hệ thống máy vi tính và hệ
thống mạng đang hoạt động toàn cầu. Tầng tiếp theo là hệ điều hành mạng.
Tiếp đó là các chương trình ứng dụng và các hệ phần mềm cơ bản dùng
chung, tầng cuối cùng là các chương trình ứng dụng riêng xây dựng theo nhu
cầu ứng dụng cho mỗi cơ quan, đơn vị.
Thứ tư, CNTT là lĩnh vực phát triển và đào thải nhanh.
Các sản phẩm CNTT không có tính ổn định lâu dài mà luôn biến động

theo hướng phát triển nhanh, sản phẩm sau luôn hiện đại và ưu việt hơn sản
phẩm trước nhờ có sự tác động mạnh mẽ của các tiến bộ khoa học kỹ thuật và
công nghệ. Đặc biệt đối với phần cứng là sản phẩm có tốc độ thay đổi và đào
thải nhanh nhất.
1.1.1.3. Vai trò của công nghệ thông tin
Sự phát triển mạnh mẽ của CNTT đã và đang làm biến đổi nhanh chóng
đời sống KT-XH, chính trị, văn hoá của mỗi quốc gia và toàn thế giới, góp
phần giải phóng sức mạnh vật chất, trí tuệ cũng như tinh thần của cả xã hội,
thúc đẩy phát triển kinh tế đồng thời giúp nâng cao chất lượng cuộc sống của
mỗi người dân.
- Vai trò của CNTT đối với phát triển KT- XH nói chung
Vai trò của CNTT đối với sự phát triển xã hội vô cùng quan trọng, nó
không chỉ thúc đẩy nhanh quá trình tăng trưởng kinh tế, chuyển dịch nhanh cơ
cấu kinh tế theo hướng kinh tế dựa vào tri thức, phát triển bền vững mà quan
trọng hơn là thúc đẩy phát triển con người, phát triển văn hóa, phát triển xã


13

hội. Mạng thông tin thực sự là môi trường lý tưởng cho sự sáng tạo, là công
cụ quan trọng để quảng bá và mở rộng vốn tri thức, tạo động lực cho sự phát
triển, trong đó, không chỉ thúc đẩy phát triển dân chủ trong xã hội mà còn
thúc đẩy phát triển năng lực của con người.
Ở nhiều quốc gia phát triển, CNTT được xem như một ngành kinh tế gắn
với công nghiệp phần cứng, phần mềm, dịch vụ viễn thông, điện tử. Tuy
nhiên, CNTT không chỉ là một ngành kinh tế mà còn là động lực phát triển
của đất nước trong nhiều lĩnh vực, đồng thời, là phương tiện để có thể thực
hiện mục tiêu đi tắt, đón đầu và nâng cao vị thế trên toàn cầu.
Bên cạnh đó, CNTT còn là nhân tố giúp đẩy nhanh quá trình toàn cầu
hóa. Mạng internet làm cho thế giới ngày càng trở nên gần gũi và gắn kết với

nhau, giúp xóa bỏ rào cản không gian về mặt vật lý giữa các vùng miền, giữa
các quốc gia trên khắp thế giới. Ngày nay, việc giao dịch thương mại, học tập,
hội thảo, chữa bệnh đã được thực hiện qua mạng và ngày càng trở nên phổ
biến. Với mạng internet và các ứng dụng do CNTT tạo ra, các công ty có thể
hợp tác sản xuất, trao đổi mua bán, quảng bá sản phẩm và mở rộng thị trường
của mình ra khắp thế giới mà không mất quá nhiều thời gian và chi phí như
trước đây.
- Vai trò của CNTT đối với hoạt động của các cơ quan nhà nước
Trong thời gian gần đây, Chính phủ điện tử với nền tảng là ứng dụng
CNTT và truyền thông được xác định là chiến lược chủ chốt cho xã hội thông
tin và được nhiều quốc gia xem là nhân tố quan trọng để tăng năng lực cạnh
tranh trên trường quốc tế. Có thể khẳng định, CNTT đóng vai trò vô cùng
quan trọng đối với hoạt động của các cơ quan nhà nước, thể hiện trên các
phương diện sau:
+ CNTT và các ứng dụng của nó trong hoạt động của cơ quan nhà nước
góp phần nâng cao hiệu quả các hoạt động QLNN của Chính phủ. Thông qua
những nội dung của ứng dụng CNTT, các dịch vụ công của Chính phủ được
cung cấp trực tuyến 24 giờ/7 ngày thay cho lịch làm việc của công chức


