Tải bản đầy đủ (.pdf) (17 trang)

Kinh tế môi trường (Field & Olewiler) - Chương 10: Luật nghĩa vụ pháp lý, quyền sở hữu, thuyết phục đạo đức, hàng hóa xanh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (259.56 KB, 17 trang )

CHƯƠNG 10

LUẬT NGHĨA VỤ PHÁP LÝ, QUYỀN SỞ HỮU,
THUYẾT PHỤC ĐẠO ĐỨC, HÀNG HÓA XANH
Luật nghĩa vụ pháp lý, phân định quyền sở hữu, thuyết phục đạo đức, và hàng hóa xanh là
những ví dụ về phương pháp phi tập trung để nội hóa ngoại tác. Phương pháp phi tập
trung/phân quyền cho phép các cá nhân liên quan đến ô nhiễm môi trường tự giải quyết
vấn đề mỗi khi có các nguyên tắc rõ ràng về thủ tục và quyền được thiết lập thông qua hệ
thống pháp luật. Các chính sách quản lý môi trường như thuế, trợ cấp, giấy phép phát thải
có thể chuyển nhượng là ít phân quyền hơn bởi vì chúng đòi hỏi sự can thiệp của chính phủ
nhiều hơn dưới hình thức đặt ra quy định các mức thuế, mức trợ cấp, hoặc số giấy phép
phát thải có thể chuyển nhượng. Tuy nhiên, chúng vẫn cho phép các cá nhân quyết định
nên đối phó như thế nào với chính sách – ví dụ, cần phải giảm thải bao nhiêu. Tiêu chuẩn
môi trường là một chính sách rất tập trung: chính phủ quy định tiêu chuẩn và các chủ thể
gây ô nhiễm không có lựa chọn nào khác mà phải đáp ứng các tiêu chuẩn hoặc phải chịu
phạt nếu vi phạm. Chúng ta sẽ bắt đầu với phương pháp phi tập trung nhất trong miền
chính sách từ phi tập trung đến tập trung, và sau đó xem xét các công cụ đòi hỏi sự can
thiệp nhiều hơn của chính phủ trong các chương tiếp theo.
Hãy xem xét một ví dụ đơn giản. Giả sử có nhiều nhà máy công nghiệp quanh hồ nước. Có
một nhà máy chế biến thực phẩm, và nước hồ là một đầu vào quan trọng cho họat động của
nhà máy. Một nhà máy công nghiệp khác xả chất thải vào hồ. Thiệt hại ô nhiễm mà nhà
máy thứ nhất phải chịu có thể cân bằng như thế nào với chi phí xử lý của nhà máy thứ hai?
Phương pháp phi tập trung để xác định mức ô nhiễm hiệu quả của nước hồ là cứ để hai nhà
máy tự giải quyết với nhau. Hai nhà máy có thể thực hiện việc đó bằng cách đàm pháp
không chính thức hoặc thông qua tòa án. Phương pháp tập trung hơn đòi hỏi sự can thiệp
của chính phủ - từ việc đánh thuế chất thải đến việc quy định tiêu chuẩn chất lượng nước.
Cách tiếp cận phi tập trung có một số ưu điểm so với các cách tiếp cận chính sách khác:


Các bên liên quan là những người tạo ra và chịu ngoại tác môi trường. Vì vậy họ có
động cơ tìm kiếm giải pháp đối với vấn đề môi trường.





Những người liên quan có thể là những người có hiểu biết tốt nhất về thiệt hại và chi
phí xử lý và vì vậy có khả năng tốt nhất đề xác định mức ô nhiễm hiệu quả.

Để phương pháp phi tập trung có thể xảy ra, quyền sở hữu phải được định rõ và phân bổ
trước đó. Trong trường hợp môi trường, xã hội thông qua chính phủ và hệ thống pháp lý
cần quyết định ai là người có quyền đối với chất lượng môi trường. Như đã biết, việc xác
định quyền sở hữu là rất khó khăn. Một vấn đề căn bản là có phải người dân có quyền đối
với một mức chất lượng môi trường nào đó hay những người gây ô nhiễm được tự do xả
chất thải. Chúng ta sẽ thảo luận về quyền môi trường như là quyền sở hữu của người gây ô
nhiễm hay của người bị ảnh hưởng ô nhiễm. Một khi xác định được điều này, quyết định
tiếp theo là những quyền đó sẽ được bảo vệ như thế nào, thông qua luật nghĩa vụ pháp lý
hay quyền sở hữu. Chúng ta sẽ bắt đầu với luật nghĩa vụ pháp lý vì nó quen thuộc với hầu
hết mọi người.
Barry Field & Nancy Olewiler

1


LUẬT NGHĨA VỤ PHÁP LÝ
Phần lớn mọi người có ý niệm trực giác về nghĩa vụ pháp lý/trách nhiệm và bồi thường. Có
trách nhiệm về hành vi là phải chịu trách nhiệm về bất kỳ hậu quả không hay nào do hành
vi đó gây nên. Bồi thường đòi hỏi người gây thiệt hại phải đền bù cho người bị thiệt hại
một lượng tương ứng với tổn thất. Những vấn đề về nghĩa vụ pháp lý và bồi thường thường
được tòa án giải quyết. Bên bị thiệt hại khởi tố bên bị coi là phải chịu trách nhiệm, và thẩm
phán, ban hội thẩm quyết định theo những điều khoản do luật pháp quy định. Tòa án sẽ
quyết định giá trị thiệt hại. Như chúng ta sẽ thấy dưới đây, điều này hoàn toàn trái ngược
với phương pháp quyền sở hữu, ở đó giá trị thiệt hại do các bên liên quan xác định.

