i
LỜI CAM ĐOAN
Tên tôi là: Nguyễn Hữu Cường
Sinh ngày: 18/11/1991 – Nơi sinh: Bắc Ninh
Là học viên cao học lớp: CH20B – Chuyên ngành Quản lý kinh tế.
Niên khóa: 2014 – 2016 – Trường Đại học Thương Mại.
Tôi xin cam đoan
1. Luận văn Thạc sĩ kinh tế: “Quản lý Nhà nước đối với các khu công nghiệp
trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh” là công trình nghiên cứu của riêng tôi, dưới sự hướng
dẫn của PGS.TS Hà Văn Sự.
2. Các số liệu, tài liệu trong luận văn là trung thực, bảo đảm tính khách quan.
Các tài liệu tham khảo có nguồn gốc xuất xứ rõ ràng.
Tôi hoàn toàn chịu trách nhiệm về sự cam đoan này.
Tác giả luận văn
Nguyễn Hữu Cường
ii
LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành chương trình cao học và bản luận văn này, bên cạnh những nỗ
lực của bản thân tác giả đã nhận được sự quan tâm, động viên, giúp đỡ tận tình của các
thầy cô, bạn bè, gia đình trong suốt quá trình học tập, công tác.
Nhân đây, tác giả xin gửi lời cảm ơn chân thành tới:
- Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Hà Văn Sự
- Các thầy cô giáo Khoa sau đại học – Trường Đại học Thương Mại
- Tập thể lãnh đạo, CBNV Ban quản lý KCN tỉnh Bắc Ninh, Sở Kế hoạch và
Đầu tư tỉnh Bắc Ninh, Sở Công thương Bắc Ninh.
- Các cơ quan hữu quan, các nhà khoa học, gia đình, đồng nghiệp, bạn bè đã
giúp đỡ và cung cấp tài liệu cho tôi trong quá trình thực hiện luận văn.
Mặc dù đã có nhiều cố gắng để hoàn thành luận văn bằng tất cả sự nhiệt tình
và năng lực của bản thân, tuy nhiên luận văn không tránh khỏi những thiếu sót, tác
giả rất mong nhận được những ý kiến đóng gớp quý báu của các thầy cô và bạn đọc
để tác giả có thể hoàn thiện tốt hơn luận văn của mình.
Xin trân trọng cảm ơn !
Hà Nội, ngày.....tháng …. năm 2016
Tác giả
Nguyễn Hữu Cường
iii
MỤC LỤC
iv
DANH MỤC BẢNG BIỂU, SƠ ĐỒ, HÌNH VẼ
BẢNG
v
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
STT
TỪ VIẾT TẮT
NGHĨA TIẾNG VIỆT
1
BQL
Ban quản lý
2
CNH, HĐH
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa
3
CCN
Cụm Công nghiệp
4
ĐTM
Báo cáo đánh giá tác động môi trường
5
ĐTNN
Đầu tư nước ngoài
6
ĐTTN
Đầu tư trong nước
7
FDI
Vốn đầu tư trực tiếp từ nước ngoài
8
GDP
Tổng sản phẩm quốc nội
9
KCN, KCNC
Khu công nghiệp, Khu công nghệ cao
10
KCN&CX
Khu công nghiệp và chế xuất
11
KKT
Khu kinh tế
12
NĐ-CP
Nghị định – Chính phủ
13
NQ-TW
Nghị quyết trung ương
14
QLNN
Quản lý Nhà nước
15
TNDN
Thu nhập doanh nghiệp
16
UBND
Ủy ban nhân dân
17
USD
Đô la Mỹ
18
VND
Việt Nam Đồng
19
XHCN
Xã hội chủ nghĩa
1
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết nghiên cứu của đề tài luận văn
Trong xu thế hội nhập và toàn cầu hóa hiện nay, mỗi quốc gia phải không
ngừng đổi mới, thúc đẩy sự phát triển nền kinh tế của mình nhằm theo kịp và chủ
động hội nhập với nền kinh tế toàn cầu. Xuất phát từ nền kinh tế lạc hậu, kém phát
triển, để có thể theo kịp sự phát triển của nền kinh tế thế giới, đạt được mục tiêu xây
dựng nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa (XHCN) đòi hòi
Đảng và Nhà nước phải có chiến lược phát triển kinh tế phù hợp, thực hiện từng
bước phát triển công nghiệp hóa – hiện đại hóa (CNH- HĐH) đất nước một cách
vững chắc và có tầm nhìn lâu dài.
Đại hội IX của Đảng đã thông qua chiến lược phát triển kinh tế - xã hội thời
kỳ 2001 ÷ 2010 được gọi là “chiến lược đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá
(CNH, HĐH) theo định hướng xã hội chủ nghĩa, xây dựng nền tảng để đến 2020
nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp”. Tiếp theo đến đại hội XI đề ra
chiến lược phát triển kinh tế-xã hội 2011 -2020 đã xác định rõ “phát triển các ngành
công nghiệp, dịch vụ phục vụ phát triển sản xuất nông nghiệp. Phát triển các khu
công nghiệp, các cụm, nhóm sản phẩm công nghiệp và dịch vụ công nghệ cao gắn
với các đô thị lớn để hình thành các trung tâm kinh tế lớn của cả nước, có tầm cỡ
khu vực, có vai trò dẫn dắt và tác động lan toả đến sự phát triển các vùng khác.”
Tính đến hết tháng 9/2015, cả nước có 299 KCN được thành lập với tổng diện tích
đất tự nhiên gần 84 nghìn ha, trong đó diện tích đất công nghiệp có thể cho thuê đạt
56 nghìn ha, chiếm khoảng 66% tổng diện tích đất tự nhiên, trong đó 212 KCN đã
đi vào hoạt động với tổng diện tích đất tự nhiên 60 nghìn ha và 87 KCN đang trong
giai đoạn đền bù giải phóng mặt bằng và xây dựng cơ bản với tổng diện tích đất tự
nhiên 24 nghìn ha. Tổng diện tích đất công nghiệp đã cho thuê đạt trên 26 nghìn ha,
tỷ lệ lấp đầy 48%.Trong năm 2015, các KCN, KKT đã thu hút được 379 dự án có
vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) với tổng số vốn đầu tư đăng ký đạt 7.161
ttriệu USD; điều chỉnh tăng vốn cho 263 lượt dự án với tổng vốn đầu tư tăng thêm
2
là 1.569 triệu USD;Tính chung 9 tháng đầu năm, tổng số vốn đầu từ nước ngoài vào
KCN, KKT đạt 8.720 triệu USD (tăng 12% so với cùng kỳ năm 2014), chiếm 59%
tổng số lượt dự án, bằng 67% tổng số vốn FDI của cả nước trong 9 tháng dầu năm,
chiếm 85% tổng số vốn FDI trong lĩnh vực công nghiệp chế biến, chế tạo của cả
nước, bằng 83% so với kế hoạch 2015.[6]
Sự hình thành và phát triển các khu công nghiệp phụ thuộc vào chính sách
chung của Chính phủ, ngoài ra còn phụ thuộc rất nhiều vào chính sách và tổ chức
thực hiện chính sách của từng chính quyền địa phương. Bắc Ninh là một tỉnh vùng
đồng bằng Bắc Bộ, nằm trong tam giác kinh tế trọng điểm phía Bắc của Việt Nam.
Với diện tích tự nhiên 802 km2, tổng dân số tính đến cuối năm 2010 là 1.038.229
người, Ngành kinh tế cơ bản của Bắc Ninh từ khi mới tách tỉnh (năm 1997) vốn là
nông nghiệp và sản xuất tiểu thủ công nghiệp tại các làng nghề. Khu công nghiệp
đầu tiên ở Bắc Ninh bắt đầu được hình thành từ năm 1998, đến cuối năm 2000
chính thức được khởi công xây dựng và đi vào hoạt động.