14

truyền thống.
Sự thay đổi này không chỉ giúp giảm bớt thời gian mà còn giúp cho chi
phí giảm được khá nhiều so với cách thức cung cấp dịch vụ công truyền
thống. Không chỉ vậy, do sự giao tiếp, trao đổi của Chính phủ với người dân
và doanh nghiệp thông qua môi trường mạng vừa thuận lợi, vừa ít tốn kém
thời gian và chi phí nên đã là một điều kiện tốt thúc đẩy sự tương tác giữa
các bên. Nhờ đó, Chính phủ kịp thời cải thiện chất lượng dịch vụ cung cấp
khi nhận được sự phản hồi không tích cực của người dân. Chính vì vậy, đã

giúp cho bản thân chất lượng dịch vụ được nâng cao và đáp ứng nhu cầu của
người dùng, đồng thời, là một cầu nối ý tưởng trong hoạch định các chính
sách vi mô và vĩ mô của Chính phủ.
+ CNTT đã làm thay đổi cách thức quản lý và làm việc của các cơ quan
nhà nước theo hướng hiện đại, hiệu quả, tiết kiệm, nâng cao tính minh bạch
trong các cơ quan, đơn vị, góp phần không nhỏ trong việc cải cách hành chính
và hiện đại hóa nền hành chính, hướng đến chính phủ điện tử. Khi CNTT
được ứng dụng rộng rãi trong hoạt động của cơ quan nhà nước, tất yếu sẽ làm
thay đổi cách thức làm việc của cán bộ, công chức, viên chức trong các cơ
quan, đơn vị theo hướng chuyển từ phương thức làm việc cũ, thủ công bằng
giấy tờ, sổ sách sang phương thức làm việc điện tử, trên môi trường mạng.
Cách thức quản lý cũng được thay đổi chuyển từ quản lý trực tiếp sang quản
lý gián tiếp, sự giao tiếp giữa lãnh đạo và nhân viên sẽ chuyển sang một hình
thức giao tiếp mới đó là giao tiếp trên môi trường mạng thông qua các ứng
dụng CNTT của các cơ quan nhà nước.
Ở nước ta hiện nay, các cơ quan nhà nước từ TW đến địa phương đều đã
sử dụng hệ thống phần mềm quản lý văn bản và điều hành, hệ thống thư điện
tử trong giải quyết công việc, nhờ đó, đã giảm đáng kể chi phí hoạt động, tăng
tốc độ xử lý thông tin. Nhiều cuộc họp của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ,
của các Bộ, ngành, địa phương được tổ chức trực tuyến nên vừa tiết kiệm chi
phí, thời gian, vừa tạo nên một hình ảnh trực quan về một Chính phủ năng


15

động, hiện đại, hiệu quả.
- Vai trò của CNTT đối với hoạt động DTQG
Đối với các cơ quan dự trữ quốc gia, có thể nói CNTT có vai trò rất quan
trọng trong việc hỗ trợ cải cách, hiện đại hóa công tác quản lý nhập, xuất, bảo
quản hàng DTQG, quy hoạch mạng lưới kho DTQG, quản lý tài chính hoạt