Vì vậy một giải pháp cho vấn đề môi trường là dựa vào luật nghĩa vụ pháp lý. Nó đơn giản
buộc người gây ô nhiễm chịu trách nhiệm về thiệt hại mà họ gây nên. Mục đích của luật
không chỉ đơn thuần đảm bảo bồi thường cho những người bị thiệt hại, mặc dù điều này là
rất quan trọng. Mục tiêu đích thực là làm cho cho những người có thể gây ô nhiễm có
quyết định cẩn thận hơn. Biết rằng họ phải chịu trách nhiệm về thiệt hại môi trường thực
chất là nội hóa những gì có thể là tác động ngoại tác bị bỏ qua. Ví dụ dưới đây minh họa
những nguyên lý liên quan.
Ví dụ: Chất thải hóa học gây thiệt hại cho ngành thủy sản
Một nhà máy hóa chất thải chất thải vào một dòng sông. Chất thải giết chết nhiều cá hồi, là
loại cá có thể bơi ngượi dòng sông để sinh sản. Không nghi ngờ gì những hóa chất đó còn
gây nên những thiệt hại môi trường khác, nhưng chúng ta chỉ tập trung vào thiệt hại cho
ngành thủy sản. Hình 10–1 thể hiện mô hình MAC–MD được phát triển ở Chương 5.
Ký hiệu E là số tấn chất thải hóa học thải vào sông hàng tháng. Thiệt hại biên của ngành
thủy sản (đo bằng trữ lượng cá hồi bị mất) được biểu diễn bằng hàm MD. Phương trình
thiệt hại biên MD = 6E. Nhà máy hóa chất có thể giảm lượng chất thải bằng cách xử lý
chất thải. Hàm chi phí xử lý chất thải biên (MAC) của nhà máy là MAC = 800 – 10E. Nếu
giảm hết lượng chất thải, chi phí xử lý biên là 800$. Nếu hoàn toàn không kiểm soát chất
thải thì MAC = 0 và lượng thải là 80 tấn mỗi tháng.
Luật nghĩa vụ pháp lý sẽ ảnh hưởng như thế nào đến mức ô nhiễm? Trước hết giả sử không
có luật nghĩa vụ pháp lý để buộc người gây ô nhiễm phải chịu trách nhiệm về thiệt hại mà
họ gây nên. Trong trường hợp này nhà máy hóa chất sẽ không xử lý chất thải, nên lượng ô
nhiễm là ở điểm MAC = 0. Nhà máy hóa chất thải 80 tấn mỗi tháng. Gọi lượng ô nhiễm đó
là E0. Tại E0 ngành đánh bắt cá hồi phải chịu tổng thiệt hại (TD) bằng toàn bộ diện tích
phía dưới đường MAC từ 0 đến 80 tấn. Tổng thiệt hại là TD = 19.200$ mỗi tháng. Chính
phủ yêu cầu ban hành luật nghĩa vụ pháp lý buộc người gây ô nhiễm phải bồi thường cho
người bị thiệt hại một lượng bằng thiệt hại mà họ gây nên. Mục đích của luật là nội hóa
thiệt hại môi trường, là ngoại vi trước khi ban hành luật. Những thiệt hại đó bây giờ trở
thành chi phí mà người gây ô nhiễm phải trả, và vì vậy họ phải cân nhắc khi quyết định
mức thải. Nếu không giảm thải, nhà máy hóa chất phải bồi thường cho ngành thủy sản toàn
bộ thiệt hại 19.200$ mỗi tháng.

Sơ đồ 10–1 minh họa đồ thị đường MD và MAC.
Sơ đồ 10-1: Trách nhiệm về thiệt hại môi trường có thể dẫn đến hiệu quả xã hội như thế
nào

Barry Field & Nancy Olewiler

2


$
800

MAC
MD

480
420
300

100
0

50

70

80

Chất thải (tấn mỗi tháng)


Khi không có luật nghĩa vụ pháp lý nhà máy hoá chất sẽ không xử lý chất thải và sẽ thải 80 tấn hoá chất mỗi
tháng. Với mức thải đó, thiệt hại của ngành thủy sản là 19.200$ mỗi tháng. Ban hành luật nghĩa vụ pháp lý sẽ
khuyến khích nhà máy hoá chất giảm thải. Họ sẽ tối thiểu hóa tiền bồi thường phải trả cộng tổng chi phi phí
xử lý nếu họ thải với mức thải hiệu quả xã hội 50 tấn mỗi tháng.

Liệu nhà máy hoá chất có thay đổi lượng thải để đối phó lại luật nghĩa vụ pháp lý không?
Người gây ô nhiễm có thể giảm lượng tiền bồi thường bằng cách giảm thải. Khi đó nhà
máy phải chịu chi phí xử lý chất thải được thể hiện bằng đường MAC. Chừng nào MAC
còn nhỏ hơn MD, nhà máy hoá chất vẫn còn khuyến khích dịch chuyển sang trái, có nghĩa,
giảm mức thải của nhà máy. Trên lý thuyết, hệ thống luật nghĩa vụ pháp lý sẽ tự động
hướng người gây ô nhiễm đến mức thải hiệu quả xã hội, E* = 50 tấn mỗi tháng. Chúng ta
nói “tự động” bởi vì không cần có cơ quan kiểm soát ô nhiễm yêu cầu giảm mức thải. Cái
cần thiết có là hệ thống toà án phân quyền và luật nghĩa vụ pháp lý cho phép người bị thiệt
hại ô nhiễm đòi bồi thường cho thiệt hại.
Chúng ta có thể chứng minh rằng giảm thải đến E* là chiến lược tốt hơn cho nhà máy hoá
chất hơn là không giảm thải và duy trì mức thải E0.
Chứng minh người gây ô nhiễm sẽ chuyển từ E0 đến E* khi họ phải chịu trách nhiệm
về thiệt hại do ô nhiễm.
Các bước:
1. Tính tổng chi phí giảm thải của nhà máy hóa chất (TAC) tại E* = 50 tấn mỗi tháng. TAC bằng
diện tích phía dưới đường MAC từ E0 đến E*, và bằng [½ (80 – 50) 300] = 4.500 $.
2. Tính tổng thiệt hại của ngành thủy sản tại E* (bởi vì lượng thải lớn hơn không). Tổng thiệt hại
tại E* bằng diện tích phía dưới đường MD từ 0 đến 50 tấn, và bằng [½ (50 300) ] = 7.500 $.
3. Tính tổng số tiền phải chi của nhà máy hóa chất. Tổng số tiền phải chi = TAC + tiền bồi
thường cho ngành thủy sản = 4.500$ + 7.500$ = 12.000 $ mỗi tháng.
4. So sánh tổng số tiền phải chi tại E0 và E*. Tại E0 nhà máy sẽ phải trả tiền bồi thường 19.200$
mỗi tháng cho ngành thủy sản. Điều này chứng tỏ tại E* nhà máy sẽ tốt hơn tại E0.

