Tải bản đầy đủ (.docx) (98 trang)

luận văn thạc sĩ quản lý nhà nƣớc về môi trƣờng đối với các làng nghề trên địa bàn tỉnh bắc ninh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (518.17 KB, 98 trang )

1
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan:
(i) Luận văn này là công trình nghiên cứu của tôi
(ii) Các số liệu trong luận văn là chính xác, trung thực
(iii) Tôi xin chịu trách nhiệm về kết quả nghiên cứu của mình
Tác giả

Nguyễn Thị Ánh Tuyết


2

LỜI CẢM ƠN
“Trong quá trình viết luận văn, tác giả đã nhận được rất nhiều sự quan tâm,
động viên và giúp đỡ của thầy cô giáo, gia đình, bạn bè, đồng nghiệp để hoàn thành
chương trình cao học và luận văn thạc sỹ.
Trước tiên, tôi xin gửi lời cảm ơn sâu sắc tới tập thể cán bộ, giảng viên của
Trường Đại học Thương mại đã tạo điều kiện cho tôi trong suốt quá trình học tập
chương trình Thạc sỹ chuyên ngành Quản lý Kinh tế Khóa 22A tại Nhà trường.
Tôi xin trân trọng cảm ơn PGS.TS Nguyễn Thị Nguyên Hồng đã tận tình
hướng dẫn và có những ý kiến đóng góp giúp tôi hoàn thành luận văn này.
Tôi xin cảm ơn các cơ quan, tổ chức, đồng nghiệp, bạn bè, gia đình đã tạo điều
kiện giúp đỡ tôi trong suốt quá trình hoàn thiện luận văn.
Do thời gian có hạn và kinh nghiệm nghiên cứu khoa học chưa nhiều nên luận
văn vẫn còn những điểm thiếu sót. Rất mong nhận được sự đóng góp của Quý
Thầy/Cô và các anh chị học viên.”
Xin trân trọng cảm ơn!
Hà Nội, tháng 11 năm 2017
Tác giả


Nguyễn Thị Ánh Tuyết


3
MỤC LỤC


4

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

Từ viết tắt

Nghĩa của từ viết tắt

BVMT

Bảo vệ môi trường

CCN

Cụm công nghiệp

CHXHCN

Cộng hòa xã hội chủ nghĩa

CN

Công nghiệp


CNH-HĐH

Công nghiệp hóa – Hiện đại hóa

CNXH

Chủ nghĩa xã hội

CSSX

Cơ sở sản xuất

KT-XH

Kinh tế - Xã hội

MT

Môi trường

NN&PTNT

Nông nghiệp và phát triển nông thôn

QCCP

Quy chuẩn cho phép

QCVN


Quy chuẩn Việt Nam

QLMT

Quản lý môi trường

QLNN

Quản lý nhà nước

SX

Sản xuất

TN&MT

Tài nguyên và môi trường

TTQT

Trung tâm quan trắc

UBND

Ủy ban nhân dân

XHCN

Xã hội chủ nghĩa



5

DANH MỤC BẢNG, BIỂU
BẢNG

BIỂU
DANH MỤC HÌNH VẼ

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết nghiên cứu đề tài:
“Bắc Ninh là một trong những tỉnh có nhiều làng nghề có lịch sử tồn tại hàng
trăm năm, được phân bố rộng khắp trên địa bàn các huyện trong tỉnh. Hiện nay toàn
tỉnh có 62 làng nghề, trong đó có 30 làng nghề truyền thống và 32 làng nghề mới
với những sản phẩm nổi tiếng như sắt thép (Đa Hội, Châu Khê), giấy (Phong Khê,
Phú Lâm), nấu rượu (Đại Lâm, Tam Đa), đồ gỗ mỹ nghệ (Đồng Kỵ)...”
“Sự tồn tại và phát triển của các làng nghề đã góp phần quan trọng, thúc đẩy
sự phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh. Hàng năm, các làng nghề đóng góp một phần
không nhỏ vào ngân sách nhà nước, tạo việc làm tại chỗ và thu hút hàng chục nghìn
lao động nông thôn và các vùng phụ cận. Trong những năm qua, Bắc Ninh đã khôi
phục các làng nghề cũ, xây dựng các làng nghề mới, hình thành các cụm công
nghiệp theo ngành hàng đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế và là mục tiêu, động lực
thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, lao động trong nông nghiệp, phù hợp
với chủ trương của Đảng và Chính phủ về quá trình công nghiệp hóa - hiện đại hóa
(CNH-HĐH) nông nghiệp và nông thôn.”
“Tuy nhiên, đa số các làng nghề có quy mô sản xuất nhỏ lẻ, dây chuyền công


6


nghệ mang tính thủ công, lạc hậu, tiêu tốn nhiều nguyên, nhiên liệu để tạo ra một
đơn vị sản phẩm. Đặc biệt, các cơ sở sản xuất trực tiếp trong các làng nghề chưa
đầu tư xây dựng công trình xử lý nước thải, không có các hạng mục, công trình bảo
vệ môi trường (BVMT) theo quy định, nên song song với sự phát triển nhanh chóng
về kinh tế là tình trạng ô nhiễm môi trường đang ngày càng trở nên nghiêm trọng,
làm ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống và sức khỏe người dân, nhất là thế hệ tương
lai. Kết quả điều tra khảo sát chất lượng môi trường (MT) tại một số làng nghề điển
hình trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh trong các năm qua cho thấy các mẫu nước mặt,
nước ngầm đều có dấu hiệu ô nhiễm; môi trường không khí bị ô nhiễm có tính cục
bộ tại nơi trực tiếp sản xuất, nhất là ô nhiễm bụi vượt tiêu chuẩn cho phép và ô
nhiễm do sử dụng nguyên liệu hóa thạch, đất đai bị xói mòn, thoái hóa; chất lượng
các nguồn nước suy giảm mạnh.”
Với định hướng phát triển của tỉnh đến năm 2020 là chủ động phát triển kinh
tế theo hướng công nghiệp hoá gắn liền với BVMT, MT được cải thiện, cơ bản
không còn tình trạng ô nhiễm ở các làng nghề,“phục hồi suy thoái và nâng cao chất
lượng MT, làm cho mọi người dân được sống trong MT có chất lượng tốt; chủ động
thực hiện và đáp ứng các yêu cầu trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế.”Vì vậy,
học viên chọn đề tài: “Quản lý nhà nước về môi trường đối với các làng nghề
trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh” làm đề tài nghiên cứu luận văn thạc sỹ nhằm tìm ra
các biện pháp quản lý nhằm giảm thiểu ô nhiễm môi trường đối với các làng nghề.
2. Tổng quan các công trình nghiên cứu liên quan
Đã có một số sách, luận văn và đề tài nghiên cứu liên quan đến vấn đề này,
nhưng ở mức độ nặng về thông tin, tình hình triển khai áp dụng mô hình các khu
công nghiệp trên thế giới và ở Việt Nam. Trong khi đó, việc tổ chức quản lý về môi
trường các làng nghề thay đổi phụ thuộc vào điều kiện xã hội của từng địa phương,
mức độ thành công khác nhau ở các vùng và các thời kỳ khác nhau. Trước đó TS.
Nguyễn Văn Sáng (2008) – Đại học Thương Mại đã có đề tài nghiên cứu khoa học
”Một số giải pháp hạn chế ô nhiễm môi trường tại các làng nghề vùng Từ Sơn, Yên
Phong tỉnh Bắc Ninh”. Công trình nghiên cứu thực trạng ô nhiễm môi trường tại các