Hiện tại tỉnh Bắc Ninh hiện có 15 KCN tập trung được Thủ tướng Chính phủ
phê duyệt, tổng diện tích 6.847 ha. Tuy rằng tốc độ phát triển các KCN tại tỉnh Bắc
Ninh khá nhanh và đạt được những thành quả tốt. Tuy nhiên công tác quản lý các
KCN tỉnh Bắc Ninh vẫn còn tồn tại nhiều hạn chế làm cản trở quá trình thu hút đầu
tư và phát triển các KCN, tiềm ẩn nguy cơ mất ổn định vì phát triển nhanh sẽ kèm
theo những hậu quả về môi trường, về xã hội không chỉ cho tỉnh Bắc Ninh mà còn
có thể liên đới tới các địa phương lân cận khác trong vùng kinh tế trọng điểm phía
Bắc và cả nước. Quá trình triển khai cơ chế, chính sách phát triển KCN vẫn chưa sát
thực, chưa đồng bộ, chưa theo kịp sự phát triển của tình hình kinh tế - xã hội của
tỉnh Bắc Ninh và của các KCN, làm cho hiệu lực quản lý chưa cao; cơ chế phân
công, phối hợp giữa các cấp, các ngành chưa cụ thể; việc phân cấp, ủy quyền cho
Ban quản lý KCN trong một số lĩnh vực còn chưa thực hiện đầy đủ; thủ tục hành
chính còn rườm rà gây nhiều phiền hà cho nhà đầu tư; chính sách ưu đãi đối với các
KCN không thống nhất, thiếu ổn định; việc huy động động các nguồn vốn đầu tư
phát triển cơ sở hạ tầng chưa cao; công tác quy hoạch, kế hoạch phát triển các KCN
3
còn nhiều bất hợp lý. Điều này, đòi hỏi cần phải nhanh chóng hoàn thiện công tác
quản lý Nhà nước đối với KCN trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh nhằm phát triển nhanh
và bền vững.
Để thực hiện thắng lợi mục tiêu mà Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh
Bắc Ninh lần thứ XIX (2015-2020) đưa tỉnh Bắc Ninh trở thành thành phố trực
thuộc Trung ương vào những năm 20 của thế kỷ 21 theo hướng văn minh, hiện đại,
thì Bắc Ninh cần phải tập trung mọi nguồn lực đẩy mạnh công nghiệp hóa hiện đại
hóa và phát triển bền vững. Điều này cho thấy công tác quản lý Nhà nước đối với các
khu công nghiệp cần phải được đổi mới hơn nữa.
Để góp phần đổi mới hơn nữa về công tác quản lý Nhà nước đối với các khu
công nghiệp Bắc Ninh, tác giả chọn đề tài “Quản lý Nhà nước đối với các khu công
nghiệp trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh” làm đề tài luận văn thạc sĩ quản lý kinh tế.
2. Tổng quan các công trình nghiên cứu liên quan
Tính đến thời điểm hiện nay, đã có rất nhiều công trình nghiên cứu trong nước
cũng như ngoài nước về phát triển khu công nghiệp( KCN), khu chế xuất (KCX), khu
công nghệ cao (KCNC), đặc khu kinh tế trên nhiều phương diện khác nhau như:
- Viện kinh tế học(1994), “Kinh nghiệm thế giới về phát triển KCN, KCX và
đặc khu kinh tế”. Trong cuốn sách đã giới thiệu đầy đủ về các đặc khu kinh tế của
Trung Quốc và những chính sách phát triển, ưu đãi đối với các đặc khu kinh tế
Trung Quốc năm 1993.
- Bộ kế hoạch và đầu tư (2002), “Khu chế xuất và khu công nghiệp ở các tỉnh
phía Nam” đây là cuốn sách giới thiệu về sự hình thành, phát triển của các KCN,
KCX các tỉnh phía Nam và tình hình thu hút vốn đầu tư nước ngoài vào các KCN,
KCX phía Nam.
- Lê Hồng Yến (2004), “Vai trò của khu công nghiệp, khu chế xuất trong quá
trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”, Kỷ yếu Hội thảo khoa học: Phát
triển khu công nghiệp, khu chế xuất ở các tỉnh phía Bắc, những vẫn đề lý luận và
thực tiễn, tổ chức tại Thanh Hóa. Bài viết đã trình bày rõ về những vai trò quan
trọng của các KCN, KCX trong việc phát triển kinh tế - xã hội nhằm đáp ứng yêu
cầu sự nghiệp CNH, HĐH đất nước.
4
- Đoàn Thị Thu Hằng (2006), “Hoàn thiện chính sách và mô hình tổ chức
quản lý các Khu công nghiệp, Cụm công nghiệp ở Thái Bình đến năm 2020” – Luận
văn thạc sĩ kinh tế, trường đại học Thương Mại. Trong đó, nội dung chính của luận
văn đưa ra các cơ sở lý luận về chính sách, tổ chức quản lý các KCN ở Việt Nam,
kinh nghiệp của các nước trên thế giới, đi sâu và phân tích rõ thực trạng thu hút
vốn, phát triển các KCN của Thái Bình, thực trạng về chính sách, mô hình quản lý
Nhà nước KCN trên địa bàn tỉnh Thái Bình, từ đó chỉ ra được những mặt tích cực
cũng như những mặt hạn chế của các chính sách và mô hình quản lý đó để đề xuất
và kiến nghị với Nhà Nước các phương án nhằm hoàn thiện chính sách và mô hình
quản lý các KCN tỉnh Thái Bình.
- Nguyễn Đức Long (2007) , “Một số giải pháp phát triển các khu công nghiệp
tỉnh Bắc Ninh trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế” – Luận văn thạc sĩ quản trị
kinh doanh quốc tế, đại học IRVINE (Hoa Kỳ) và đại học Quốc gia Hà Nội. Đề tài
tập trung nghiên cứu những vấn đề lý luận về KCN, phân tích môi trường, cách
thức lựa chọn những chiến lực tối ưu nhằm lựa chọn các giải pháp phát triển các
KCN trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. Đề tài đánh giá khái quát thực trạng
phát triển các KCN ở Việt Nam nói chung và của tỉnh Bắc Ninh nói riêng; tác động
của chúng đối với quá CNH, HĐH nền kinh tế. Từ đó, đề xuất ra những quan điểm
và phương hướng các giải pháp phát triển KCN tỉnh Bắc Ninh trong quá trình hội
nhập kinh tế quốc tế.
- Nguyễn Đình Thường (2008), “Phát triển các khu công nghiệp trên địa bàn
tỉnh Bắc Ninh: Thực trạng và giải pháp”- Luận văn thạc sĩ kinh tế, trường đại học
Kinh Tế Quốc Dân. Đề tài đi sâu nghiên cứu các cơ sở lý luận về KCN, quá trình
khảo sát, phân tích chỉ ra thực trạng hoạt động các KCN và đánh giá sự phát triển
các KCN để từ đó chỉ ra được những giải pháp phát triển bền vững cho các KCN tại
địa bàn tỉnh Bắc Ninh.
- Nguyễn Thị Mai Khanh ( 2013) ,“Quản lý của thành phố đối với hoạt động
của các khu công nghiệp và khu chế xuất trên địa bàn Hà Nội” – Luận văn thạc sĩ
kinh tế, trường đại học Thương Mại. Nội dung luận văn làm rõ những cơ sở lý luận
về KCN, KCX, phân tích thực trạng công tác quản lý của thành phố Hà Nội đối với
các KCN, KCX, chỉ ra những mặt tích cực và hạn chế để từ đó đề xuất, kiến nghị,
5
chỉ ra phương hướng hoàn thiện công tác quản lý của thành phố Hà Nội đối với các
KCN, KCX.