Câu hỏi thảo luận: Chúng ta đã chứng minh là E* thì tốt hơn E0, liệu còn có mức thải nào
khác tốt hơn cho nhà máy so với E* không? Đây là vấn đề được đề cập ở cuối chương.

Trên lý thuyết, luật nghĩa vụ pháp lý tồn tại là để giải quyết vấn đề khuyến khích – làm cho
người ta quan tâm đến thiệt hại môi trường mà họ có thể gây nên – cũng như vấn đề bồi
thường những ai bị thiệt hại. Nó cũng giải quyết vấn đề xác định điểm E* ở đâu trên trục
lượng phát thải. Kết quả của sự tác động qua lại giữa người gây ô nhiễm và người bị thiệt
Barry Field & Nancy Olewiler

3


hại tại tòa án sẽ chỉ ra điểm E* này. Giả định tòa án công bằng, cả hai phía sẽ đưa ra những
chứng cứ và yêu sách có thể tiến đến mức thải hiệu quả. Tóm lại
Luật nghĩa vụ pháp lý có thể dẫn tới mức ô nhiễm hiệu quả xã hội bởi vì chúng
khuyến khích người gây ô nhiễm giảm thải để tối thiểu hóa tổng chi phí của họ gồm tổng chi phí xử lý và tiền bồi thường cho người bị thiệt hại.

Luật nghĩa vụ pháp lý trong thực tế
Yêu cầu người gây ô nhiễm phải chịu trách nhiệm về thiệt hại là một phần của bộ luật cơ
bản của mỗi quốc gia, hoặc có thể được nêu trong sắc lệnh của luật. Việc dựa vào trách
nhiệm để giải quyết tất cả các vấn đề ô nhiễm môi trường có một số trở ngại. Yếu tố khó
khăn trong hệ thống trách nhiệm là xác định trách nhiệm minh chứng thuộc về ai và những
tiêu chuẩn nào cần phải đáp ứng để thiết lập chứng cứ. Ở Canada, những người cho rằng
họ bị thiệt hại do ô nhiễm phải đệ trình tòa trong một khoảng thời gian xác định, và trước
tòa án phải thiết lập quan hệ nhân quả giữa ô nhiễm và thiệt hại. Việc này gồm hai bước
chính:
Trách nhiệm minh chứng yêu cầu bên bị hại phải trình bày rõ:
1. rằng chất gây ô nhiễm là nguyên nhân trực tiếp gây thiệt hại cho họ
2. rằng chất gây ô nhiễm là do phía bị cáo có mặt tại tòa gây ra
Cả hai bước đều khó khăn bởi vì các tiêu chuẩn minh chứng theo yêu cầu của tòa án là
nhiều hơn so với những gì khoa học hiện đại có thể cung cấp. Xem xét bước thứ nhất. Ví
dụ, phần lớn hóa chất liên quan đến bệnh tật tăng lên chỉ dựa trên cơ sở xác suất, nghĩa là
tiếp xúc với chất đó làm tăng xác suất bị bệnh, nhưng không chắc chắn. Chẳng hạn mặc

dầu chúng ta biết hút thuốc gây ung thư phổi, quan hệ nhân quả này vẫn là quan hệ xác
suất: số người bị ung thư phổi sẽ tăng lên do hút thuốc, nhưng chúng ta không thể nói
chính xác người nào.
Bước thứ hai nhằm chứng minh chất mà người bị ảnh hưởng tiếp xúc xuất phát từ một
nguồn cụ thể. Trong một số trường hợp điều này không khó. Nhưng trong nhiều trường
hợp ta không thể biết được mối liên hệ trực tiếp.
Điều này làm nảy sinh thêm một vấn đề trong việc sử dụng hệ thống pháp luật để giải
quyết ô nhiễm môi trường. Nếu người ta cảm thấy bị thiệt hại, liệu tòa án có thừa nhận sự
thỉnh cầu của họ không? Điều này được gọi là học thuyết quyền được kiện. Xem xét một
số ví dụ sau. Người dân bang Victoria làm ô nhiễm nước ở cảng nhưng liệu người dân ở
Edmonton có quyền tuyên bố họ bị thiệt hại? Nếu ngư dân ở Newfoundland va Labrador
khai thác hết cá tuyết để nuôi sống gia đình họ, liệu cư dân sống ở Winnipeg có quyền
tuyên bố họ bị thiệt hại? Trong những trường hợp này, khó có thể nói tòa án sẽ thừa nhận
quyền được kiện bởi vì rất khó để kết luận những người sống ở xa bị thiệt hại. Tuy nhiên
rõ ràng cư dân ở bang Victoria, những người đang điều hành hoạt động du lịch bị ảnh
hưởng bởi nước thải ở cảng Victoria sẽ được tòa án trao cho quyền được kiện. Các ví dụ
này cho thấy một điểm rất quan trọng. Một cá nhân có thể thấy phúc lợi bị giảm nếu trữ
lượng cá bị cạn kiệt hay biển bị ô nhiễm. Anh ta có thể sẵn lòng trả một số tiền nào đó để
giảm ô nhiễm. Nhưng anh ta vẫn không có quyền được kiện tại tòa.
Học thuyết quyền được kiện không tương thích với việc các nhà kinh tế sử
dụng giá sẵn lòng trả để đo lường giá trị. Giá trị được xác định thông qua các
phiên tòa có thể không phản ánh đầy đủ giá trị mà người ta sẵn lòng trả vì
chất lượng môi trường.
Barry Field & Nancy Olewiler