khu vực Từ Sơn, Yên Phong. Tác giả đưa ra kết quả phân tích môi trường nước, môi


7

trường không khí, môi trường đất tại 3 làng nghề; làng gỗ Đồng Kỵ, làng giấy
Phong Khê, làng đúc đồng Văn Môn; đồng thời tác giả đưa ra các con số về tỉ lệ
người mắc các bệnh về đường hô hấp, da liễu, đường ruột của người dân sống trong
làng nghề này cao hơn hẳn tỉ lệ trung bình của cả nước. Qua đó tác giả đưa ra các
giải pháp mang tính khoa học về hồ sinh học, xử lý nước thải bằng ánh nắng mặt
trời, xử lý nước thải theo điều kiện kỵ khí.
Nguyễn Thị Hương Lan (2008) ”Hoàn thiện quản lý nhà nước nhằm phát
triển các làng nghề Hà Tây trong giai đoạn hiện nay” – Luận văn thạc sỹ kinh tế,
Đại học thương mại. Tác giả đi sâu phân tích thực trạng công tác quản lý nhà nước
đối với việc phát triển nghề và làng nghề Hà Tây bao gồm quản lý vĩ mô của Chính
phủ, của các Bộ; và công tác tổ chức chỉ đạo, hướng dẫn, kiểm tra các chính sách
của Hà Tây. Từ đó tác giả đề xuất các giải pháp về quy hoạch, cơ chế chính sách về
thị trường, lao động, vốn, công nghệ, môi trường nhằm phát triển các làng nghề
trong tỉnh.
Trần Văn Khánh (2012) ”Đánh giá thực trạng môi trường làng nghề và thực
hiện chính sách pháp luật về bảo vệ môi trường làng nghề tại một số tỉnh Bắc Bộ” –
Luận văn thạc sỹ môi trường, Trung tâm nghiên cứu tài nguyên và môi trường.
Luận văn là một cái nhìn khái quát bức tranh toàn cảnh làng nghề Việt Nam về sự
phân bổ, xu thế pháp triển và các áp lực môi trường. Tác giả đã sử dụng phương
pháp khảo sát thực địa, điều tra phỏng vấn kết hợp với thống kê, tổng hợp để đưa ra
kết quả đánh giá hiện trạng môi trường làng nghề tại 5 tỉnh gồm: Hà Nội, Bắc Ninh,
Hải Dương, Hưng Yên, Nam Định. Kết quả phân tích mẫu nước, kết quả quan trắc
môi trường không khí, chỉ tiêu chất thải, phân tích mẫu đất đều cho thấy lượng thải
vượt quá tiêu chuẩn cho phép, tình trạng ô nhiễm môi trường báo động tại các làng
nghề thuộc 5 tỉnh trên.

Ngô Thành Trung (2014) ”Quản lý nhà nước đối với các làng nghề trên địa
bàn tỉnh Bắc Ninh” – Luận văn thạc sỹ, Đại học Kinh tế - Đại học Quốc gia Hà Nội.
Tác giả đã vạch rõ cho ta thấy cơ sở lý luận về làng nghề và quản lý nhà nước đối
với làng nghề tại địa phương. ”Qua đó, phân tích quá trình hình thành, phát triển các
làng nghề và đánh giá thực trạng quản lý nhà nước đối với các làng nghề trong giai


8

đoạn từ năm 2007-2014. Tác giả đã nếu ra được nguyên nhân khách quan, chủ quan
của công tác quản lý nhà nước đối với các làng nghề.”Từ đó, đề xuất những định
hướng, quan điểm cơ bản, các giải pháp chủ yếu nâng cao chất lượng quản lý nhà
nước đối với các làng nghề đến năm 2020 và tầm nhìn đến 2030 nhằm khai thác tối
đa các tiềm năng, lợi thế so sánh của địa phương.
Ngoài ra còn một số công trình nghiên cứu khoa học khác như: Luận án tiến
sỹ của tác giả Nguyễn Thị Thùy (2012) ”Đánh giá thực trạng và đề xuất giải pháp
giảm thiểu ô nhiễm môi trường tại các cụm công nghiệp làng nghề tỉnh Vĩnh Phúc”,
Phạm Duy Hiếu (2010) ”Vấn đề ôn nhiễm môi trường tại các làng nghề và giả
pháp” - Tạp chí Thương Mại.
”Nhìn chung các công trình nghiên cứu kể trên đã đi nghiên cứu những khía
cạnh khác nhau của làng nghề, môi trường làng nghề và công tác quản lý nhà nước
(QLNN) đối với các làng nghề. Tuy nhiên cho đến nay chưa có công trình nào
nghiên cứu chuyên sâu về khía cạnh QLNN đối với môi trường làng nghề. Bài
nghiên cứu này của học viên sẽ kế thừa những cơ sở lý luận của các công trình
nghiên cứu trên kết hợp với các văn bản pháp luật hiện hành song sẽ đi sâu vào vấn
đề QLNN về môi trường đối với các làng nghề tại một địa phương.”
3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu:
Mục tiêu nghiên cứu:
”Mục tiêu nghiên cứu của đề tài là đề xuất một số giải pháp và kiến nghị nhằm
hoàn thiện công tác QLNN về môi trường đối với các làng nghề trên địa bàn tỉnh

Bắc Ninh.”
Nhiệm vụ nghiên cứu:
“Hệ thống hóa một số vấn đề cơ sở lý luận và thực tiễn về QLNN về môi
trường đối với các làng nghề.
- Phân tích và đánh giá thực trạng QLNN về môi trường đối với làng nghề trên
địa bàn tỉnh Bắc Ninh; từ đó đánh giá những mặt đạt được, những hạn chế và
nguyên nhân trong công tác QLNN về môi trường đối với các làng nghề.
- Đề xuất một số giải pháp, kiến nghị có tính khả thi nhằm hoàn thiện quản lý
nhà nước về môi trường đối với các làng nghề trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh.”


9

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
4.1 Đối tượng nghiên cứu:
Đề tài tập trung nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn của công tác
quản lý nhà nước về môi trường đối với các làng nghề của một địa phương.
4.2 Phạm vi nghiên cứu:
- Về nội dung:
“Do lĩnh vực nghiên cứu của đề tài rộng nên học viên giới hạn và tập trung
nghiên cứu về cơ sở lý luận và thực trạng về nội dung công tác QLNN về môi
trường làng nghề tại tỉnh Bắc Ninh, mà cụ thể là một số nội dung cơ bản trong công
tác QLNN về bảo vệ môi trường của Sở Tài nguyên và môi trường tỉnh Bắc Ninh;
Chi cục Bảo vệ môi trường tỉnh Bắc Ninh; Xây dựng và triển khai thực hiện các văn
bản pháp luật về quản lý môi trường làng nghề; Xây dựng quy hoạch, kế hoạch và
chiến lược phát triển làng nghề của địa phương; Xây dựng các chính sách về bảo vệ
môi trường làng nghề của địa phương; Thanh tra, kiểm tra, giám sát và xử lý vi
phạm về bảo vệ môi trường làng nghê địa phương; Đào tạo nhân lực khoa học và
quản lý môi trường; giáo dục, tuyên truyền, phổ biến kiến thức, pháp luật về bảo vệ
môi trường làng nghề địa phương.”