Kết quả của các công trình nghiên cứu trên tạo cơ sở cho lý luận và thực tiễn
cho tác giả trong quá trình nghiên cứu, trình bày luận văn tốt nghiệp “ Quản lý Nhà
nước đối với các khu công nghiệp trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh” theo quan điểm tiếp
cận nghiên cứu công tác quản lý Nhà nước đối với các khu công nghiệp.
3. Đối tương, mục tiêu và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là những lý luận về KCN và thực tiễn về công
tác quản lý Nhà nước đối với các KCN trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh.
Mục tiêu nghiên cứu
Mục tiêu chung của đề tài là là thông qua các nghiên cứu, phân tích để từ đó đề
xuất một số giải pháp và kiến nghị phương hướng đổi mới, giải pháp hoàn thiện công
tác quản lý Nhà nước các KCN trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh nhằm đẩy nhanh sự phát
triển các KCN của tỉnh Bắc Ninh giai đoạn đến năm 2020 và những năm tiếp theo.
Để thực hiện được mục tiêu tổng quát trên, luận văn cần thực hiện những
mục tiêu cụ thể sau:
- Hệ thống hóa một số vấn đề lý luận cơ bản về QLNN đối với các KCN tại
địa phương cấp tỉnh.
- Phân tích và đánh giá thực trạng QLNN tại các KCN trên địa bàn tỉnh Bắc
Ninh; từ đó đánh giá các thành công đạt được, những hạn chế và nguyên nhân trong
QLNN tại các KCN này.
- Đề xuất một số giải pháp, kiến nghị có tính khả thi nhằm hoàn thiện công tác
QLNN tại KCN tỉnh Bắc Ninh giai đoạn đến năm 2020 và những năm tiếp theo..
Phạm vi nghiên cứu
- Về không gian: Luận văn tập trung nghiên cứu thực trạng công tác QLNN
đối với các KCN trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh.
- Về thời gian: Luận văn tập trung nghiên cứu công tác quản lý các KCN tỉnh
Bắc Ninh trong giai đoạn 2010 – 2015, đề xuất các giải pháp cho giai đoạn từ nay
đến năm 2020 và những năm tiếp theo.
- Về nội dung: Luận văn tập trung nghiên cứu công tác quản lý của chính
quyền cấp tỉnh nhưng đặt trong khuôn khổ các chính sách, chế độ quản lý các KCN
của Nhà nước ta như: công tác xây dựng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chính
6
sách phát triển công nhiệp, công tác quản lý thực hiện đầu tư cơ sở hạ tầng kỹ thuật
khu công nghiệp, công tác xúc tiến kêu gọi đầu tư, công tác ổn định chất lượng
nguồn lao động, công tác thanh tra, kiểm tra đối với các KCN.
Từ đó đề xuất ra các phương hướng và giải pháp hoàn thiện công tác quản lý
các KCN của tỉnh giai đoạn từ nay đến năm 2020 và những năm tiếp theo.
4. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp luân: Luận văn được thực hiện với phương pháp luận duy vật
biện chứng, phương pháp duy vật lịch sử.
- Phương pháp tổng hợp dữ liệu: Sau khi thu thập được các tài liệu cần thiết đã
tiến hành phân loại tài liệu thu thập được; liên kết các yếu tố; các thành phần dữ liệu
thu thập được thành một chính thế để tổng hợp xây dựng cơ sở lý luận và đánh giá
thực trạng công tác quản lý các KCN trên địa bàn tỉnh. Cụ thể : Từ các văn bản
pháp luật, từ các báo cáo đánh giá để tổng hợp xây dựng các cơ sở lý luận về công
tác quản lý Nhà nước đối với các KCN như: Khái niệm KCN, quản lý Nhà nước về
kinh tế cũng như đối với các KCN, mục tiêu, đặc điểm và vai trò của quản lý Nhà
nước đối với các KCN, các yếu tố ảnh hưởng đến công tác quản lý Nhà nước đối
với các KCN
- Phương pháp phân tích dữ liệu: Từ nguồn dữ liệu, bài viết, các báo cáo, phân
tích đánh giá về công tác QLNN đối với các KCN trên địa bản tỉnh Bắc Ninh.
Kết quả công tác thu hút đầu tư, công tác xúc tiến thương mại, ổn định chất
lượng nguồn lao động…tại KCN để từ đó đưa ra những nhận xét đánh giá, thực
trạng công tác QLNN đối với các KCN trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh.
5. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Về lý luận:
Hệ thống hóa được những lý luận cơ bản góp phần làm sáng tỏ thêm những
vấn đề về QLNN đối với các KCN.
Về thực tiễn:
Những nghiên cứu và kết luận đề tài đưa ra phản ánh những thành công và hạn
chế của công tác QLNN đối với các KCN tại địa bàn tỉnh Bắc Ninh. Qua đó, góp
phần vào hoàn thiện các công tác QLNN đối với các KCN. Đây là cơ sở cho quá
trình phát triển các KCN trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế sâu và rộng hiện nay.
7
Phân tích đánh giá thực trạng của công tác quản lý Nhà nước đối với KCN
trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh từ năm 2010 đến 2015. Trên cơ sở đó đề xuất các
phương hướng đổi mới, giải pháp hoàn thiện hơn nữa về công tác quản lý Nhà nước
đối với KCN trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh trong những năm tới.
Ngoài ra, luận văn có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo cho các cơ quan và
cá nhân trong việc nghiên cứu hoạch định chính sách QLNN đối với các KCN.
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài lời cam đoan, lời cảm ơn, mục lục, danh mục các chữ viết tắt, phần mở
đầu, danh mục bảng biểu, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, nội dung luận
văn được kết cấu thành 3 chương:
Chương 1: Một số lý luận cơ bản về chính sách quản lý Nhà nước đối với các
khu công nghiệp tại các địa phương cấp tỉnh.
Chương 2: Phân tích đánh giá thực trạng quản lý Nhà nước đối với các khu
công nghiệp trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh.
Chương 3: Đề xuất một số định hướng và giải pháp hoàn thiện công tác quản
lý Nhà nước đối với các khu công nghiệp trên địa bản tỉnh Bắc Ninh tới năm 2020
và những năm tiếp theo.