4


Chi phí giao dịch
Tất cả các phương pháp phân quyền trong kiểm soát ô nhiễm đều gặp phải một trở ngại

khác có thể làm việc đạt được cân bằng hiệu quả xã hội khó khăn, đó là chi phí giao dịch.
Theo nghĩa rộng, chi phí giao dịch là chi phí để đạt đến và thi hành các thỏa thuận. Khái
niệm này được giới thiệu lần đầu trong kinh tế học, áp dụng với chi phí mà người mua và
người bán phải chịu đề thực hiện thành công một giao dịch – bao gồm chi phí tìm kiếm
thông tin, chi phí mặc cả về các điều khoản, và chi phí để đảm bảo chắc chắn rằng thỏa
thuận sẽ được thực hiện. Chí phí giao dịch có thể áp dụng đối với hệ thống luật nghĩa vụ
pháp lý, khi nguyên đơn và bị cáo đối chất trước tòa để làm rõ trách nhiệm và lượng tiền
cần phải bồi thường. Trong trường hợp này chi phí giao dịch là tất cả chi phí gắn liền với
việc thu thập chứng cứ, khởi tố, thách thức đối phương, trừng phạt, v.v.
Nếu chúng ta giải quyết một sự vụ đơn giản, mỗi bên chi có một đương sự và trường hợp
thiệt hại là khá rõ ràng, hệ thống luật nghĩa vụ pháp lý có thể thực hiện chức năng với chi
phí giao dịch tối thiểu và đưa ra kết quả cho phép tiếp cận được mức thải hiệu quả. Về
trường hợp hai nhà máy nhỏ ở bên một hồ nước nhỏ, hai nhà máy có thể hầu tòa và tranh
luận về giá trị của hồ nước đối với mỗi bên. Vì những giá trị này là có thể so sánh được với
nhau, sẽ không khó khăn gì cho thẩm phán xác định mức độ thiệt hại mà nhà máy này gây
nên cho nhà máy kia. Nhưng vấn đề trở nên hoàn toàn khác khi có nhiều người liên quan
đến một hoặc cả hai bên. Ví dụ sự cố tràn dầu Exxon Valdez, hàng chục ngàn người cho
rằng họ bị thiệt hại trực tiếp, hàng trăm luật sư đại diện cho nhiều phía khác nhau, vô số
các nhóm môi trường, các tổ chức chính phủ, các nhóm kinh doanh cũng tham gia. Cuối
cùng sau một loạt các cuộc đối chất dai dẳng, một số tiền bồi thường được trả. Nhưng chi
phí giao dịch thì rất lớn, và cuối cùng bồi thường có lẽ không phản ánh đúng thiệt hại thực
tế. Không nghi ngờ gì một số đương sự chủ yếu đã cố gắng giải quyết vấn đề với một thỏa
thuận bồi thường cả gói trước đó, mặc dầu vẫn còn các vụ kiện tiếp tục.
Tóm lại, luật nghĩa vụ pháp lý và động cơ mà chúng tạo nên có thể giúp đạt được mức ô
nhiễm hiệu quả khi




có ít người can dự

quan hệ nhân quả rõ ràng, và
dễ đo lường thiệt hại

Những điều kiện đó có thể đảm bảo ở một số trường hợp ô nhiễm địa phương, không đảm
bảo với phần lớn các trường hợp ngoại tác môi trường.
Vì vậy luật nghĩa vụ pháp lý hạn chế khi





có nhiều khó khăn trong chứng minh vấn đề
khó đạt được thừa nhận quyền được kiện
giá trị theo luật không phản ánh giá sẵn lòng chi trả, và
chi phí giao dịch ngăn cản đàm phán và tố tụng.

Barry Field & Nancy Olewiler

5


QUYỀN SỞ HỮU
Ví dụ về dòng sông mà nhà máy hóa chất sử dụng để xả chất thải còn ngành đánh bắt cá
hồi thì sử dụng cho cá sinh sản dẫn đến một vấn đề cơ bản hơn: Ai trong hai người thực sự
gây thiệt hại, và ai là người bị thiệt hại? Điều này dường như trái ngược nhau, bởi vì có thể
cho rằng nhà máy hóa chất gây thiệt hại. Nhưng liệu sự hiện diện của ngành thủy sản có
gây nên thiệt hại cho nhà máy hóa chất hay không bởi vì sự hiện diện của ngành thủy sản
đòi hỏi nhà máy hóa chất phải nỗ lực kiểm soát chất thải?1
Vấn đề nảy sinh đơn giản chỉ vì không rõ ai có quyền sử dụng dịch vụ của hồ nước lúc
đầu, có nghĩa ai thực sự có quyền sở hữu hồ nước - quyền sở hữn tài sản chứa đựng quyền

lực. Quyền lực này có thể bao gồm quyền loại trừ sử dụng, quyền chuyển nhượng, hoặc
phân chia thành các phần nhỏ hơn. Quyền sở hữu mạnh mẽ nhất là quyền sở hữu tư nhân,
nó cho phép người sở hữu tài sản có độc quyền làm những gì mà người đó muốn đối với
tài sản đó (với điều kiện tuân theo pháp luật, như không gây phiền toái công cộng). Tài
sản có thể là một mảnh đất, một phần của khúc sông, một vật nào đó, sáng chế v.v. Khi
một người nào đó sở hữu tài sản thì người đó muốn tài sản được quản lý theo cách mang
lại giá trị lớn nhất. Vì vậy để giải quyết vấn đề ô nhiễm hồ nước cần phải xác định rõ ai có
quyền sở hữu hồ nước. Liệu việc phân định quyền sở hữu có đủ để giải quyết vấn đề và
đạt được cân bằng hiệu quả xã hội là chủ đề thảo luận của phần này.
Tất nhiên, quyền sở hữu cá nhân là sự sắp xếp thể chế chủ yếu ở phần đa các nền kinh tế
phát triển ở châu Âu. Vì vậy chúng ta quen thuộc với hoạt động của hệ thống thể chế đó.
Các nước đang phát triển đang vận động theo xu hướng đó, ngay các nước xã hội chủ
nghĩa trước đây cũng vậy. Quyền sở hữu cá nhân về đất cũng là quen thuộc. Nếu ai có một
thửa đất, người đó có động cơ làm cho thửa đất được sử dụng theo cách cho phép đạt giá
trị tối đa. Nếu một người nào đó đe dọa đổ rác vào thửa đất, chủ đất có thể yêu cầu luật
pháp ngăn chặn, nếu họ muốn như vậy. Theo cách phán đoán này thì vấn đề sử dụng tài
sản môi trường không đúng là do quyền sở hữu các tài sản này không được phân định
không hoàn hảo. Hãy xem xét một lần nữa về trường hợp nhà máy hóa chất và ngành thủy
sản, cả hai cùng sử dụng một dòng sông. Quyền sở hữu dòng sông có thể thuộc về nhà
máy hóa chất hoặc ngành thủy sản. Điều này ảnh hưởng như thế nào đến mức ô nhiễm hồ
nước? Liệu không thể có trường hợp không ô nhiễm khi nhà máy sở hữu hồ nước hoặc ô
nhiễm không được kiểm soát nếu hồ nước thuộc sở hữu của nhà máy kia? Sẽ không diễn
ra những tình huống như vậy nếu người có quyền sở hữu và người không có quyền sở hữu
đàm phán. Tất nhiên đây là điều cốt yếu của hệ thống quyền sở hữu. Chủ tài sản quyết
định tài sản nên sử dụng như thế nào và chấm dứt việc sử dụng không được cho phép,
nhưng cũng có thể đàm phán với những người khác muốn tiếp cận tài sản. Bây giờ chúng
ta thảo luận làm thế nào việc phân quyền sở hữu có thể dẫn đến cân bằng hiệu quả xã hội.