- Về không gian: Giới hạn nghiên cứu trên địa bàn các cụm công nghiệp tỉnh Bắc
Ninh.
- Về thời gian: Các số liệu thực trạng được thu thập trong giai đoạn từ năm 2011
– 2016 và đề xuất giải pháp đến năm 2025.
5. Phương pháp nghiên cứu:
5.1. Phương pháp thu thập dữ liệu
“- Thu thập, tìm kiếm các dữ liệu liên quan đến cơ sở lý luận của đề tài ở các
sách, giáo trình, luận văn, luận án, bài báo khoa hoc,... Dữ liệu thứ cấp này dùng để
làm cơ sở lý luận QLNN về môi trường đối với làng nghề của một địa phương như
khái niệm về làng nghề, quản lý nhà nước về môi trường đối với làng nghề và nội
dung quản lý nhà nước về môi trường đối với làng nghề,...
- Thu thập, nghiên cứu văn bản pháp luật QLNN về môi trường, báo cáo tổng


10

kết, các số liệu thống kê liên quan, các đề án bảo vệ môi trường làng nghề của địa
phương,...để làm cơ sở đánh giá thực trạng vấn đề nghiên cứu. Các văn bản pháp
luật nhằm nghiên cứu thực trạng, ban hành và tổ chức thực hiện pháp luật liên quan.
Tổng hợp số liệu thu thập được và xử lý chúng thành dữ liệu cần thiết như kết
quả khảo sát môi trường đất, nước, không khí tại các làng nghề và các kết quả thực
hiên các chỉ tiêu để đánh giá đúng thực trạng tình hình ô nhiễm môi trường và công tác
QLNN về môi trường đối với các làng nghề tại địa phương trong những năm qua.
Đề tài cũng kế thừa kết quả nghiên cứu của các công trình có liên quan đồng
thời dựa vào đường lối, chủ trương của Đảng và chính sách của Nhà nước về lĩnh
vực bảo vệ môi trường.
5.2. Phương pháp phân tích dữ liệu
Phương pháp thống kê: được sử dụng để thống kê số liệu thu thập được nhằm
đánh giá thực trạng công tác QLNN về môi trường đối với các làng nghề trong địa
phương.

Phương pháp tổng hợp: Tổng hợp các số liệu về số lượng làng nghề, số hộ sản
xuất, số lượng lao động trong làng nghề, kết quả phân tích môi trường đất, nước,
không khí tại các làng nghề.
Phương pháp so sánh: Dùng để so sánh kết quả các chỉ tiêu, quy chuẩn về ô
nhiễm môi trường.
“Có thể nói học viên đã sử dụng nhiều phương pháp nghiên cứu và đã kết hợp,
sử dụng linh hoạt nhiều phương phương pháp trong các chương để giải quyết các
vấn đề một cách khách quan toàn diện.”
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
Về lý luận:
Hệ thống hóa được những lý luận cơ bản góp phần làm sáng tỏ thêm những
vấn đề về“quản lý môi trường tại các làng nghề.”
Về thực tiễn:
“Đối với người dân sống tại khu vực: Thông qua các thông tin về chỉ số ô


11

nhiễm môi trường, người dân có thể biết mình có nguy cơ mắc bệnh gì để phòng
tránh. Điều này hết sức có ý nghĩa đối với sức khỏe cộng đồng.
Bên cạnh đó, các nhà quản trị doanh nghiệp sẽ biết được tổ chức của mình có
đảm bảo các tiêu chuẩn về môi trường hay không, từ đó có hướng xử lý phù hợp.
Đối với những nhà quản lý: Những nghiên cứu và kết luận đề tài đưa ra phản
ánh những thành công và hạn chế của công tác quản lý môi trường tại các làng nghề
trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh. Qua đó, góp phần vào hoàn thiện công tác quản lý nhằm
giảm thiểu ô nhiễm môi trường tại các làng nghề, đảm bảo quản lý môi trường một
các chặt chẽ. Đây là cơ sở cho quá trình quản lý môi trường trong điều kiện hội
nhập kinh tế quốc tế sâu và rộng hiện nay.
Ngoài ra, luận văn có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo cho các cơ
quan và cá nhân trong việc nghiên cứu hoạch định chính sách quản lý môi trường

nói chung và tại các làng nghề nói riêng.”
7. Kết cấu luận văn:
“Nội dung luận văn được kết cấu làm 3 chương:
- Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn của quản lý nhà nước về môi trường
đối với các làng nghề.
- Chương 2: Thực trạng quản lý nhà nước về môi trường đối với các làng nghề
trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh.
- Chương 3: Giải pháp và kiến nghị hoàn thiện quản lý nhà nước về môi
trường đối với các làng nghề trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh.”


12

CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC
VỀ MÔI TRƯỜNG ĐỐI VỚI CÁC LÀNG NGHỀ
1.1. Một số khái niệm cơ bản
1.1.1. Làng nghề
1.1.1.1. Khái niệm về làng nghề
“Làng, theo định nghĩa của Từ điển Tiếng Việt, là một khối người quây quần ở
một nơi nhất định trong nông thôn. Làng là một tế bào của xã hội của người Việt, là
một tập hợp dân cư chủ yếu theo quan hệ láng giềng. Đó là một không gian lãnh thổ
nhất định, ở đó tập hợp những người dân quần tụ lại cùng sinh sống và sản xuất.
Trong quá trình đô thị hóa, khái niệm làng được hiểu một cách tương đối. Một số
địa phương hiện nay không còn được gọi là làng mà thay vào đó là những tên gọi
khác như phố, khối phố. Tuy nhiên, dù tên gọi là có thay đổi nhưng bản chất của
cộng đồng dân cư đó vẫn gắn với nông thôn thì vẫn được xem là làng.”
Các làng“ở nước ta được chia làm 4 loại chính:”
“- Làng thuần nông hay còn gọi là làng nông nghiệp, là những làng nghề nông
một cách thuần túy.

- Làng buôn bán, là làng làm nghề nông có thêm nghề buôn bán của một số
thương nhân chuyên nghiệp hoặc bán chuyên nghiệp.
- Làng nghề, là làng làm nghề nông nghiệp nhưng có thêm một số nghề thủ công.
- Làng chài, là làng của các cư dân làm nghề chài lưới, đánh cá sống ở ven
sông, ven biển.”
“Các nghề thủ công ở các làng quê lúc đầu chỉ là ngành nghệ phụ, chủ yếu
được nông dân tiến hành trong lúc nông nhàn. Về sau, các ngành nghề thủ công tách
dần khỏi nông nghiệp nhưng lại phục vụ trực tiếp cho nông nghiệp, khi đó người
thợ thủ công có thể không còn sản xuất nông nghiệp nhưng họ vẫn gắn chặt với làng
quê mình. Khi nghề thủ công phát triển, số người chuyên làm nghề thủ công và
sống được bằng nghề này tăng lên, điều nay diễn ra ngay trong các làng quê và đó
là cơ sở cho sự tồn tại của các làng nghề ở nông thôn.”