CHƯƠNG 1. MỘT SỐ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI
VỚI CÁC KHU CÔNG NGHIỆP TẠI CÁC ĐỊA PHƯƠNG CẤP TỈNH
1.1. MỤC TIÊU VÀ VAI TRÒ CỦA QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI
CÁC KHU CÔNG NGHIỆP TẠI CÁC ĐỊA PHƯƠNG CẤP TỈNH
1.1.1. Khái niệm, phân loại, đặc điểm, vai trò của các KCN
1.1.1.1. Khái niệm về khu công nghiệp (KCN)
KCN đã hình thành và phát triển ở các nước tư bản phát triển vào những năm
cuối thế kỷ XIX. Ban đầu các KCN được xem như là một mô hình quy hoạch phát
triển công nghiệp và sau những năm 50 của thể kỷ XX thì sự phát triển của các
KCN mới thật sự bùng nổ. Tuy nhiên cho đến nay vẫn chưa có một định nghĩa được
thừa nhận chung về KCN. Các tổ chức quốc tế, các quốc gia trên thế giới đưa ra
nhiều quan điểm khác nhau về KCN. Theo UNIDO (1997), “ KCN được định nghĩa
như một vùng đất có quy hoạch, được phát triển và chia ra thành các mảnh đất căn
cứ theo một quy hoạch tổng thể, có hoặc không có các nhà xưởng được xây dựng
8
trước, có hoặc không có công trình hỗ trợ dùng chung, là nơi tập trung các cơ sở
công nghiệp ”.[24]
Ở nước ta, các khu công nghiệp được đề cập đến khi miền Bắc xây dựng khu
Gang thép Thái Nguyên, miền Nam hình thành khu chế xuất Tân Thuận (Tp Hồ Chí
Minh) năm 1991. Trong quy chế KCN, khu chế xuất (KCX), khu công nghệ cao
(KCNC), ban hành kèm theo nghị định 29/2008/NĐ-CP ngày 14 tháng 3 năm 2008
của Chính phủ, KCN được định nghĩa như sau: “ Khu công nghiệp là khu chuyên
sản xuất hàng công nghiệp và thực hiện các dịch vụ cho sản xuất công nghiệp, có
ranh giới địa lý xác định, được thành lập theo điều kiện, trình tự và thủ tục quy
định của pháp luật ”.[10]
Theo điều 3, khoản 11, Luật Đầu tư 2014 thì khu công nghiệp được định nghĩa
như sau: “Khu công nghiệp là khu vực có ranh giới địa lý xác định, chuyên sản xuất
hàng công nghiệp và thực hiện dịch vụ cho sản xuất công nghiệp”.[20]
Ban quản lý khu công nghiệp cấp tỉnh là cơ quan quản lý trực tiếp các khu
công nghiệp, khu chế xuất trong phạm vi địa lý hành chính của một tỉnh, thành phố
trực thuộc Trung ương hoặc Ban quản lý khu công nghiệp trên địa bàn liên tỉnh
hoặc Ban quản lý một khu công nghiệp (trường hợp cá biệt) hoặc Ban quản lý khu
công nghệ cao; do Thủ tướng Chính phủ quyết định thành lập.
Từ các khái niệm nêu trên, tại luận văn này thống nhất lựa chọn khái niệm
KCN như sau: “ Khu công nghiệp là khu chuyên sản xuất hàng công nghiệp và thực
hiện các dịch vụ cho sản xuất công nghiệp, có ranh giới địa lý xác định, được thành
lập theo điều kiện, trình tự và thủ tục quy định của pháp luật ”.
1.1.1.2. Phân loại khu công nghiệp
Tùy theo các góc độ tiếp cận, thì có một số cách phân loại KCN sau:
Nhóm 1: Theo tính chất ngành nghề thì chia KCN ra làm 3 loại
- KCN chuyên ngành: Chỉ thu hút các doanh nghiệp công nghiệp cùng một
ngành hoặc một số ít ngành công nghiệp khác nhau, nhưng cùng sản xuất ra một số
loại sản phẩm. Đó thường là các ngành chủ đạo như: hóa chất – hóa dầu, điện tử tin học, vật liệu xây dựng, chế tạo và lắp ráp cơ khí.
9
- KCN đa ngành: Thu hút doanh nghiệp thuộc nhiều ngành CN khác nhau.
KCN đa ngành cho phép thỏa mãn được yêu cầu về lãnh thổ cho sản xuất CN, song
trong quy hoạch xây dựng cần lưu ý vấn đề môi trường nhằm hạn chế tác động xấu
giữa các xí nghiệp khác nhau và tiết kiệm đầu tư hạ tầng.
- KCN sinh thái: Là mô hình mang tính cộng sinh CN. Các ngành CN được
lựa chọn sao cho các nhà máy có mối liên hệ với nhau, hỗ trợ và tương tác với nhau
tạo lên môi trường sạch và bền vững. Với mô hình KCN này thì phế liệu của nhà
máy này có thể là nguyên liệu của nhà máy kia hoặc là sản phẩm của nhà máy này
sẽ là nguyên liệu, vật tư của nhà máy kia.
Nhóm 2: Theo quy mô hình thành 3 loại KCN là : lớn, vừa và nhỏ.
Các chỉ tiêu phân bổ quan trọng nhất có thể chọn là diện tích tổng số doanh
nghiệp, tổng số vốn đầu tư, tổng số lao động và tổng giá trị gia tăng. Các khu công
nghiệp lớn được thành lập phải có quyết định của Thủ tướng chính phủ. Các khu
công nghiệp vừa và nhỏ thuộc quyền quyết định của Chủ tịch UBND tỉnh, thành phố.
Nhóm 3: Theo đặc điểm quản lý chia ra làm 3 loại KCN:
- Khu công nghiệp mang tính truyền thống là một khu vực được quy hoạch
mang tính liên vùng, liên lãnh thổ, có phạm vi ảnh hưởng sáng các vùng lân cận,
xung quanh. Nó được công ty cơ sở hạ tầng sử dụng vào mục đích kinh doanh, công
ty này có trách nhiệm bảo đảm hạ tầng kỹ thuật và xã hội của toàn bộ khu trong suốt
quá trình tồn tại và phát triển.
- Khu chế xuất (KCX) là KCN tập trung các doanh nghiệp chuyên sản xuất
hàng hóa xuất khẩu, thực hiện các dịch vụ cho sản xuất hàng xuất khẩu và hoạt
động xuất khẩu, có ranh giới địa lý xác định, không có dân cư sinh sống; do Chính
phủ hoặc Thủ tướng Chính phủ quyết định thành lập.
- Khu công nghệ cao (KCNC) là khu tập trung các doanh nghiệp công nghiệp
kĩ thuật cao và các đơn vị hoạt động phục vụ cho phát triển công nghệ cao bao gồm:
nghiên cứu, triển khai Khoa học – Công nghệ, đào tạo và các dịch vụ có liên quan,
có ranh giới địa lý xác định, không có dân cư sinh sống; do Chính phủ hoặc Thủ tướng
Chính phủ quyết định thành lập, trong KCNC có thể có doanh nghiệp chế xuất.
1.1.1.3. Đặc điểm các khu công nghiệp
KCN hiện nay đều được hiểu là khu vực tập trung các doanh nghiệp, công
nghiệp trong một khu vực có ranh giới xác định, sử dụng chung kết cấu hạ tầng kỹ
10
thuật và hạ tầng xã hội. Về nguyên lý thì các doanh nghiệp trong KCN có ưu thế tiết
kiệm tối đa chi phí sản xuất, hạ giá thành sản phẩm, nên giá thuê hạ tầng kỹ thuật,
hạ tầng xã hội sẽ rẻ hơn so với đầu tư ở khu vực khác.
Các doanh nghiệp trong KCN được hưởng một số ưu đãi riêng của Nhà nước
và của địa phương cho những ngành và doanh nghiệp nào được khuyến khích phát
triển. Nhà nước chỉ quy định những ngành và doanh nghiệp nào được khuyến khích
phát triển và loại nào không được đặt trong KCN do yêu cầu bảo vệ môi trường và quốc
phòng an ninh.
Khả năng hợp tác sản xuất giữa các doanh nghiệp trong KCN rất thuận lợi vì nằm
trên một khu vực.
KCN có Ban quản lý chung thống nhất, thực hiện quy chế quản lý thích hợp, tạo
điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp hoạt động có hiệu quả.
Với những đặc điểm cơ bản trên đây có thể thấy về thực chất KCN là một khu vực
đặc biệt để thu hút đầu tư trong nước cũng như ngoài nước, áp dụng công nghệ mới,
nâng cao khả năng cạnh tranh của sản phẩm, thúc đẩy xuất khẩu, sử dụng có hiệu quả
nguồn vốn đầu tư vào những ngành và những vùng trọng điểm.