Phân định quyền sở hữu và hiệu quả xã hội
Câu hỏi để suy ngẫm: Việc ai có quyền sở hữu môi trường, miễn là có người có quyền sở

hữu, có quan trọng gì không? Việc phân quyền sở hữu cho một bên bất kỳ sẽ dẫn đến cân
bằng tối ưu xã hội hay không? Có thể giải đáp những câu hỏi này bằng cách sử dụng biểu
đồ với đường MAC và MD từ phần thảo luận về luật nghĩa vụ pháp lý. Hình 10-2 vẽ lại
những đường này.
1

Để dễ dàng tranh luận, chúng ta giả định không có những chủ thể khác sử dụng hồ nước, như hộ gia đình,
người du lịch giải trí, và các nhà máy khác.

Barry Field & Nancy Olewiler

6


Trường hợp 1: Nhà máy hóa chất (chủ thể gây ô nhiễm) có quyền sử dụng dòng sông
Có quyền sở hữu có nghĩa nhà máy có quyền sử dụng dòng sông nếu muốn. Nhà máy
không phải bồi thường cho ngành thủy sản vì thiệt hại ô nhiễm. Từ ví dụ trước chúng ta
biết rằng nhà máy hóa chất sẽ tránh chi phí xử lý và vì vậy sẽ thải 80 tấn chất thải hóa học
mỗi tháng. Hãy nhớ lại rằng với mức thải này, ngành thủy sản sẽ bị tổng thiệt hại là 19.200
$ mỗi tháng. Có phải đây là điểm mà vấn đề chưa được giải quyết không?
Hình 10–2: Phân định quyền sở hữu dẫn đến hiệu quả xã hội bất kể ai có quyền sở hữu.
$

MAC

800

MD
480
420

300

100
0

50

70

80

Chất thải (tấn mỗi tháng)

Nếu nhà máy hoá chất có quyền sử dụng dòng sông, thì nhà máy sẽ không xử lý bất kỳ một lượng chất thải
nào. Tám mươi tấn mỗi tháng là điểm bắt đầu. Ngành thuỷ sản sẽ mặc cả với nhà máy hoá chất và trả tiền
cho nhà máy nếu nhà máy giảm chất thải. Hai mức “hối lộ” là 100$ và 300$ cho mỗi tấn chất thải được giảm.
Cả hai bên đều có lợi nếu chất thải được xử lý.Cân bằng hiệu quả xã hội ở mức 50 tấn mỗi tháng có thể đạt
được sau khi thoả thuận. Nếu ngành thuỷ sản có quyền tài sản, điểm bắt đầu là chất thải bằng không và cân
bằng tối ưu xã hội cũng có thể đạt được từ cách thức phân địng quyền tài sản này.

Ngành thủy sản có thể trả tiền để nhà máy hóa chất giảm thải. Tại sao lại làm như vậy? Giả
sử ngành thủy sản nói rằng: “Chúng tôi sẽ trả anh 100$ cho mỗi tấn chất thải được xử lý –
có nghĩa không thải vào hồ.” Điều gì sẽ xảy ra? Nhà máy hóa chất sẽ cân bằng tiền trả
100$ mỗi tấn với đường MAC để xem liệu đâu là điểm hòa vốn khi xử lý ô nhiễm và do đó
phải chịu chi phí xử lý ô nhiễm và nhận tiền đền bù từ ngành thủy sản. Từ hình 10-2, từ
phải sang trái, chúng ta thấy rằng nhà máy hóa chất có thể giảm mức thải xuống 70 tấn mỗi
tháng. Chúng ta tìm được điểm này bằng đồ thị, điểm cắt nhau giữa đường 100$ và đường
MAC, hoặc bằng đại số bằng cách đặt MAC =100$ và giải phương trình để tìm E: MAC =
800 – 10E.
Nhà máy hóa chất được lợi hơn tại điểm cân bằng. Tại 70 tấn mỗi tháng, nhà máy trả 500$

mỗi tháng cho chi phí xử lý, nhưng lại nhận được tiền do ngành thủy sản trả là 1.000$ mỗi
tháng (mức trả 100$ mỗi tấn nhân với 10 tấn chất thải được xử lý mỗi tháng). Lợi ích ròng
của nhà máy là 500$ mỗi tháng. Ngành thủy sản cũng có lợi hơn ở mức 70 tấn so với mức
80 tấn mỗi tháng. Ngành thủy sản trả 14.700$ mỗi tháng (tại 70 tấn). Tổng thiệt hại giảm
đi 4.500$. Trừ đi 1.000$ trả cho nhà máy hóa chất, lợi ích ròng mà ngành thủy sản có được
là 3.500$. Vì vậy cả hai bên đều có lợi. Tổng lợi ích là 4.000$ (bằng 3.500$ cộng 500$).
Quá trình mặc cả có dừng lại ở đây không? Cả hai có thể tiếp tục mặc cả cho mỗi đơn vị
biên chừng nào thiệt hại biên còn vượt quá chi phí xử lý biên. Bắt đầu ở điểm 80 tấn mỗi
tháng, MD cao hơn MAC cho tới khi đạt được mức ô nhiễm 50 tấn mỗi tháng. Đó là điểm