13

Theo Thông tư 116/2006/TT- BNN của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông
thôn: “Làng nghề là một hoặc nhiều cụm dân cư cấp thôn, ấp, bản, làng, buôn,
phum, sóc hoặc các điểm dân cư tương tự trên địa bàn một xã, thị trấn có các hoạt
động ngành nghề nông thôn, sản xuất ra một hoặc nhiều loại sản phẩm khác nhau”.
Như vậy“khái niệm làng nghề có thể bao gồm những nội dung”chính sau:
“Làng nghề là một thiết chế kinh tế - xã hội (KT-XH) ở nông thôn, được cấu thành
bởi hai yếu tố làng và nghề, tồn tại trong một không gian địa lí nhất định trong đó
bao gồm nhiều hộ gia đình sinh sống bằng nghề thủ công là chính, giữa họ có mối
liên kết chặt chẽ về KT - XH và văn hóa”.
1.1.1.2. Các tiêu chuẩn xác định làng nghề
Nhiều làng, xã ở Việt Nam tham gia sản xuất tiểu thủ công nghiệp nhưng
không thể xác định tất cả là làng nghề. Công việc xác định làng , xã nào đủ tiêu
chuẩn là làng nghề để có chính sách quản lý và hỗ trợ làng nghề phát triển ổn định
hơn là cần thiết. Do đó, các địa phương trong nước phải có tiêu chuẩn làng nghề

thống nhất.
“Năm 2006, Bộ nông nghiệp và phát triển nông thôn (NN&PTNT) đã ban
hành Thông tư số 116/2006/TT-BNN ngày 18/12/2006 hướng dẫn thực hiện một số
nội dung của Nghị định số 66/2006/NĐ-CP ngày 7/7/2006 về phát triển ngành nghề
nông thôn. Trong Thông tư này, Bộ NN&PTNT đã đưa ra 03 tiêu chuẩn của làng
nghề gồm: có tối thiểu 30% tổng số hộ trên địa bàn tham gia hoạt động ngành nghề
nông thôn; hoạt động sản xuất kinh doanh ổn định tối thiểu 2 năm tính đến thời
điểm đề nghị công nhận; chấp hành tốt chính sách, pháp luật của nhà nước.”
“Qua khảo sát làng nghề cho thấy tiêu chuẩn của Bộ NN&PTNT là phù hợp
với tình hình chung của các làng nghề ở Việt Nam. Các địa phương nên sử dụng
tiêu chuẩn làng nghề của Bộ NN&PTNT để tiến đến có một tiêu chuẩn làng nghề
thống nhất trên cả nước. Sử dụng tiêu chuẩn làng nghề chung trên cả nước sẽ giúp
công tác quản lý làng nghề ở các địa phương thống nhất. Tiêu chuẩn làng nghề cũng
cần điều chỉnh theo thời gian, được xây dựng dựa trên tiêu chí định lượng và định
tính, đồng thời phản ánh được các đặc điểm của làng nghề gồm:”


14

“- Nhóm yếu tố định lượng:
+ Tỷ lệ số hộ tham gia sản xuất (SX) ngành nghề so với tổng số hộ của làng
nghề.
+ Tỷ lệ số lao động tham gia SX ngành nghề so với tổng số lao động của
làng.
+ Tỷ lệ thu nhập của ngành nghề so với tổng thu nhập của dân cư ở làng nghề.
- Nhóm yếu tố định tính:
+ Sản phẩm có tính mỹ nghệ , mang đậm nét yếu tố văn hóa và bản sắc của
từng địa phương hoặc dân tộc.
+ SX theo những quy trình ổn định và được lưu truyền từ đời này sang đời
khác.

+ SX hàng hóa để đáp ứng thị trường với mục đích kinh doanh.”
“Trong các tiêu chí kể trên, tiêu chí tỷ lệ số hộ và lao động tham gia SX phi
nông nghiệp có thể chuyển sang tiêu chí số lượng hộ và lao động tham gia SX phi
nông nghiệp để tính toán, xác định và công nhận làng nghề đạt chuẩn thuận tiện
hơn.”
1.1.1.3. Các đặc điểm của làng nghề
“- Đặc điểm nổi bật nhất của các làng nghề là tồn tại ở nông thôn, gắn bó chặt
chẽ với nông nghiệp. các làng nghề xuất hiện trong từng làng - xã ở nông thôn sau
đó các ngành nghề thủ công nghiệp được tách dần nhưng không rời khỏi nông thôn,
SX nông nghiệp và sản xuất- kinh doanh thủ công nghiệp trong các làng nghề đan
xen lẫn nhau. người thợ thủ công trước hết và đồng thời là người nông dân.”
“- Hai là, công nghệ kỹ thuật sản xuất sản phẩm trong các làng nghề, đặc biệt là
các làng nghề truyền thống thường rất thô sơ, lạc hậu, sử dụng kỹ thuật thủ công là
chủ yếu. công cụ lao động trong các làng nghề đa số là công cụ thủ công, công nghệ
sản xuất mang tính đơn chiếc, nhiều loại sản phẩm có công nghệ - kỹ thuật hoàn toàn
phải dựa vào đôi bàn tay khéo léo của người thợ mặc dù hiện nay đã có sự cơ khí hoá
và điện khí hoá từng bước trong sản xuất, song cũng chỉ có một số không nhiều nghề
có khả năng cơ giới hoá được một số công đoạn trong sản xuất sản phẩm.”
“- Ba là, đại bộ phận nguyên vật liệu của các làng nghề thường là tại chỗ. hầu


15

hết các làng nghề truyền thống được hình thành xuất phát từ sự sẵn có của nguồn
nguyên liệu sẵn có tại chỗ, trên địa bàn địa phương. cũng có thể có một số nguyên
liệu phải nhập từ vùng khác hoặc từ nước ngoài như một số loại chỉ thêu, thuốc
nhuộm... song không nhiều.”
“- Bốn là, phần đông lao động trong các làng nghề là lao động thủ công, nhờ
vào kỹ thuật khéo léo, tinh xảo của đôi bàn tay, vào đầu óc thẩm mỹ và sáng tạo của
người thợ, của các nghệ nhân. Trước kia, do trình độ khoa học và công nghệ chưa