1.1.1.4. Vai trò của các khu công nghiệp
Việc hình thành và phát triển các KCN là một yêu cầu cần thiết đối với việc
phát triển kinh tế - xã hội, nhất là đối với các nước đang phát triển như Việt Nam.
Do đó, vai trò của các KCN trong phát triển kinh tế - xã hội được xác định ở một số
khía cạnh sau:
Thứ nhất, KCN góp phần quan trọng trong giải quyết việc làm, đào tạo nguồn
nhân lực, nâng cao thu nhập, đời sống và trình độ người lao động. KCN là nơi có rất
nhiều lao động làm việc, có những lao động có sẵn trình độ tay nghề thích ứng với
công việc tuy nhiên vẫn còn một lượng lớn lao động phổ thông cơ bản đã được kèm
cặp và đào tạo theo yêu cầu của công nghệ và dây chuyền sản xuất. Thông qua việc
đào tạo và sử dụng lao động trong các KCN, trình độ và kỹ năng của người lao
động được cải thiện.
Thứ hai, thu hút vốn đầu tư tạo nguồn vốn bổ sung quan trọng cho phát triển
kinh tế: Để tăng trưởng và phát triển kinh tế, đòi hỏi phải có một lượng đầu tư rất
lớn. Vốn trong nước chưa đủ đáp ứng nhu cầu đó, thu hút vốn đầu tư vào KCN là
11
rất quan trọng vì nó phản ánh tiềm năng phát triển công nghiệp của mỗi nước, mỗi
khu vực.
Thứ ba, sự phát triển các KCN đã đẩy nhanh tốc độ đô thị hóa, tạo sự phát
triển đồng đều giữa các vùng trong tỉnh, góp phần hoàn thiện kết cấu hạ tầng xã hội
và bảo vệ môi trường sinh thái. Các KCN đã khẳng định vai trò rất quan trọng tác
động và ảnh hưởng đến quá trình hình thành và phát triển các khu đô thị. Chính hạt
nhân từ các KCN đã hình thành các khu đô thị mới, cùng các công trình hạ tầng xã
hội đã đưa mạng lưới đô thị của thành phố ngày càng mở rộng và phát triển.
Thứ tư, các KCN góp phần hình thành mối liên kết giữa các địa phương và
nâng cao năng lực sản xuất ở từng vùng, miền. Mô hình các KCN chính là đầu tầu
tăng trưởng kéo theo sự phát triển của các vùng lân cận và các cùng khác của đất
nước. Tầm quan trọng của KCN chính là ở tác động lan tỏa của nó đối với các vùng
lân cận và cả nền kinh tế chứ không chỉ ở năng suất lao động hay thu nhập của
người lao động tăng lên.
Thứ năm, sự phát triển của các KCN thúc đẩy phát triển các loại hình dịch vụ
phục vụ sản xuất công nghiệp. Việc phát triển các KCN có tăng động lan tỏa đến
các hoạt động dịch vụ và ngược lại, các hoạt động dịch vụ đã đáp ứng các yêu cầu
của doanh nghiệp giúp doanh nghiệp phát triển sản xuất. Các dịch vụ như: Lĩnh vực
tín dụng – ngân hàng, lĩnh vực dịch vụ bưu chính viễn thông, điện lực, dịch vụ
logistics…
Thứ sáu, các KCN góp phần phát triển kết cấu hạ tầng của đất nước. Để thu hút
đầu tư vào KCN tạo điều kiện cho nhà đầu tư triển khai nhanh dự án, ngoài các chính
sách ưu đãi về tài chính. Cơ sở hạ tầng kỹ thuật trong và ngoài hàng rào phải đồng
bộ, hiện đại không chỉ tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp hoạt động mà
còn có tác dụng kích thích sự phát triển của kinh tế địa phương nơi có KCN hoạt
động.
1.1.2. Khái niệm quản lý Nhà nước về kinh tế và đối với các
khu công nghiệp
1.1.2.1. Khái niệm quản lý Nhà nước về kinh tế
12
Khái niệm quản lý: Quản lý trong xã hội nói chung là quá trình tổ chức điều
hành các hoạt động nhằm đạt được những mục tiêu và yêu cầu nhất định dựa trên
những quy luật khách quan.
Khái niệm quản lý Nhà nước: Là hoạt động tổ chức, điều hành của cả bộ máy
nhà nước,nghĩa là bao hàm cả sự tác động ,tổ chức của quyền lực nhà nước trên các
phương diện lập pháp hành pháp và tư pháp.
Quản lý Nhà nước về kinh tế là sự tác động có tổ chức và bằng pháp quyền
của Nhà nước lên nền kinh tế quốc dân nhằm sử dụng có hiệu quả nhất các nguồn
lực kinh tế trong và ngoài nước, các cơ hội có thể có, để đạt được mục tiêu phát
triển kinh tế đất nước đặt ra trong điều kiện hội nhập và mở rộng giao lưu quốc tế.
Theo nghĩa rộng, quản lý Nhà nước về kinh tế được thực hiện thông qua cả ba
loại cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp của Nhà nước.
Theo nghĩa hẹp, quản lý Nhà nước về kinh tế được hiểu như hoạt động quản lý
có tính chất Nhà nước nhằm điều hành nền kinh tế, được thực hiện bởi cơ quan
hành pháp (chính phủ).
1.1.2.2. Khái niệm quản lý Nhà nước đối với các khu công nghiệp
QLNN đối với KCN là hoạt động chấp hành và điều hành của các cơ quan
hành chính Nhà nước Việt Nam được tiến hành trên cơ sở pháp luật và để thi hành
pháp luật điều chỉnh các hoạt động đầu tư và sản xuất – kinh doanh có liên quan tới
KCN, KCX nhằm khuyến khích và bảo đảm cho các nhà đầu tư trong nước và nước
ngoài tiến hành các hoạt động đầu tư tại các KCN Việt Nam trên cơ sở tuân thủ
pháp luật và các quy định về KCN.
Công tác QLNN đối với KCN đang được từng bước hoàn thiện gắn liền với
phương hướng đổi mới vai trò kinh tế của Nhà nước gắn liền với việc thực hiện một
công cuộc cải cách lớn về tổ chức và hoạt động của QLNN.
QLNN là sự tác động có tổ chức bằng pháp quyền lên nền kinh tế quốc dân
nhằm sử dụng hiệu quả nhất các nguồn lực trong và ngoài nước, các cơ hội có thể
có, để đạt được các mục tiêu phát triển trong nước đặt ra trong các điều kiện hội
nhập và mở rộng giao lưu quốc tế.
1.1.3. Mục tiêu và Đặc điểm của quản lý nhà nước đối với các khu công
nghiệp tại các địa phương cấp tỉnh
13
1.1.3.1. Mục tiêu của quản lý nhà nước đối với các khu công nghiệp tại các địa
phương cấp tỉnh
Mục tiêu của quản lý Nhà nước đối với các khu công nghiệp không phải chỉ
nhằm kiểm soát KCN mà quan trọng hơn là nhằm phát triển các KCN và các DN có
trong KCN đó theo mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của địa phương, quốc gia.
Căn cứ theo quy định của nghị định số 29/2008/NĐ-CP của chính phủ ban
hành ngày 14/3/2008 về quy chế KCN thì quản lý Nhà nước đối với các KCN nhằm
hướng đến các mục tiêu củ thể sau:
Kiểm soát các hoạt động đầu tư vào KCN
Để thu hút hoạt động đầu tư vào các KCN, các tỉnh, thành phố đã ban hành rất
nhiều các chính sách ưu đãi đầu tư trên cơ sở quy định của Nhà nước và pháp luật,
nhằm tăng mức độ hấp dẫn đối với nhà đầu tư. Tuy nhiên cũng có nhiều nhà đầu tư
đôi khi cũng lợi dụng sự thông thoáng trong chính sách ưu đãi, cấp phép đầu tư để
trục lợi. Một số nhà đầu tư sau khi được cấp phép đã thực hiện đầu tư không đúng
mục đích theo cam kết... Do đó, việc quản lý nhà nước trong hoạt động kiểm soát
các hoạt động đầu tư vào KCN là rất quan trọng và cấp thiết.