Barry Field & Nancy Olewiler

7


hiệu quả xã hội. Tại mức 50 tấn mỗi tháng, nhà máy hóa chất nhận được 9.000$ mỗi tháng
từ ngành thủy sản và phải chịu chi phí xử lý 4.500$, vì vậy lợi ích ròng của nhà máy là
4.500$ so với mức thải 80 tấn mỗi tháng. Tổng thiệt hại của ngành thủy sản giảm từ
19.200$ xuống còn 7.500$, như vậy lợi ích ròng là 2.700$. Tổng lợi ích tăng thêm là
7.200$ (bằng 4.500$ cộng 2.700$). Tổng lợi ích ròng ở mức thải mới lớn hơn nhiều so với
ở mức thải 70 hoặc 80 tấn mỗi tháng.
Khi đạt được mức cân bằng tối ưu xã hội cả hai bên đều có lợi hơn so với điểm bắt đầu với
mức thải 80 tấn mỗi tháng. Nhưng chú ý rằng, lợi ích ròng của ngành thủy sản là lớn hơn ở
mức 70 tấn so với mức 50 tấn, mặc dầu tổng thiệt hại ở mức 70 tấn là cao hơn nhiều. Sở dĩ
như vậy là vì thiệt hại biên tăng dần. Giảm một ít ô nhiễm (10 tấn) tạo nên một lượng giảm
lớn trong thiệt hại trong khi đó ngành thủy sản phải trả không nhiều cho nhà máy hoá chất.
Dịch chuyển đến 50 tấn làm giảm tổng thiệt hại nhưng cũng làm tăng tiền phải trả cho nhà
máy hoá chất. Tất nhiên ngành thủy sản sẽ có lợi hơn ở mức 50 tấn nếu có thể giảm bớt
tiền phải trả cho nhà máy hoá chất. Nếu nhà máy hoá chất hoàn trả ít nhất 800$ (phần
chênh lệch của lợi ích ròng của ngành thủy sản ở 70 tấn và 50 tấn), ngành thủy sản sẽ sẵn

lòng dịch chuyển đến cân bằng tối ưu xã hội.
Trường hợp 2: Ngành thủy sản (chủ thể bị ảnh hưởng) có quyền sử dụng dòng sông
Với cách lập luận và lý giải tương tự như trường hợp 1, quá trình mặc cả giữa nhà máy hoá
chất và ngành thủy sản sẽ dẫn đến cân bằng tối ưu xã hội ở mức thải 50 tấn mỗi tháng.
Điểm khác ở đây là quá trình thoả thuận sẽ bắt đầu từ mức thải bằng không.
Ví dụ trên đây cho thấy rằng
Cân bằng hiệu quả xã hội có thể đạt được không phụ thuộc vào việc phân định
quyền sở hữu.
Điều cốt yếu là quyền sở hữu phải được xác định rõ ràng và được pháp luật bảo vệ và mặc
cả có thể xẩy ra. Thực chất, đây là định lý nổi tiếng gọi là định lý Coase, đặt theo tên của
nhà kinh tế học đã phát minh ra nó. Định lý Coase cho thấy tối ưu xã hội có thể đạt được,
nhưng nó không hàm ý rằng lợi ích cho mỗi bên là như nhau khi phân định quyền sở hữu
khác nhau. Điều này có thể dễ dàng nhận thấy ở Hình 10–3, tương tự như Hình 10–2,
ngoại trừ các phần diện tích được xác định lại với các ký hiệu bằng chữ. Mức ô nhiễm hiệu
quả xã hội là 50 tấn chất thải bất chấp chúng ta bắt đầu ở mức 0 tấn hay 80 tấn, nhưng lợi
ích ròng cho mỗi bên liên quan là khác nhau. Bảng 10-1 tóm tắt lợi ích có được và tiền
phải trả của mỗi bên theo những cách phân định quyền sở hữu khác nhau.

Barry Field & Nancy Olewiler

8


Hình 10-3: Lợi ích xã hội ròng đạt được là kết quả của quyền sở hữu
$
800
MAC

MD


a

f

300
b

c

d

e
Chất thải hóa học

0

50
80
(tấn mỗi tháng)
E*
E0
Tổng lợi ích ròng đạt được của nhà máy hóa chất và ngành thủy sản được xác định theo từng
cách thức phân định tài sản. Nếu ngành thủy sản có quyền sở hữu tài sản, tổng lợi ích ròng là
(a+b), trong đó của ngành thủy sản là b và của nhà máy hóa chất là a. Nếu nhà máy hóa chất có
quyền sở hữu tài sản, tổng lợi ích ròng tăng thêm là (e+f), trong đó của nhà máy hóa chất là e và
của ngành thủy sản là f. Diện tích (a+b) lớn hơn diện tích (e+f). Điều đó chứng tỏ tổng lợi ích
ròng đạt được không cần thiết phải giống nhau bất chấp ai có quyền sở hữu tài sản.

Khi có quyền sở hữu đối với dòng sông, ngành thủy sản nhận được tiền do nhà máy trả
bằng diện tích (b+c). Tổng thiệt hại của ngành là c, như vậy lợi ích ròng là diện tích b. Nhà

máy hóa chất trả tiền cho ngành thủy sản (b+c), và phải chịu chi phí xử lý là d. Tổng lợi
ích ròng của cả hai bên là (a+b). Khi nhà máy hóa chất có quyền sở hữu đối với dòng sông,
tổng lợi ích ròng là (e+f). Biểu đồ và các con số trên cho ta thấy (a+b) lớn hơn (e+f). Có
phải điều đó luôn luôn đúng hay không? Điều đó phụ thuộc vào cái gì? Câu trả lời là
không, nó phụ thuộc vào dạng của hàm MAC và MD. Xã hội có thể có lợi hơn với một
cách phân định tài nguyên nào đó so với cách phân định tài nguyên khác, mặc dù phân
định tài nguyên nào cũng đạt hiệu quả xã hội. Tóm lại
Lợi ích xã hội ròng đạt được phụ thuộc vào ai có quyền sở hữu môi trường.
Bảng 10–1: Mặc cả trong những bối cảnh phân định quyền sở hữu khác nhau
Quyền sở hữu thuộc về ngành thủy sản: So sánh cân bằng tại E* với tại 0
Tổng thiệt hại tại 0
Tổng thiệt hại tại E*
TAC tại 0
TAC tại E*
Tổng tiền trả cho ngành thủy sản
Lợi ích ròng

Thủy sản
0
c


+(b+c)
[(b+c) – c] = b

Nhà máy hóa chất


a+b+c+d
d

– (b+c)
(a+b+c) – (b+c) = a

Quyền sở hữu thuộc về nhà máy hóa chất: So sánh cân bằng tại E* với 0
Tổng thiệt hại tại 0
Tổng thiệt hại tại E*
TAC tại 0
TAC tại E*
Tổng tiền trả cho nhà máy hóa chất
Lợi ích ròng