phát triển thì hầu hết các công đoạn trong quy trình sản xuất đều là thủ công, giản
đơn. Ngày nay, cùng với sự phát triển của khoa học - công nghệ, việc ứng dụng
khoa học - công nghệ mới vào nhiều công đoạn trong sản xuất của làng nghề đã
giảm bớt được lượng lao động thủ công, giản đơn. Tuy nhiên, một số loại sản phẩm
còn có một số công đoạn trong quy trình sản xuất vẫn phải duy trì kỹ thuật lao động
thủ công tinh xảo. Việc dạy nghề trước đây chủ yếu theo phương thức truyền nghề
trong các gia đinh từ đời này sang đời khác và chỉ khuôn lại trong từng làng. Sau
hoà bình lập lại, nhiều cơ sở quốc doanh và hợp tác xã làm nghề thủ công truyền
thống ra đời, làm cho phương thức truyền nghề và dậy nghề đã có nhiều thay đổi,
mang tính đa dạng và phong phú hơn.”
“- Năm là, sản phẩm làng nghề, đặc biệt là làng nghề mang tính đơn chiếc, có
tính mỹ thuật cao, mang đậm bản sắc văn hoá dân tộc. Các sản phẩm làng nghề
truyền thống vừa có giá trị sử dụng, vừa có giá trị thẩm mỹ cao, vì nhiều loại sản
phẩm vừa phục vụ nhu cầu tiêu dùng, vừa là vật trang trí trong nhà, đền chùa, công
sở nhà nước... các sản phẩm đều là sự kết giao giữa phương pháp thủ công tinh xảo
với sự sáng tạo nghệ thuật. Cùng là đồ gốm sứ, nhưng người ta vẫn có thể phân biệt
được đâu là gốm sứ Bát Tràng (Hà Nội), Thổ Hà (bắc ninh), Đông Triều (Quảng
Ninh). Từ những con rồng chạm trổ ở các đình chùa, hoa văn trên các trống đồng và
các hoạ tiết trên đồ gốm sứ đến những nét chấm phá trên các bức thêu... tất cả đều
mang vóc dáng dân tộc, quê hương, chứa đựng ảnh hưởng về văn hoá tinh thần,
quan niệm về nhân văn và tín ngưỡng, tôn giáo của dân tộc.”
“- Sáu là, thị trường tiêu thụ sản phẩm của các làng nghề hầu hết mang tính


16

địa phương, tại chỗ và nhỏ hẹp. Bởi sự ra đời của các làng nghề, đặc biệt là các làng
nghề truyền thống, là xuất phát từ việc đáp ứng nhu cầu về hàng tiêu dùng tại chỗ
của các địa phương. Ở mỗi một làng nghề hoặc một cụm làng nghề đều có các chợ
dùng làm nơi trao đổi, buôn bán, tiêu thụ sản phẩm của các làng nghề. Cho đến nay,

thị trường làng nghề về cơ bản vẫn là các thị trường địa phương, là tỉnh hay liên
tỉnh và một phần cho xuất khẩu.”
-“Bảy là, hình thức tổ chức sản xuất trong các làng nghề chủ yếu là ở quy mô hộ
gia đình, một số đã có sự phát triển thành tổ chức hợp tác và doanh nghiệp tư nhân.”
1.1.1.4 Phân loại làng nghề
“Các làng nghề ở Việt Nam có đặc điểm phong phú và đa dạng về nhiều mặt như
bề dày lịch sử, ngành nghề và sản phẩm. Do đó, các làng nghề có thể được phân loại
theo nhiều cách khác nhau. Dựa theo quy định của nhà nước và quan điểm của các nhà
nghiên cứu, làng nghề có thể được phân loại theo những cách chủ yếu sau:”
“- Phân loại theo nhóm ngành nghề, các làng nghề được chia thành:
+ Các làng nghề chế biến thực phẩm, nông, lâm và thủy sản như: Xay xát, làm
bún, làm bánh tráng, nấu rượu, nấu đường, sản xuất nước mắm,…
+ Các làng nghề sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ như: Gốm sứ mỹ nghệ, sơn
mài, thêu ren, chạm khắc gỗ, chạm khắc đá, thổ cẩm, vàng bạc, dệt tơ tằm,…
+ Các làng nghề sản xuất và sửa chữa cơ khí nhỏ như: Hàn, đúc đồng, gang,
nhôm,…
+ Các làng nghề sản xuất vật liệu xây dựng như: Gạch, ngói, thủy tinh,…
+ Các làng nghề sản xuất hàng tiêu dùng thông thường như: dệt chiếu, làm
nón, dệt vải, sản xuất giấy, đan rổ rá,…
+ Các làng nghề trồng cây và kinh doanh sinh vật cảnh.”
“- Phân loại theo lịch sử phát triển, các làng nghề được chia thành:
+ Làng nghề truyền thống: là các làng nghề xuất hiện từ lâu trong lịch sử và
tồn tại đến nay. Nhiều làng nghề truyền thống đã tồn tại hàng trăm năm. Nhiều địa
phương có làng nghề truyền thống như: Gốm sứ Bát Tràng ở Hà Nội,…
+ Làng nghề mới: là các làng nghề xuất hiện trong những năm gần đây. Làng
nghề mới được hình thành do sự nhân rộng hay du nhập từ địa phương khác. Một số


17


làng nghề mới ra đời từ chủ trương của địa phương để tạo việc làm cho lao động.”
“- Phân loại theo số lượng nghề, các làng nghề được chia thành:
+ Làng một nghề: là làng chuyên sản xuất một nghề phi nông nghiệp. Làng
một nghề chiếm tỷ lệ đa số ở Việt Nam.
+ Làng nhiều nghề: là làng làm từ hai nghề trở lên. Làng có nhiều nghề ít phổ
biến ở Việt Nam.
- Phân loại theo tình hình phát triển, các làng nghề được chia thành:”
+ Làng nghề phát triển tốt: là các làng nghề có tình hình kinh doanh ổn định.
Theo cách phân loại này thì số lượng các làng nghề có tình hình phát triển tốt ở Việt
Nam hiện không nhiều.
“+ Làng nghề kém phát triển: là các làng nghề kinh doanh cầm chừng hay có
nguy cơ mai một. Nhiều làng nghề ở Việt Nam có tình hình kinh doanh khó khăn,
cần có giải pháp phát triểnbền vững.”
Ngoài những cách phân loại trên, làng nghề có thể được phân loại theo sản
phẩm của làng nghề, số lượng hộ sản xuất hay thời gian phát triển.
1.1.1.5 Vai trò của làng nghề đối với phát triển kinh tế - xã hội ở Việt Nam
- Tạo việc làm cho người lao động và giảm thời gian nông nhàn ở nông thôn.
“Làng nghề đóng góp tích cực về tạo việc làm ở nhiều địa phương. Vì đặc điểm
chủ yếu của làng nghề là sản xuất thủ công và sử dụng nhiều sức lao động. Số lượng lao
động của các cơ sở sản xuất rất đa dạng, tùy theo quy mô của cơ sở sản xuất và nghành
nghề của làng nghề. Vai trò tạo việc làm của làng nghề được thấy rõ hơn qua ước tính
của Bộ Công thương là cứ xuất khẩu 1 triệu USD hàng thủ công mỹ nghệ thì tạo việc
làm cho khoảng 3000 - 4000 lao động, chủ yếu là lao động tại các làng nghề nông thôn,
trong đó có lao động nông nhàn tại chỗ và vùng lân cận. Trong khi chế biến hạt điều xuất
khẩu 1 triệu USD chỉ thu hút được 400 lao động . Báo cáo của Bộ NN&PTNT còn cho
thấy. Các làng nghề cả nước đã thu hút 1,4 hộ gia đình tham gia và tạo việc làm cho trên
10 triệu lao động”
- Tăng thu nhập và cải thiện đời sống cho người lao động
“Cùng với vai trò tạo việc làm cho người lao động, các làng nghề còn góp phần