Đẩy mạnh cơ cấu đầu tư
Việt phát triển nhanh chóng của các KCN đã tạo tiền đề thu hút các nguồn vốn
đầu tư cả trong nước lẫn nước ngoài mang đến sự hiệu quả phát triển nền kinh tế bền
vững. Đặc biệt là thu hút các nguồn vốn FDI từ các doanh nghiệp lớn vào đầu tư ở
các KCN sẽ kéo theo các doanh nghiệp phụ trợ phát triển, từ đó có thể tận dụng được
lợi thế của họ như công nghệ, kinh nghiệm quản lý, kinh doanh…Vì thế, QLNN đối
với KCN phải được hoạch định và có tầm nhìn rộng về cơ cấu, lĩnh vực đầu tư.
Bảo vệ môi trường sinh thái và phát triển bền vững
KCN là nguồn phát sinh các ô nhiễm môi trường với mật độ cao, là nơi tập
trung khối lượng chất thải công nghiệp lớn và phức tạp về thành phần chất gây ô
nhiễm, dễ gây ra những sự cố môi trường không những trong KCN mà ra cả vùng
lân cận bên ngoài hàng rào. Công tác quản lý môi trường tại các KCN đã trở thành
mục tiêu không kém phần quan trọng trong quản lý nhà nước. Mục tiêu cơ bản của
công tác bảo vệ môi trường ở nước ta trong giai đoạn công nghiệp hóa, hiện đại hóa
14
hiện nay là: “Ngăn ngừa ô nhiễm môi trường, phục hồi và cải thiện môi trường của
những nơi, những vùng bị suy thoái bảo tồn đa dạng sinh học, từng bước nâng cao
chất lượng, môi trường ở các khu công nghiệp, đô thị và nông thông góp phần phát
triển kinh tế xã hội bền vững, nâng cao chất lượng đời sống của nhân dân, tiến hành
thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Tạo việc làm và tăng thu nhập cho người lao động
Tạo việc làm và tăng thu nhập cho người lao động cũng là một mục tiêu quan
trọng trong quản lý Nhà nước, bởi vì xét cho cùng việc phát triển công nghiệp đều
nhằm cải thiện đời sống cho người lao động, phục vụ cuộc sống của người lao động
được tốt hơn. Do đó ngoài chính sách khuyến khích DN trong các KCN sử dụng lao
động địa phương, Nhà nước còn ban hành các quy định pháp lý bảo vệ quyền của
người lao động, nhất là về lương, bảo hiểm, bảo hộ lao động và giải quyết tranh chấp.
1.1.3.2. Đặc điểm của quản lý nhà nước đối với các khu công nghiệp tại các
địa phương cấp tỉnh
- KCN là một tổ chức thực thể độc lập về lãnh thổ lẫn các điều kiện sản xuất
kinh doanh gắn với cơ bản của nó là sản xuất công nghiệp tập trung ở mật độ cao,
KCN không tồn tại độc lập mà có mối quan hệ chặt chẽ về mọi mặt với các phần
lãnh thổ khác về đầu vào, đầu ra. Đối tượng quản lý KCN bao hàm nhiều hoạt động
và lĩnh vực cụ thể: Lĩnh vực đầu tư, xây dựng, sản xuất, kinh doanh, dịch vụ cung
cấp hạ tầng và dịch vụ công (hải quan, cấp phép…) chủ yếu là do các doanh nghiệp
xây dựng và kinh doanh hạ tầng; nhiều doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh, gồm cả
những doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và trong nước, hoạt động trên địa
bàn có quy mô nhất định, gắn liền với đặc điểm, điều kiện vùng lãnh thổ.
- QLNN các KCN phát triển và vận hành theo văn bản, nghị định mới nhất.
Nội dung quản lý thuộc về chức năng, nhiệm vụ của nhiều ngành, cấp có liên quan.
- Hoạt động QLNN KCN có tính chất đa ngành, liên ngành vận động đa dạng
trong không gian, thời gian nhất định như: Xây dựng và thực hiện quy hoạch hay chính
sách phát triển có liên quan giữa ngành với vùng, giữa ngành này với ngành khác...
Từ những đặc điểm trên ta có thể rút ra tính đặc thù của tổ chức QLNN đối với KCN
- Đối tượng quản lý là KCN, là loại hình hoạt động khá đặc biệt, nên phải do
Thủ tướng Chính phủ xem xét và cho phép đầu tư từng khu một. Các doanh nghiệp
15
trong KCN (vừa có doanh nghiệp trong nước vừa có doanh nghiệp nước ngoài, nhất
là các doanh nghiệp đầu tư trực tiếp của nước ngoài- FDI) đa số có công nghệ hiện
đại hơn, kinh nghiệm và phương pháp quản lý tiên tiến hơn so với mặt bằng chung
của các doanh nghiệp trên toàn quốc. Vì vậy, các doanh nghiệp này sản xuất với
năng lực cao hơn và sản phẩm có tính cạnh tranh cao hơn.
- Tổ chức QLNN không giống như các tỉnh đều có hệ thống các Sở chuyên
ngành tương tự nhau, mà BQL KCN cấp tỉnh chỉ được thành lập ở tỉnh nào có điều
kiện, cần thiết. Vì vậy, tổ chức QLNN này cũng phải do Thủ tướng Chính phủ quyết
định thành lập và bổ nhiệm Trưởng BQL các KCN cấp tỉnh.
1.1.4. Vai trò của quản lý nhà nước đối với các khu công nghiệp tại các
địa phương cấp tỉnh
KCN có thể do Chính phủ hoặc tư nhân sở hữu, nhưng dù ở bất cứ hình thức
nào, KCN đều là đối tượng quản lý của Nhà nước. Các chuyên gia kinh tế Nhật Bản
cho rằng: chìa khóa cho sự thành công của các KCN là vị trí, dịch vụ hạ tầng và đặc
biệt là năng lực quản lý. Trong thực tế hoạt động của các KCN cho thấy, nếu bộ
máy quản lý năng động, sâu sát, gọn nhẹ thì các KCN hình thành và phát triển tốt và
ngược lại.
Vai trò của QLNN đối với KCN thực hiện theo ba chức năng:
Chức năng hoạch định, chính quyền địa phương cấp tỉnh quyết định chủ trương,
quy hoạch chung phát triển KCN. Mục tiêu, phương hướng hoạt động và quy mô của
từng KCN trên cơ sở chiến lược kinh tế - xã hội của địa phương và chiến lược phát
triển công nghiệp chung của đất nước.
Chức năng điều hành,chính quyền địa phương cấp tỉnh xây dựng môi trường
đầu tư, chính sách khuyến khích và các biện pháp quản lý vĩ mô, hướng dẫn, giám
sát và kiểm tra việc thực hiện pháp luật liên quan.
Chức năng tham gia trực tiếp vào quá trình hình thành và phát triển
KCN,chính quyền địa phương cấp tỉnh có thể đầu tư cơ sở hạ tầng kỹ thuật và xã
hội để cho các nhà đầu tư khác thuê, là chủ sở hữu doanh ngiệp xây dựng và phát
triển cơ sở hạ tầng KCN hoặc đầu tư các dự án sản xuất trong KCN.