Barry Field & Nancy Olewiler

Thủy sản
c+d+e+f
c


– (d+e)
[(e+d+f) – (d+f) ]=f

Nhà máy hóa chất


0
d
+(d+e)
[(d+e) – d] = e

9



Ứng dụng quyền sở hữu đối với vấn đề môi trường
Hàm ý rộng hơn của ví dụ nêu trên là bằng cách định rõ quyền sở hữu tư nhân (không nhất
thiết là quyền sở hữu cá nhân, bởi vì các nhóm người tư nhân có thể có những quyền sở
hữu này), chúng ta có thể thiết lập điều kiện mà việc mặc cả sẽ tạo ra mức chất lượng môi
trường hiệu quả. Điều này khá hấp dẫn. Mặt mạnh của nó là những người tham gia mặc cả
có thể biết nhiều hơn về giá trị tương đối liên quan – như chi phí xử lý và thiệt hại – hơn
những người khác, vì vậy hy vọng điểm hiệu quả thực tế có thể đạt được. Và, vì nó là một
hệ thống phân quyền, chính quyền trung ương sẽ không ra các quyết định mà nhiều khi các
quyết định này chỉ dựa vào các mối quan tâm chính trị thay vì các giá trị kinh tế thực tế
liên quan. Ý tưởng như vậy đã khiến một số người đề xuất tập trung tài nguyên môi trường
vào sở hữu tư nhân như là một phương tiện để đạt được việc sử dụng có hiệu quả tài
nguyên.
Trong thực tế phương pháp quyền sở hữu này hoạt động như thế nào? Như chúng ta thấy
với luật nghĩa vụ pháp lý, nhiều khi trên lý thuyết thì rất tốt nhưng lại không phát huy tác
dụng torng thực tế phức tạp. Để phương pháp quyền sở hữu phát huy tác dụng – có nghĩa
là giúp chúng ta tiếp cận mức ô nhiễm môi trường hiệu quả xã hội – nhất thiết cần thỏa
mãb ba điều kiện. Những điều kiện này được mô tả chi tiết dưới đây:
Quyền sở hữu – điều kiện cho hiệu quả xã hội:
(1) Quyền sở hữu phải được định rõ, có hiệu lực, và có thể chuyển nhượng.
(2) Có hệ thống cạnh tranh tương đối hiệu quả để các bên liên quan gặp gỡ và
đàm phán về quyền sở hữu môi trường nên được sử dụng như thế nào.
(3) Phải có tập hợp thị trường hoàn chỉnh để chủ sở hữu tư nhân nắm bắt được
toàn bộ giá trị xã hội gắn liền với việc sử dụng giá trị tài sản môi trường.
Quyền sở hữu phải xác định được một cách rõ ràng, được bên liên quan hiểu rõ, và có hiệu
lực. Nếu nhà máy A không thể ngăn chặn nhà máy B làm bất cứ những gì B muốn, phương
pháp quyền sở hữu sẽ không phát huy hiệu lực. Nói cách khác, chủ sở hữu phải có khả
năng pháp lý và vật chất để ngăn các chủ thể khác xâm phạm tài sản của họ. Chủ sở hữu
phải có khả năng bán tài sản cho bất cứ ai muốn mua. Điều này là thực sự quan trọng đối

với tài sản môi trường. Nếu chủ sở hữu không thể bán tài sản, điều này sẽ làm suy giảm
động cơ bảo tồn sức sản xuất của tài sản trong dài hạn. Nếu không thể chuyển nhượng, chủ
tài sản làm suy giảm sức sản xuất lâu dài của tài nguyên không thể bị xử phạt mặc dù giá
trị thị trường của tài sản bị giảm. Nhiều nhà kinh tế tranh luận rằng đó là vấn đề trầm trọng
ở các nước đang phát triển; bởi vì quyền sở hữu thường bị suy yếu (có nghĩa, chúng không
có tất cả các đặc điểm cần thiết như đã nêu ở trên), người ta không có động cơ để duy trì
sức sản xuất lâu dài của tài sản.

Barry Field & Nancy Olewiler

10


Những vấn đề với việc sử dụng quyền sở hữu như là một phương pháp để
nội hóa ngoại tác
1. Chi phí giao dịch. Việc sử dụng dòng sông hiệu quả ở ví dụ trên đây phụ thuộc vào
việc đàm phán và thỏa thuận giữa các chủ thể liên quan. Chi phí giao dịch dưới hình
thức chi phí đàm phán và chi phí thực hiện cùng với chi phí kiểm soát thỏa thuận có thể
là vừa phải trong trường hợp này. Nhưng giả sử có hàng chục ngành sản xuất sử dụng
dòng sông làm nơi chứa chất thải – và, thay vì chỉ có một ngành thủy sản, nhiều hộ gia
đình và ngành sản xuất khác sử dụng dòng sông cho mục đích sinh hoạt và giải trí. Bây
giờ đàm phán phải diễn ra giữa một bên với là hàng chục nhà máy gây ô nhiễm với bên
kia là hàng ngàn người. Thật khó tưởng tượng mặc cả có thể xảy ra như thế nào. Chi
phí giao dịch sẽ rất cao.
2. Tự do tiếp cận và “ăn theo”. Chất lượng nước sông là hàng hóa công đối với tất cả
những người liên quan. Tại sao tôi lại phải trả tiền để cải thiện chất lượng nước trong
khi hàng xóm lại hưởng lợi mà không phải trả gì cả? Vấn đề “ăn theo” thực sự làm mất
cơ hội đạt được cân bằng hiệu quả xã hội, điểm mà chúng ta có thể đạt được thông qua
phân định quyền sở hữu và thương lượng. Nếu hàng hóa môi trường càng mang tính
chất công cộng nhiều thì phương pháp phân quyền càng có ít cơ may phát huy hiệu lực.