động DTQG, quản lý nhân sự làm công tác DTQG. Trong bối cảnh nguồn lực
DTQG tăng nhanh, các hoạt động nhập, xuất hàng DTQG để cứu trợ, viện trợ
ngày càng mở rộng về quy mô và số lượng thì việc “ứng dụng CNTT vào các
quy trình nghiệp vụ, quản lý, điều hành sẽ đảm bảo nâng cao hiệu quả công
việc, cải thiện thời gian làm việc, cải tiến hoàn thiện hệ thống các quy trình
nghiệp vụ, quản lý” [27].
Hiện nay, CNTT đang được ứng dụng trên toàn hệ thống DTNN từ TW
đến các Cục, chi cục DTNN khu vực để hỗ trợ các công tác nghiệp vụ như
quản lý mua, bán hàng DTQG, bảo quản hàng DTQG, nhập kho, xuất kho
hàng DTQG, kế toán nội bộ hàng DTQG, quản lý tài sản của các đơn vị
DTQG, quản lý cán bộ DTQG, quản lý văn bản điều hành trong các đơn vị
DTQG. Nhờ các ứng dụng trên đã giúp tiết kiệm thời gian, chi phí trong thực
hiện nhiệm vụ, đáp ứng kịp thời yêu cầu cung cấp thông tin, báo cáo của các
cấp quản lý.
1.1.2. Khái niệm ứng dụng công nghệ thông tin
Khái niệm ứng dụng CNTT ở nước ta được đề cập chính thức lần đầu
tiên trong Nghị quyết Hội nghị lần thứ VII Ban chấp hành TW ngày 30 tháng
7 năm 1994: “Ưu tiên ứng dụng và phát triển các công nghệ tiên tiến, như
CNTT phục vụ yêu cầu điện tử hoá và tin học hoá nền kinh tế quốc dân”. Tiếp
đó, tại Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII nhấn mạnh: “Ứng
dụng CNTT trong tất cả các lĩnh vực kinh tế quốc dân, tạo ra sự chuyển biến
rõ rệt về năng suất, chất lượng và hiệu quả; hình thành mạng thông tin quốc
gia liên kết với một số mạng thông tin quốc tế”.


16

Về nội hàm của ứng dụng CNTT, tại Chỉ thị số 58-CT/TW ngày 17 tháng
10 năm 2000 về đẩy mạnh ứng dụng và phát triển CNTT phục vụ sự nghiệp
công nghiệp hoá, hiện đại hoá của Bộ Chính trị đã đưa ra quan điểm: “Ứng

dụng CNTT là quá trình đưa CNTT vào các lĩnh vực KT-XH nhằm góp phần
giải phóng sức mạnh vật chất, trí tuệ và tinh thần của toàn dân tộc, thúc đẩy
công cuộc đổi mới, phát triển nhanh và hiện đại hóa các ngành kinh tế, tăng
cường năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp, hỗ trợ có hiệu quả cho quá
trình chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, nâng cao chất lượng cuộc sống của
nhân dân, đảm bảo an ninh, quốc phòng và tạo khả năng đi tắt đón đầu để
thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa”[2]. Gần đây
nhất, tại Luật Công nghệ thông tin đã quy định: “Ứng dụng CNTT là việc sử
dụng CNTT vào các hoạt động thuộc lĩnh vực KT-XH, đối ngoại, quốc phòng,
an ninh và các hoạt động khác nhằm nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả
của các hoạt động này”[17].
Có thể thấy, trong điều kiện KT-XH hiện nay, khái niệm về ứng dụng
CNTT trong Luật Công nghệ thông tin là phù hợp nhất. Trong phạm vi của
luận văn cũng tiếp cận nghiên cứu ứng dụng CNTT trong hoạt động DTQG
trên nền khái niệm ứng dụng CNTT tại Luật Công nghệ thông tin năm 2006.
Từ khái niệm về ứng dụng CNTT, có thể thấy, CNTT được ứng dụng vào
mọi mặt của đời sống xã hội từ văn hóa, giáo dục, y tế, tài chính, an ninh,
quốc phòng…Ứng dụng CNTT đã làm thế giới thay đổi một cách mạnh mẽ,
sự thay đổi này có thể khẳng định như một cuộc cách mạng KT-XH và có ảnh
hưởng rất to lớn đến đời sống của con người. Điều này biểu hiện cụ thể trên
một số lĩnh vực như:
- Đối với lĩnh vực y tế, việc ứng dụng nhanh chóng những tiến bộ của
CNTT trong khám và chữa bệnh đã mang lại những kết quả vô cùng ý nghĩa
cho con người. Với việc sử dụng công nghệ siêu âm ba chiều, bác sỹ có thể
nhanh chóng phát hiện tình trạng bất ổn của bệnh nhân hoặc nhờ interner,
người bệnh có thể ở tại chỗ nhưng vẫn có thể được các bác sỹ hội chẩn từ xa.