16
1.2. NHỮNG NGUYÊN LÝ CƠ BẢN CỦA QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI
VỚI CÁC KHU CÔNG NGHIỆP TẠI CÁC ĐỊA PHƯƠNG CẤP TỈNH
1.2.1. Những yêu cầu cơ bản của quản lý Nhà nước đối với khu công
nghiệp tại các địa phương cấp tỉnh.
Trước tiên cần khẳng định rằng quản lý Nhà nước đối với các KCN không chỉ
là các hoạt động quy hoạch, điều hành, kiểm soát sự phát triển của các KCN mà còn
bao hàm cả hoạt động khuyến khích hỗ trợ sự phát triển của các KCN. Quản lý Nhà
nước đối với các KCN bao gồm việc tạo lập môi trường pháp lý ổn định và bình
đẳng cho các doanh nghiệp, xác lập chính sách khuyến khích đầu tư, tạo điều kiện
cho các Doanh nghiệp phát triển, phối hợp đồng bộ trong việc cung cấp các nguồn
nhân tài vật lực đảm bảo thông suốt đầu vào và đầu ra cho Doanh nghiệp. Việc quản
lý nhà nước đối với các KCN cũng phải đáp ứng những yêu cầu cơ bản sau đây:
- Đảm bảo phù hợp với đường lối chính sách, Pháp luật của Đảng và Nhà nước
đề ra để phát triển kinh tế - xã hội và công nghiệp hóa đất nước trong từng thời kỳ.
Quan điểm, đường lối của Đảng và Nhà nước về phát triển kinh tế - xã hội và
ngành công nghiệp là những căn cứ, kim chỉ nam cho tất cả các hoạt động của nền kinh
tế và các KCN. Do đó, công tác quản lý các KCN cần phải đảm bảo luôn phù hợp và
hướng tới việc thực hiện những mục tiêu trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội
trong từng thời kỳ.
- Đảm bảo tính thống nhất với sự phát triển kinh tế, thương mại ở các ngành
và các lĩnh vực khác nhau của địa phương.
Những địa phương khác nhau có trình độ, năng lực để phát triển kinh tế,
thương mại ở các ngành và các lĩnh vực khác nhau. Vì vậy công tác QLNN đối với
KCN cần phải linh hoạt, thống nhất và phù hợp với sự phát triển kinh tế, thương
mại ở từng địa phương.
- Đảm bảo tính hiệu lực, hiệu quả của công tác quản lý nhằm thúc đẩy sự phát
triển kinh tế - xã hội.
Công tác quản lý KCN trước hết cần phải đề cao tính hiệu lực, đảm bảo được
hiệu lực được thực hiện. Mặt khác công tác quản lý KCN đạt hiệu quả cao là khi nó
thúc đẩy sự phát triển về kinh tế - xã hội, đạt được những mục tiêu nhất định với các
điệu kiện của từng địa phương. Một số chỉ tiêu đánh giá hiệu quả khai thác sử dụng
17
KCN, gồm: Tỷ lệ diện tích đất công nghiệp, tỷ lệ lấp đầy; số dự án đầu tư và tổng
vốn đầu tư; tỷ lệ vốn đầu tư trên một đơn vị diện tích đất công nghiệp; tổng số lao
động; nhóm các chỉ tiêu về doanh thu và lợi nhuận của KCN và doanh nghiệp.
- Đảm bảo phù hợp với các cam kết mà Việt Nam đã tham gia.
Việt Nam là thành viên của tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), hiệp định
các biện pháp đầu tư liên quan đến thương mại (TRIMs) là một trong các hiệp định
của WTO mà Việt Nam tham gia ký kết, gần nhất là Việt Nam tham gia ký kết hiệp
định đối tác chiến lược xuyên Thái Bình Dương (TPP). Do đó, công tác QLNN đối
với các KCN cần phải đảm bảo đúng và phù hợp với các nội dung ở các hiệp định
mà Việt Nam đã tham gia ký kết.
- Đảm bảo sự phát triển bền vững kinh tế - xã hội của địa phương và đất nước
Quan điểm phát triển bền vững kinh - tế xã hội đã sớm được Đảng và Nhà
nước ta đặt ra với nội dung ngày càng hoàn thiện và đã trở thành một chủ trương
nhất quán trong lãnh đạo, quản lý, điều hành tiến trình phát triển của đất nước trong
nhiều thập kỷ qua. Nhà nước cũng đã có những cam kết mạnh mẽ về phát triển bền
vững. Sự phát triển nhanh chóng của các KCN tại các địa phương cũng đặt ra những
vấn đề về môi trường và giải quyết việc làm cho người lao động, do đó công tác
QLNN đối với các KCN cần phải đảm bảo sự phát triển bền vững kinh tế - xã hội
của địa phương và đất nước.
1.2.2. Nội dung cơ bản của quản lý Nhà nước đối với KCN tại các địa
phương cấp tỉnh
1.2.2.1. Thực hiện các công tác xây dựng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch
phát triển KCN
Yêu cầu: Khi xây dựng chiến lược, quy hoạch phát triển KCN, phải nghiên
cứu tổng thể các điều kiện tự nhiên và xã hội trong chiến lược phát triển kinh tế
chung, phải tạo được bước đi phù hợp với khả năng của địa phương về tài chính, thu
hút các nguồn vốn đầu tư của từng thời kỳ.
Phát triển KCN cần phải tính đến sự phân bổ nguồn lực sản xuất tại địa
phương, sức thu hút nguồn lao động từ nơi khác đến, đảm bảo sử dụng các nguồn
lực một cách hiệu quả và bảo vệ môi trường sinh thái tại địa phương xây dựng
KCN. Phát triển KCN cũng cần phải tính đến sự phát trển hài hòa giữa các vùng,
lãnh thổ để có thể tận dụng được lợi thế cạnh tranh giữa các vùng, lãnh thổ , địa
18
phương để đảm bảo sự phát triển cân đối hợp lý của cả nước; cân nhắc, quyết định
số lượng KCN cần xây dựng trong từng giai đoạn cụ thể.
Nội dung: Dựa vào thực tế phát triển công nghiệp, dự báo nhu cầu phát triển
công nghiệp hỗ trợ, xác định cơ cấu công nghiệp, khai thác thế mạnh về nguyên liệu
và nguồn lực tại chỗ của từng địa phương mà xây dựng quy hoạch tổng thể phát
triển KCN hàng năm và 5 năm. Đảm bảo các yếu tố thuận lợi trong các giải pháp về
việc đầu tư xây dựng các công trình cơ sở hạ tầng trong và ngoài KCN, đám bảo
tính khả thi, tiến độ xây dựng và phát triển KCN đúng với kế hoạch đã đề ra. Trong
quy hoạch phải công bố danh mục các KCN dự kiến thành lập trong từng thời kỳ,
quy mô, vị trí và dự kiến thời gian thành lập; cần làm rõ hình thức để hình thành
KCN; cần nêu rõ các vấn đề về: quy hoạch phân khu chức năng, quy hoạch ngành,
nghề đầu tư vào KCN; xử lý chất thải, hạ tầng kỹ thuật. Quy hoạch ngành nghề theo
quy hoạch chung và lợi thế của từng khu vực, tránh trùng lặp ngành nghề dẫn đến sự
phân bố không hợp lý, thậm chí cạnh tranh không lành mạnh gây hậu quả tiêu cực.