18

tăng thu nhập cho các cơ sở sản xuất và cho người lao đông. Các làng nghề đã thu hút
phần lớn các hộ gia đình ỏ làng nghề tham gia sản xuất và trở thành cơ sở sản xuất của
làng nghề. Làng nghề còn mang lại việc làm và thu nhập cho nhiều loại lao động khác
nhau như lao động lớn tuổi, lao động trình độ thấp và lao động nông nhàn không thể rời
bỏ nông nghiệp ở nông thôn. Cải thiện đời sống cho người lao động và thúc đẩy quá
trình hiện đại hóa nông thôn và xây dựng nông thôn mới.
- Bảo tồn các giá trị văn hóa địa phương và phát triển du lịch.
Lịch sử phát triển làng nghề luôn gắn liền với quá trình phát triển kinh tế - xã hội
của Việt Nam. Làng nghề là phương thức sản xuất truyền thống, có bề dày lịch sử lâu
đời, là nơi hội tụ và kết tinh những nét văn hóa truyền thống đặc trưng của Việt Nam.
Làng nghề không chỉ là một nơi sản xuất hàng hóa mà còn là môi trường phát triền văn
hóa, kinh tế và xã hội, đồng thời là chiếc nôi của công nghệ truyền thống. Những nét văn
hóa này từ lâu không thể thiếu và làm phong phú văn hóa của Việt Nam. Làng nghề gắn
với giá trị văn hóa và lịch sử của các địa phương nên có thể phát triển du lịch làng nghề
để thu hút du khách. Làng nghề có quan hệ với ngành du lịch ở nhiều mặt và có triển
vọng về du lịch rất lớn. Làng nghề làm đa dạng sản phẩm và tăng nguồn thu của ngành
du lịch. Ngược lại ngành du lich góp phần quảng bá và hỗ trợ tiêu thụ cho làng nghề. Vì
vậy, phát triển làng nghề có ý nghĩa tích cực để bảo tồn những giá trị văn hóa truyền
thống và góp phần phát triển du lịch của nhiều địa phương ở Việt Nam.”
- Thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế và quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa
ở nông thôn.
“Nhờ làng nghề mà nhiều hộ gia đình và lao động ở làng nghề có việc làm và thu
nhập ổn định đời sống. Làng nghề có các cơ sở sản xuất quy mô nhỏ chiếm đa số nhưng
xuất khẩu được sản phẩm là kết quả rất có ý nghĩa, cần được thúc đẩy. Làng nghề cũng
góp phần thay đổi cơ cấu thu nhập ở nông thôn. Nhiều hộ gia đình ở làng nghề sống và
có thu nhập chính từ sản xuất phi nông nghiệp. Làng nghề còn thay đổi cơ cấu sản xuất
hàng hóa của địa phương theo hướng tăng giá trị sản xuất tiểu thủ công nghiệp và giảm tỉ

trọng giá trị nông nghiệp. Như vậy, làng nghề góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế và
thúc đẩy quá trình CNH-HĐH ở nông thôn. Làng nghề làm thay đổi cơ cấu sản xuất, lao


19

động, việc làm, giá trị sản xuất và thu nhập của dân cư theo hướng tăng dần tỷ trọng sản
xuất tiểu thủ công nghiệp, chuyển bớt lao động từ sản xuất nông nghiệp sang các ngành
nghề phi nông nghiệp có thu nhập cao hơn.”
1.1.2. Quản lý nhà nước
1.1.2.1 Khái niệm quản lý nhà nước
Theo giáo trình quản lý hành chính nhà nước: “Quản lý nhà nước là sự tác động
có tổ chức và điều chỉnh bằng quyền lực Nhà nước đối với các quá trình xã hội và hành
vi hoạt động của con người để duy trì và phát triển các mối quan hệ xã hội và trật tự
pháp luật nhằm thực hiện những chức năng và nhiệm vụ của Nhà nước trong công cuộc
xây dựng CNXH và bảo vệ tổ quốc XHCN”. [10, Tr. 407]”
“Như vậy, QLNN là hoạt động mang tính chất quyền lực nhà nước, được sử dụng
quyền lực nhà nước để điều chỉnh các quan hệ xã hội. QLNN được xem là một hoạt
động chức năng của nhà nước trong quản lý xã hội và có thể xem là hoạt động chức năng
đặc biệt quản lý nhà nước được hiểu theo hai nghĩa.
Theo nghĩa rộng: QLNN là toàn bộ hoạt động của bộ máy nhà nước, từ hoạt động
lập pháp, hoạt động hành pháp, đến hoạt động tư pháp.
Theo nghĩa hẹp: QLNN chỉ bao gồm hoạt động hành pháp.
QLNN được đề cập trong đề tài này là khái niệm QLNN theo nghĩa rộng; QLNN
bao gồm toàn bộ các hoạt động từ ban hành các văn bản luật, các văn bản mang tính luật
đến việc chỉ đạo trực tiếp hoạt động của đối tượng bị quản lý và vấn đề tư pháp đối với
đối tượng quản lý cần thiết của Nhà nước. Hoạt động QLNN chủ yếu và trước hết được
thực hiện bởi tất cả các cơ quan nhà nước, song có thể các tổ chức chính trị - xã hội, đoàn
thể quần chúng và nhân dân trực tiếp thực hiện nếu được nhà nước uỷ quyền, trao quyền
thực hiện chức năng của nhà nước theo quy định của pháp luật.”

1.1.2.2. Đặc điểm quản lý nhà nước
Từ khái niệm trên về quản lý nhà nước ta rút ra các đặc điểm của quản lý nhà
nước như sau:
- QLNN mang tính quyền lực đặc biệt, tính tổ chức cao và tính mệnh lệnh đơn
phương của nhà nước. QLNN được thiết lập trên cơ sở mối quan hệ “quyền uy” và “sự


20

phục tùng”.
“- QLNN mang tính tổ chức và điều chỉnh. Tổ chức ở đây được hiểu như một khoa
học về việc thiết lập những mối quan hệ giữa con người với con người nhằm thực hiện
quá trình quản lý xã hội. Tính điều chỉnh được hiểu là nhà nước dựa vào các công cụ
pháp luật để buộc đối tượng bị quản lý phải thực hiện theo quy luật xã hội khách quan
nhằm đạt được sự cân bằng trong xã hội.”
“- QLNN mang tính khoa học, tính kế hoạch. Đặc trưng này đỏi hỏi nhà nước phải
tổ chức các hoạt động quản lý của mình lên đối lên đối tượng quản lý phải có một
chương trình nhất quán, cụ thể và theo những kế hoạch được vạch ra từ trước trên cơ sở
nghiên cứu một cách khoa học.
- QLNN là những tác động mang tính liên tục, và ổn định lên các quá trình xã hội
và hệ thống các hành vi xã hội. Cùng với sự vận động biến đổi của đối tượng quản lý,
hoạt động quản lý nhà nước phải diễn ra thường xuyên, liên tục, không bị gián đoạn. Các
quyết định của nhà nước phải có tính ổn định, không được thay đổi quá nhanh. Việc ổn
định của các quyết định của nhà nước giúp cho các chủ thể quản lý có điều kiện kiện
toàn hoạt động của mình và hệ thống hành vi xã hội được ổn định.”
1.1.3. Quản lý nhà nước về môi trường đối với làng nghề
1.1.3.1. Khái niệm quản lý môi trường
Quản lý môi trường là tổng hợp các biện pháp, pháp luật, chính sách kinh tế,
kỹ thuật, xã hội thích hợp nhằm bảo vệ chất lượng môi trường sống và phát triển
bền vững kinh tế xã hội quốc giá