17


Như vậy, bệnh nhân có cơ hội được tiếp xúc với những nền y học tiên tiến
trên thế giới mà không mất quá nhiều công sức, thời gian.
- Với lĩnh vực giáo dục và đào tạo, ứng dụng CNTT vào bài giảng của
giáo viên đã nâng cao nhanh chóng chất lượng dạy và học. Sự phát triển của
internet đã giúp kết nối giữa giáo viên và học sinh được gần gũi hơn, các
phương pháp học cũng được phát triển đa dạng như đào tạo từ xa, đào tạo trực
tuyến. Cùng với đó, là sự kết nối giữa các trường với nhau thông qua hợp tác,
liên kết, phạm vi kết nối không chỉ giới hạn ở trong nước mà còn vươn tới các
nước trong khu vực và quốc tế, nhờ đó, giúp cho trình độ giáo dục của các
nước đang phát triển và kém phát triển được cải thiện, thu hẹp khoảng cách
với các nước phát triển.
- Với hoạt động của các cơ quan nhà nước, việc ứng dụng CNTT “đã
mang lại một sự thay đổi đáng kể trong toàn bộ các khâu hoạt động của bộ
máy hành chính nhà nước. Chính phủ điện tử trên cơ sở điện tử hoá các hoạt
động QLNN đang hình thành và ngày càng trở nên phổ biến. Mạng thông tin
lớn mạnh có thể kết nối các cơ quan quản lý với đối tượng quản lý, giúp cho
quá trình ra quyết định được thực hiện nhanh chóng, kịp thời, chính xác và
tiết kiệm thông qua các hoạt động giao ban trực tuyến từ TW đến địa phương”
[3].
- Đối với hoạt động thương mại, ứng dụng CNTT đã làm thay đổi
phương pháp giao dịch truyền thống, mang đến cho người tiêu dùng và doanh
nghiệp sự thuận lợi trong giao dịch thông qua thương mại điện tử. Người tiêu
dùng ở tại chỗ nhưng thông qua thương mại điện tử có thể mua sắm khắp nơi
trên toàn thế giới. Tương tự, các doanh nghiệp cũng có thể tìm đối tác, bạn
hàng một cách nhanh chóng và dễ dàng hơn mà không cần phải mất quá nhiều
thời gian và chi phí như trước đây.
Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu của ứng dụng CNTT trong các lĩnh
vực như đã nêu trên thì các nước cũng phải đối mặt với các thách thức của
CNTT mang lại như tình trạng phân hóa giàu nghèo, ô nhiễm môi trường, văn



18

hóa truyền thống bị mất dần giá trị trước sự phát triển như vũ bão của văn hóa
mạng, sự vô cảm của con người trong các mối quan hệ xã hội...Cũng tương
tự các nước trên thế giới, bên cạnh những lợi ích do ứng dụng CNTT mang lại
thì Việt Nam cũng phải đối mặt với rất nhiều thách thức. Vấn đề đặt ra cho
các nhà quản lý là phải làm thế nào để ứng dụng CNTT vào đời sống kinh tế
xã hội, phát huy tối đa lợi thế và hạn chế những mặt tiêu cực mà nó mang lại.
Điều đó đòi hỏi phải có các giải pháp đồng bộ, trong đó, đặc biệt phải chú
trọng đến vai trò của QLNN về ứng dụng CNTT.
1.1.3. Khái niệm quản lý nhà nước về ứng dụng công nghệ thông tin
trong hoạt động dự trữ quốc gia
1.1.3.1. Khái niệm QLNN
Theo hai tác giả Mai Văn Bưu và Phan Kim Chiến thì “QLNN là sự tác
động có tổ chức và điều chỉnh bằng quyền lực của nhà nước đối với quá trình
xã hội và các hành vi hoạt động của con người để duy trì và phát triển các mối
quan hệ xã hội và trật tự pháp luật nhằm thực hiện chức năng, nhiệm vụ của
nhà nước và các mục tiêu đã xác định trong từng giai đoạn phát triển của đất
nước”[10].
Với định nghĩa trên, xét theo nghĩa rộng, QLNN là hoạt động tổ chức,
điều hành của cả bộ máy nhà nước, là sự tác động, tổ chức của quyền lực nhà
nước trên các phương diện lập pháp, tư pháp và hành pháp. Với cách hiểu
này, QLNN là hoạt động của cả ba hệ thống cơ quan nhà nước: cơ quan lập
pháp, cơ quan tư pháp, cơ quan hành pháp. Đồng thời, với nghĩa rộng, QLNN
có các đặc điểm sau đây:
- Chủ thể QLNN: là các cơ quan, công chức trong bộ máy nhà nước
được trao quyền lực công gồm quyền lập pháp, quyền hành pháp và quyền tư
pháp.
- Đối tượng quản lý của nhà nước: là tất cả các cá nhân, tổ chức sinh