1.2.2.2. Phát triển cơ sở hạ tầng và quản lý nguồn nhân lực cho KCN
Yêu cầu về phát triển cơ sở hạ tầng: phát triển cơ sở hạ tầng theo đúng quy
hoạch, thiết kế, tiến độ được duyệt. Đối với những KCN có quy mô lớn thì nên chia
ra làm nhiều giai đoạn. Bảo đảm nguyên tắc khi giai đoạn trước đã được xây dựng
xong và đã được các nhà đầu tư thuê hết đất công nghiệp thì mới tiếp tục triển khai
các giai đoạn sau; các công trình kết cấu hạ tầng phải được duy tu, bảo dưỡng định
kỳ trong thời gian hoạt động KCN; phải đảm bảo vệ sinh công nghiệp, bảo vệ môi
trường trong KCN.
Nội dung về phát triển cơ sở hạ tầng: Phê duyệt quy hoạch chi tiết KCN tại
địa phương, giám sát chặt chẽ quá trình thực hiện đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng
KCN theo quy hoạch đã được duyệt, đảm bảo đúng tiến độ và chất lượng các công
trình. Định kỳ tiến hành kiểm tra chất lượng các công trình, việc thực hiện tiến độ,
kịp thời phát hiện những sai phạm tiêu chuẩn kỹ thuật, những vướng mắc khó khăn
để có biện phám hỗ trợ và xử lý kịp thời. Kiên quyết yêu cầu việc thực hiện đầu tư
xây dựng và hoàn thiện các hạng mục, hạ tầng tầng kỹ thuật đặc biệt là trảm xử lý,
hệ thống thống xử lý nước thải. Việc phát triển cơ sở hạ tầng sẽ tạo điều kiện tốt cho
việc thu hút các nhà đầu tư tới KCN.
19
Yêu cầu về quản lý nguồn nhân lực: Phát triển nguồn nhân lực phải được xây
dựng dựa trên quy hoạch phát triển KCN trong từng thời kỳ; giải quyết việc làm cho
lao động địa phương, lao động nằm trong diện tích thu hồi đất để xây dựng KCN;
đảm bảo vấn đề về bình đẳng, hợp pháp cho người lao động trong KCN; đạo tạo,
bồi dưỡng lao động có tay nghề cao đáp ứng những yêu cầu của DN.
Nội dung quản lý nguồn nhân lực: Phát triển nguồn nhân lực cho KCN, tạo ra
tiềm năng của nhân lực thông qua đào tạo, bồi dưỡng, khai thác tối đa tiềm năng
trong đó có các hoạt động, lao động thông qua việc tuyển dụng, tạo điều kiện về
môi trường làm việc, môi trường xã hội, môi trường văn hóa để kích thích động cơ,
thái độ làm việc của con người. Dự báo nhu cầu về lao động ở các KCN để từ đó có
những chiến lược thu hút, đào tạo nguồn lao động. Tuyên truyền, phổ biến các văn
bản pháp luật về lao động cho người lao động và người sử dụng lao động trong các
KCN, nhằm giúp người lao động, cán bộ quản lý nắm vững được các quy định của
pháp luật liên quan đến quyền và nghĩa vụ khi tham gia quan hệ lao động.
1.2.2.3. Xúc tiến và hỗ trợ các dự án đầu tư
Yêu cầu: Xúc tiến và hỗ trợ đầu tư có ý nghĩa hết sức quan trọng đối với quá
trình hình thành và phát triển của KCN. Nhằm giới thiệu môi trường đầu tư, các
chính sách ưu đãi, các điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư bỏ vốn xây dựng và
vận hành các DN trong KCN.
Nội dung: Xây dựng danh mục các dự án kêu gọi đầu tư trong nước vào
KCN; xây dựng danh mục thu hút vốn đầu tư nước ngoài vào KCN; xây dựng các
chương trình xúc tiến đầu tư chuyên đề đầu tư vào KCN; tạo môi trường đầu tư
thông thoáng, độ an toàn cao, tạo điều kiện thông thoáng về mọi mặt cho DN đầu tư
vào KCN, tạo sự tin tưởng cho các nhà đầu tư. Nhà nước hỗ trợ các KCN tổ chức
xúc tiến đầu tư thông qua hoạt động quảng bá hình ảnh, thông tin về các KCN trên
các website của các cơ quan nhà nước. Ngoài ra, ở các địa phương còn tổ chức các
đoàn đi quảng bá ở nước ngoài cho các KCN của họ.
1.2.2.4. Kiểm tra, kiểm soát của QLNN đối với các KCN
Nội dung của công tác kiểm tra, kiểm soát của QLNN đối với các KCN như sau:
Theo dõi, kiểm tra, thanh tra việc thực hiện giấy phép đầu tư, hợp đồng gia
công thành phẩm, hợp đồng gia công dịch vụ, hợp đồng kinh doanh, các tranh chấp
kinh tế trong KCN; kiểm tra, thanh tra các quy định của pháp luật về lao động, thỏa
ước lao động tập thể, an toàn lao động, tiền lương; kiểm tra, thanh tra việc thực hiện
20
kế hoạch xuất nhập khẩu của các doanh nghiệp trong KCN; kiểm tra việc bảo vệ
môi trường trong KCN; kiểm tra việc tổ chức phòng và chống cháy nổ; kiểm tra các
lĩnh vực khác được cơ quan có thẩm quyền ủy quyền; sau khi kiểm tra, thanh tra
BQL phải báo cáo kết quả kiểm tra, thanh tra cho các cơ quan đã ủy quyền công tác
đó và báo cáo kết quả kiểm tra cho doanh nghiệp được điều tra biết.
1.2.3. Bộ máy và các công cụ quản lý Nhà nước đối với khu công nghiệp
tại các địa phương cấp tỉnh
a) Bộ máy quản lý Nhà nước đối với khu công nghiệp tại các địa phương
cấp tỉnh
KCN là một thực thể kinh tế vô cùng phức tạp bao gồm trong nó không chỉ là
hoạt động sản xuất CN đơn thuần, mà còn chứa đựng nhiều hoạt động khác như
thương mại, xuất, nhập khẩu, dịch vụ cho hoạt động CN như ngân hàng, đào tạo, tư
vấn…Do đó, quản lý KCN là nhiệm vụ của bộ máy Nhà nước, từ các cơ quan hoạch
định luật pháp, chế độ, chính sách, đến cơ quan thực thi pháp luật, chế độ, chính
sách và cơ quan giải quyết tranh chấp kinh tế. Có thể thấy, KCN chịu sự chi phối
của hầu hết các bộ luật, chịu sự quản lý các bộ chuyên ngành và chính quyền địa
phương. Tuy nhiên, việc nghiên cứu đề tài này tác giả chỉ tập trung xem xét bộ máy
quản lý KCN trực tiếp của các cơ quan đã được phân cấp theo chế độ của Nhà nước
ta hiện nay ở địa phương cấp tỉnh. Theo góc độ này, các cơ quan trực tiếp quản lý
KCN bao gồm:
- UBND cấp tỉnh, trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình,
thực hiện nhiệm vụ quản lý Nhà nước về ngành, lĩnh vực và hành chính lãnh thổ đối
với KCN, quản lý tài nguyên môi trường, quản lý và phát triển đô thị, quản lý đất
đai, lao động, thương mại, xuất – nhập khẩu, có trách nhiệm hướng dẫn hoặc ủy
quyền cho Ban quản lý thực hiện một số nhiệm vụ quản lý Nhà nước đối với KCN.
- Ban quản lý các KCN: thực hiện ủy quyền của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, ủy
quyền của UBND tỉnh trong việc quản lý trực tiếp KCN về các lĩnh vực đầu tư, xây
dựng, quy hoạch, tổ chức bộ máy, biên chế của Ban và một số lĩnh vực khác theo
quy định của pháp luật trên cơ sở hoạt động theo nguyên tắc “Một cửa, tại chỗ”
nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động đầu tư kinh doanh của nhà đầu tư và các
yêu cầu đầu tư phát triển KCN.