Các nguyên tắc quản lý môi trường là các quy tắc chỉ đạo những tiêu chuẩn
hành vi mà các chủ thể quản lý (các tổ chức, các cơ quan, các nhà lãnh đạo) phải
tuân thủ trong suốt quá trình quản lý môi trường.
1.1.3.2. Các mục tiêu của quản lý môi trường
Mục“tiêu của quản lý môi trường là phát triển bền vững giữ được hài hòa giữa
phát triển kinh tế và bảo vệ môi trường. Hay nói một cách khác phát triển kinh tế để


21

tạo ra kinh phí và tiềm lực để bảo vệ môi trường tạo ra các tiềm năng tự nhiên và xã
hội mới cho công cuộc phát triển kinh tế trong tương lai. Tùy thuộc vào điều kiện tự
nhiên, kinh tế xã hội, hệ thống pháp lý, mục tiêu phát triển ưu tiên của từng quốc
gia, mục tiêu quản lý môi trường có thể thay đổi theo thời gian và có”những ưu tiên
riêng đối với mỗi quốc gia.
Mục tiêu cơ bản của công tác bảo vệ môi trường ở nước ta trong giai đoạn công
nghiệp hóa, hiện đại hóa hiện nay là: “Ngăn ngừa ô nhiễm môi trường, phục hồi và cải
thiện môi trường của những nơi, những vùng bị suy thoái bảo tồn đa dạng sinh học,
từng bước nâng cao chất lượng môi trường ở các khu công nghiệp, đô thị và nông thôn
góp phần phát triển kinh tế xã hội bền vững, nâng cao chất lượng đời sống”của nhân
dân, tiến hành thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
- Đối tượng quản lý môi trường: Điều tiết các lợi ích sao cho hài hòa trên
nguyên tắc ưu tiên lợi ích của quốc gia, của toàn xã hội.
- Mục tiêu của quản lý môi trường:
+ Một là: khắc phục và phòng chống suy thoái
+ Hai là: Phát triển bền vững theo 9 nguyên tắc của một xã hội bền vững
+ Ba là: xây dựng các công cụ quản lý môi trường có hiệu lực quốc gia và các
vùng lãnh thổ.
1.1.3.3. Cơ sở của quản lý môi trường
- Cơ sở triết học

“Trong triết học người ta bàn nhiều về nguyên lý thống nhất của thế giới vật
chất, trong đó sự gắn bó chặt chẽ giữa tự nhiên, con người và xã hội thành một hệ
thống nhất, yếu tố con người giữ vai trò quan trong. Sự thống nhất của hệ thống
được thực hiện trong các chu trình Sinh Địa hóa của 5 thành phần cơ bản:”
“+ Sinh vật sản xuất (tảo và cây xanh) có chức năng tổng hợp chất hữu cơ từ
các chất vô cơ dưới tác động của quá trình quang hợp.
+ Sinh vật tiêu thụ là toàn bộ động vật sử dụng chất hữu cơ có sẵn, tạo ra các
chất thải, chúng chuyển thành các chất vô cơ đơn giản.
+ Con người và xã hội loài người.
+ Các chất vô cơ và hữu cơ cần thiết cho sự sống của sinh vật và con người
với số lượng ngày càng tăng.”
Tính thống nhất của hệ thống “Tự nhiên – Con người – Xã hội” đòi hỏi việc


22

giải quyết vấn đề môi trường và thực hiện công tác quản lý môi trường phải mang
tính toàn diện và hệ thống.“Con người cần phải nắm bắt cội nguồn của sự thống
nhất đó, phải đưa ra được những phương sách thích hợp để giải quyết các mâu
thuẫn nẩy sinh trong hệ thống. Bởi lẽ con người đã góp phần quan trọng vào việc
phá vỡ tất yếu khách quan là sự thống nhất biện chứng giữa Tự nhiên – Con người –
Xã hội. Chính vì vậy khoa học về quản lý môi trường hay sinh thái nhân văn chính
là sự tìm kiếm của con người nhằm nắm bắt và giải quyết các mâu thuẫn, tính thống
nhất của hệ thống Tự nhiên – Con người – Xã hội.”
- Cơ sở khoa học, công nghệ của quản lý môi trường
“Khoa học về môi trường xuất hiện và được phát triển mạnh từ những năm
1960 trở lại đây, làm cơ sở cho nghiên cứu, đúc rút kinh nghiệm, phát hiện những
nguyên lý môi trường giúp cho việc thực hiện quản lý môi trường. Nhờ những kỹ
thuật và công nghệ môi trường, các vấn đề ô nhiễm do hoạt động sản xuất của con
người đang được nghiên cứu, xử lý hoặc phòng tránh, ngăn ngừa. Các kỹ thuật phân

tích, đo đạc, giám sát chất lượng môi trường như kỹ thuật viễn thám, tin học được
phát triển ở nhiều quốc gia trên thế giới giúp cho việc Quản lý môi trường hiệu quả
hơn.”
- Cơ sở kinh tế của hoạt động quản lý môi trường
Hiện nay“Quản lý môi trường được hình thành trong bối cảnh của nền kinh
tế thị trường và thực hiện điều tiết xã hội thông qua các công cụ kinh tế. Trong nền
kinh tế thị trường mọi nguyên lý hoạt động được dựa trên cơ sở cung và cầu của thị
trường, thông qua cạnh tranh, hoạt động phát triển và sản xuất của cái vật chất diễn
ra dưới sức ép của sự trao đổi hàng hóa theo giá trị. Loại hàng hóa có chất lượng tốt
và giá thành rẻ sẽ được tiêu thụ nhanh, ngược lại những hàng hóa kém chất lượng
và giá thành cao thì sẽ không có chỗ đứng. Trên cơ sở những nguyên lý vủa kinh tế
thị trường, người ta đưa ra các chính sách hợp lý và các công cụ kinh tế để
điều”chỉnh và định hướng hoạt động phát triển sản xuất có lợi cho công tác bảo vệ
môi trường.
- Cơ sở luật pháp của quản lý môi trường
“Cơ sở luật pháp cho quản lý môi trường thực chất là tổng thể các nguyên tắc,
quy phạm quốc tế điều chỉnh mối quan hệ giữa các quốc gia, giữa quốc gia và tổ chức
quốc tế trong việc ngăn chặn, loại trừ thiệt hại gây ra cho môi trường của từng quốc