sống và hoạt động trong phạm vi lãnh thổ quốc gia.


19

- QLNN có tính toàn diện trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội:
chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh, quốc phòng, ngoại giao…
Theo nghĩa hẹp, QLNN chủ yếu là quá trình tổ chức, điều hành của hệ
thống cơ quan hành chính nhà nước đối với các quá trình xã hội và hành vi
hoạt động của con người theo pháp luật nhằm đạt được những mục tiêu, yêu
cầu và nhiệm vụ QLNN.
Như vậy, QLNN theo nghĩa rộng được thực hiện thông qua hoạt động
của cả 3 cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp. Còn theo nghĩa hẹp, QLNN
giới hạn bởi các hoạt động quản lý có tính chất nhà nước được thực hiện bởi
cơ quan hành pháp (Chính phủ) nhằm đạt tới các mục tiêu KT-XH đặt ra.
Trong phạm vi nghiên cứu, luận văn tiếp cận QLNN theo nghĩa hẹp.
1.1.3.2. Khái niệm QLNN về ứng dụng CNTT trong hoạt động DTQG
Từ khái niệm và đặc điểm QLNN ở trên, có thể khái quát QLNN về ứng
dụng CNTT trong hoạt động DTQG là việc nhà nước sử dụng quyền lực công
để điều chỉnh các hoạt động ứng dụng CNTT nhằm phát huy hiệu quả cao
nhất của ứng dụng CNTT vào hoạt động dự trữ quốc gia và các hoạt động
khác có liên quan nhằm nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả của các hoạt
động này.
Đó là việc Nhà nước xây dựng và ban hành các văn bản quy phạm pháp
luật tạo cơ sở pháp lý, xây dựng, tổ chức bộ máy, nguồn nhân lực làm công
tác ứng dụng CNTT trong hoạt động DTQG, ban hành các chủ trương chính
sách và các quy định, quy chuẩn kỹ thuật về ứng dụng CNTT trong hoạt động
DTQG để đảm bảo cho ứng dụng CNTT phát huy hiệu quả cao nhất nhằm
phát triển KT-XH, đảm bảo an ninh quốc phòng và thúc đẩy cải cách hành
chính. Cùng với đó là việc xây dựng và ban hành các chương trình, kế hoạch

tổng thể về ứng dụng CNTT, công tác thanh tra, kiểm tra việc thực hiện các
quy định của Nhà nước về ứng dụng CNTT trong hoạt động DTQG.


20

1.2. Mục đích, nguyên tắc, phương pháp và công cụ quản lý nhà
nước về ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động dự trữ quốc gia
1.2.1. Mục đích của quản lý nhà nước về ứng dụng
công nghệ thông tin
Mục đích của QLNN đối với ứng dụng CNTT trong hoạt động DTQG là
để đảm bảo phát huy tối đa hiệu quả của ứng dụng CNTT trong hoạt động
DTQG của các ngành, các cấp, các cơ quan, đơn vị, địa phương. Từ đó, phát huy
tốt nhất vai trò của CNTT đối với hoạt động DTQG nói riêng và quá trình phát
triển KT-XH của đất nước nói chung. Biểu hiện cụ thể trên các mặt sau:
Thứ nhất, đảm bảo hoạt động ứng dụng CNTT trong hoạt động DTQG
tại các cơ quan, đơn vị theo đúng mục tiêu, định hướng phát triển của ngành,
lĩnh vực. Với việc xây dựng hệ thống thể chế, các chương trình, kế hoạch, cơ
chế, chính sách ứng dụng CNTT sẽ giúp cho các hoạt động ứng dụng CNTT
đi đúng quỹ đạo, tạo ra hành lang pháp lý khuyến khích thúc đẩy mọi nguồn
lực xã hội, trong và ngoài nước đầu tư phát triển CNTT.
Thứ hai, đảm bảo tổ chức quản lý và sử dụng có hiệu quả tài nguyên
thông tin, cơ sở dữ liệu quốc gia trong hoạt động DTQG. Với việc chỉ đạo,
điều tiết việc chia sẻ, khai thác thông tin cũng như chia sẻ, khai thác cơ sở dữ
liệu quốc gia, cơ quan quản lý nhà nước bảo đảm cho việc truy cập và sử dụng
thuận lợi các thông tin số. Đồng thời, cơ quan quản lý nhà nước cũng sẽ theo
dõi, giám sát việc thực hiện chia sẻ, khác thác thông tin số để kịp thời xử lý các
trường hợp vi phạm.
Thứ ba, đảm bảo an toàn, an ninh thông tin trong hoạt động ứng dụng
CTTT trong hoạt động DTQG. Nhà nước xây dựng các cơ chế chính sách,

quy định về an toàn, an ninh thông tin, đầu tư trang thiết bị, đào tạo đội ngũ
cán bộ, tăng cường công tác thanh, kiểm tra các hoạt động liên quan đến công
tác đảm bảo an toàn, an ninh thông tin.
1.2.2. Nguyên tắc quản lý nhà nước về ứng dụng công nghệ thông tin
Nguyên tắc QLNN về ứng dụng CNTT trong hoạt động DTQG không


21

phải do nhà nước hay một cơ quan nào đặt ra mà được hình thành trên cơ sở
đòi hỏi của tình hình thực tế khách quan, bao gồm các quy tắc chỉ đạo, những
tiêu chuẩn hành vi mà các cơ quan QLNN phải tuân thủ trong quá trình quản
lý ứng dụng CNTT.
Theo quan điểm hiện nay của Đảng ta, có các nguyên tắc quản lý ứng
dụng CNTT trong hoạt động DTQG là:
- Quản lý theo ngành kết hợp với địa bàn
Nguyên tắc này đòi hỏi QLNN về ứng dụng CNTT trong hoạt động
DTQG theo ngành và quản lý theo lãnh thổ phải được phối hợp, gắn bó với
nhau trên tất cả mọi lĩnh vực, có trách nhiệm chung trong việc hoàn thành kế
hoạch của ngành cũng như của lãnh thổ, đảm bảo hài hòa lợi ích của các bên
theo quy định của pháp luật.
- Tập trung dân chủ
“Tập trung dân chủ là nguyên tắc quan trọng nhất chỉ đạo mọi hoạt động
tổ chức, sinh hoạt nội bộ và phong cách làm việc của bộ máy nhà nước” [10].
Đối với ứng dụng CNTT trong hoạt động DTQG, nguyên tắc tập trung dân
chủ được thể hiện trong việc Chính phủ thống nhất quản lý nhà nước về ứng
dụng CNTT, đồng thời, Chính phủ giao quyền hạn và trách nhiệm cho Bộ
Thông tin và Truyền thông chịu trách nhiệm trước Chính phủ trong việc chủ
trì, phối hợp với các Bộ, cơ quan ngang Bộ, Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành
phố trực thuộc TW thực hiện quản lý nhà nước về ứng dụng CNTT.

- Hiệu quả, tiết kiệm
Yêu cầu của nguyên tắc hiệu quả, tiết kiệm trong QLNN về ứng dụng
CNTT là phải đạt được kết quả của các hoạt động ứng dụng CNTT cao nhất
trong phạm vi có thể được. Để thực hiện được nguyên tắc này thì Nhà nước
cần phải có đường lối, chiến lược phát triển ứng dụng CNTT đúng đắn, phù
hợp với đòi hỏi của các quy luật khách quan; xây dựng và thực hiện các quy
hoạch và kế hoạch về ứng dụng CNTT chuẩn xác để thực hiện đạt hiệu quả


×