23

gia và môi trường ngoài phạm vị tàn phá quốc gia. Các văn bản luật quốc tế về môi
trường đã được hình thành một cách chính thức từ thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX, giữa
các quốc gia Châu Âu, Châu Mỹ, Châu Phi. Từ hội nghị quốc tế về “Môi trường và
con người” tổ chức năm 1972 tại Stockholm, Thụy Điển và sau hội nghị thượng định
Rio 1992, Brazin đã có rất nhiều văn bản luật quốc tế được soạn thảo và ký kết. Cho
đến nay đã có hàng ngàn các văn bản luật quốc tế về môi trường, trong số đó đã có
nhiều văn bản được chính phủ Việt Nam ký kết. Trong phạm vi quốc gia, chúng ta đã
có nhiều văn bản pháp lý liên quan đến bảo vệ và quản lý môi trường. Văn bản quan

trọng nhất là Luật bảo vệ môi trường được quốc hội thông qua ngày 27/12/1993 và
được sửa đổi vào năm 2005 và văn bản mới nhất là Luật Bảo vệ môi trường năm
2014 ngày 23/06/2014. Các văn bản pháp luật Quốc tế và Quốc gia là cơ sở quan
trọng để thực hiện công tác quản lý Nhà nước về bảo vệ môi trường.”
1.1.3.4. Các nguyên tắc quản lý môi trường
-“Hướng công tác quản lý môi trường tới mục tiêu phát triển bền vững kinh
tế xã hội đất nước, giữ cân bằng giữa phát triển và bảo vệ môi trường.
- Kết hợp các mục tiêu quốc tế – quốc gia – vùng lãnh thổ và cộng đồng dân
cư trong việc quản lý môi trường.
- Quản lý môi trường cần được thực hiện bằng nhiều biện pháp và công cụ
tổng hợp thích hợp.
- Phòng chống, ngăn ngừa tai biến và suy thoái môi trường cần được ưu tiên hơn.
- Người gây ô nhiễm môi trường việc phải xử lý, phục hồi môi trường nếu để
gây ra ô nhiễm môi trường.phải trả tiền cho các tổn thất do ô nhiễm môi trường gây
ra và các chi phí xử lý, phục hồi môi trường”bị ô nhiễm. Người sử dụng các thành
phần môi trường phải trả tiền cho việc sử dụng gây ra ô nhiễm đó.
1.2 Nội dung quản lý nhà nước về môi trường đối với làng nghề
Quốc hội nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa (CHXHCN) Việt Nam đã thông qua
và ban hành Luật Bảo vệ môi trường năm 2014 ngày 23/06/2014. Luật Bảo vệ môi
trường năm 2014 đã kế thừa, sửa đổi và bổ sung nhưng thiếu sót của Luật Bảo vệ
môi trường năm 2005 trong đó Điều 139 Luật Bảo vệ môi trường năm 2014 đã nêu
ra 11 nội dung quản lý nhà nước về môi trường như sau:
- Xây dựng, ban hành theo thẩm quyền và tổ chức thực hiện các văn bản quy


24

phạm pháp luật về bảo vệ môi trường, ban hành hệ thống tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ
thuật môi trường.
- Xây dựng, chỉ đạo thực hiện chiến lược, chính sách, chương trình, đề án, quy

hoạch, kế hoạch về bảo vệ môi trường.
- Tổ chức, xây dựng, quản lý hệ thống quan trắc; định kỳ đánh giá hiện trạng
môi trường, dự báo diễn biến môi trường.
- Xây dựng, thẩm định và phê duyệt quy hoạch bảo vệ môi trường; thẩm định
báo cáo đánh giá môi trường chiến lược; thẩm định, phê duyệt báo cáo đánh giá tác
động môi trường và kiểm tra, xác nhận các công trình bảo vệ môi trường; tổ chức
xác nhận kế hoạch bảo vệ môi trường.
- Chỉ đạo, hướng dẫn và tổ chức thực hiện các hoạt động bảo tồn đa dạng sinh
học; quản lý chất thải; kiểm soát ô nhiễm; cải thiện và phục hồi môi trường.
- Cấp, gia hạn, thu hồi giấy phép, giấy chứng nhận về môi trường.
- Thanh tra, kiểm tra việc chấp hành pháp luật về bảo vệ môi trường; thanh tra
trách nhiệm quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường; giải quyết khiếu nại, tố cáo về
bảo vệ môi trường; xử lý vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường.
- Tổ chức nghiên cứu, áp dụng tiến bộ khoa học, công nghệ trong lĩnh vực bảo
vệ môi trường.
- Chỉ đạo, hướng dẫn, kiểm tra và đánh giá việc thực hiện ngân sách nhà nước
cho các hoạt động bảo vệ môi trường.
- Hợp tác quốc tế trong lĩnh vực bảo vệ môi trường.
Tuy nhiên, với khuôn khổ và giới hạn của đề tài, học viên chủ yếu nghiên
cứu tập trung vào 4 nội dung quản lý nhà nước như sau:


25

1.2.1. Xây dựng và thực hiện các chiến lược, chính sách, quy hoạch, kế
hoạch về bảo vệ môi trường làng nghề của địa phương
“Trong giai đoạn hiện nay, xây dựng chiến lược, chính sách bảo vệ môi trường
làng nghề phải phù hợp với khả năng và điều kiện kinh tế, xã hội của đất nước và
từng địa phương. Mỗi quốc gia, địa phương đều có hệ thống các chính sách, chiến
lược bảo vệ môi trường riêng của mình. Đây là công cụ để chỉ đạo công tác quản lý

bảo vệ môi trường. Chính sách có quan hệ mật thiết với chiến lược bảo vệ môi
trường. Nếu tách rời chúng thì không thể thực hiện tốt công tác quản lý nhà nước
bảo vệ môi trường. Chính vì vậy chúng ta xét các chính sách, chiến lược này như
một thể thống nhất. Trong khi chính sách xác định rõ mục tiêu BVMT và định
hướng hoạt động thì chiến lược cụ thể hóa và tìm phương thức, nguồn lực để có thể
đạt được mục tiêu.”
Chính sách“bảo vệ môi trường làng nghề là những chủ trương, biện pháp
mang tính chiến lược, thời đoạn nhằm giải quyết một nhiệm vụ bảo vệ môi trường
làng nghề, trong một giai đoạn nhất định.
Chính sách bảo vệ môi trường làng nghề được cụ thể hóa trong Luật Bảo vệ
môi trường năm 2014 và các công ước quốc tế về môi trường. Mỗi cấp quản lý đều
có những chính sách môi trường riêng. Nó vừa cụ thể hóa luật pháp và những chính
sách của các cấp cao hơn, vừa tính tới đặc thù địa phương. Sự đúng đắn và thành
công của chính sách cấp địa phương có vai trò quan trọng trong đảm bảo sự thành
công của cấp trung ương.”
“Nguyên tắc chủ đạo của việc ban hành và thực thi chính sách môi trường là:
- Hợp hiến, hợp pháp, hệ thống và thống nhất
- Người gây ô nhiễm phải trả tiền
- Phòng bệnh hơn chữa bệnh
- Hợp tác giữa các đối tác
- Sự tham gia của cộng đồng.”
Một số nhóm chính sách được thực hiện nhằm mục đích bảo vệ môi trường
làng nghề như sau:


×