Trường hợp đặc biệt nhất là khi chúng ta thưởng ngoạn tài nguyên môi trường tự do
tiếp cận. Không thể xác định quyền sở hữu tư nhân cho tài nguyên tự do tiếp cận bởi vì
chúng không có tính loại trừ. Bất cứ ai cũng có thể tiếp cận.
3. Chủ sở hữu tài sản không có khả năng nắm bắt được giá trị xã hội. Ngay cả trong
những trường hợp xác định được quyền sở hữu tư nhân, tiến trình phải diễn ra như thế
nào để chủ sở hữu có thể nắm bắt được giá trị xã hội đầy đủ của tài nguyên theo cách
sử dụng tốt nhất. Giả sử một người sở hữu một hòn đảo trong Ba ngàn hòn đảo ở Hồ
Huron. Có hai cách sử dụng: xây dựng khách sạn hoặc để hòn đảo hoang vu. Nếu
người đó xây dựng khách sạn, anh ta sẽ có dòng tiền trực tiếp bởi vì thị trường du lịch
phát triển mạnh ở khu vực này của thế giới và anh ta có thể hy vọng khách tham quan
tìm thấy khách sạn của mình và trả tiền cho dịch vụ. Nhưng không có thị trường tương
đương cho dịch vụ thiên nhiên hoang dã. Giá trị của hòn đảo như là một khu hoang dã
có thể lớn hơn nhiều so với giá trị của nó như là một nơi tham quan, đo lường bằng
tổng giá sẵn lòng trả của tất cả mọi người trên thế giới. Nhưng không có cách nào để
họ có thể thể hiện giá trị đó; không có thị trường đối với thiên nhiên hoang dã như thị
trường du lịch mà họ có thể đặt giá cho khách du lịch đến tham quan. Anh ta có thể cho
rằng một tổ chức bảo tồn thiên nhiên có thể mua toàn bộ hòn đảo nếu giá trị của nó như
là khu bảo tồn lớn hơn giá trị của nó như là một nơi tham quan. Nhưng tổ chức bảo tồn
thiên nhiên hoạt động dựa vào sự đóng góp tự nguyện, và thực chất những hòn đảo và
những vùng đất khác là hàng hóa công cộng. Như chúng ta đã thảo luận trước đây, khi
có liên quan đến hàng hóa công cộng, đóng góp tự nguyện để duy trì hàng hóa đó
thường ít hơn nhiều so với giá trị thực của nó, vì vấn đề “ăn theo”. Kết quả cuối cùng là
khi anh ta, người chủ tài sản hy vọng thu được toàn bộ giá trị tiền tệ của đảo như là một
nơi tham quan, không thể thu được toàn bộ giá trị xã hội của nó nếu anh giữ nó như là
khu bảo tồn.
Ví dụ này là dạng địa phương của một vấn đề lớn hơn có ý nghĩa toàn cầu. Trong
những năm gần đây người ta chú ý nhiều đến đa dạng sinh học và quỹ gen quý hiếm
của hàng triệu loài động thực vật trên thế giới. Một phần lớn những loài này sống ở các
nước đang phát triển. Nhưng ở những quốc gia này, áp lực phát triển dẫn đến việc khai


Barry Field & Nancy Olewiler

11


thác đất và phá hủy môi trường sống diễn ra ở tốc độ cao. Khi chủ đất ở các quốc gia
này xem xét các chọn lựa, họ đánh giá giá trị của đất theo các cách sử dụng khác nhau.
Không may, hiện tại không có cách nào nắm bắt được giá trị của đất như là môi trường
sống cho các loài. Không tồn tại thị trường kinh tế để bán các dịch vụ này; nếu chúng
thực sự tồn tại, chủ đất có thể thu được lợi ích cá nhân từ việc không phát triển đất
hoặc sử dụng đất theo cách bảo tồn giống loài.
Trong hoàn cảnh này cơ quan quản lý công có thể tạo ra cầu cho thị trường. Có thể
thực hiện bằng cách trả tiền cho chủ đất một khoản bằng giá trị sinh thái của đất, nếu
như những giá trị sinh thái này không bị các chủ đất làm suy giảm. Tất nhiên, sẽ gặp
muôn vàn khó khăn trong việc đo lường giá trị sinh thái này với một mức độ chính xác
nào đó, cũng như trong việc tìm nguồn tài trợ để trả cho những dịch vụ này. Nhưng nếu
không có thị trường như vậy hoặc các thể chế tương tự thị trường, thể chế quyền sở
hữu tư nhân không thể cho phép xã hội đạt được lượng bảo tồn và chất lượng môi
trường hiệu quả.

THUYẾT PHỤC ĐẠO ĐỨC
Thuyết phục đạo đức đề cập những chương trình thuyết phục khuyến khích ý thức của con
người về giá trị tinh thần hoặc bổn phận công dân để người đó tự giác không làm những
việc gây suy thoái môi trường. Trường hợp kinh điển là sự thành công của áp lực công
cộng đối với việc thải rác. Bên cạnh những hình phạ, các chương trình chống thải rác
không dựa vào đe dọa hình phạt mà dựa phần lớn vào việc kêu gọi ý thức của mọi người về
đạo đức công dân.
Trong những ngày đầu thực hiện phương pháp tái chế chất thải, cộng đồng thường dựa vào
các nỗ lực tự nguyện nhằm kêu gọi thói quen tốt của công dân. Trong một số trường hợp,
những nỗ lực đó thành công, trong nhiều trường hợp bị thất bại thảm hại. Ngày nay chúng

ta chuyển theo hướng các chương trình tái chế bắt buộc, tuy nhiên chúng cũng phụ thuộc
nhiều vào việc thuyết phục đạo đức để có được tỷ lệ tuân thủ cao. Kêu gọi hành vi tốt của
công dân có thể là chính sách công có hiệu quả trong nhiều trường hợp. Điều này đặc biệt
đúng trong trường hợp thải rác mà những người vi phạm thường phân tán trong dân cư làm
cho việc giám sát và phát hiện vi phạm là không thực tế.
Ưu điểm của thuyết phục đạo đức là nó có thể có ảnh hưởng lan tỏa. Trong khi thuế phát
thải đối với một chất thải nào đó không có ảnh hưởng đến việc phát thải các chất khác, kêu
gọi thói quen tốt công dân có thể có ảnh hưởng phụ đến các tình huống khác. Thói quen tốt
của công dân từ cảm nhận tốt về việc không thải rác (khi mà việc không thải rác rất dễ
đánh lừa người khác) có thể nhân rộng cho các trường hợp khác khi mà công dân đó có thể
trốn chạy sau khi gây ra những hành vi xâm hại môi trường. Những người có ý thức cộng
đồng về môi trường ít khi bỏ dầu nhờn ô tô đã sử dụng hoặc các hộp sơn còn dư vào rác
thải gia đình, hoặc tắt thiết bị hạn chế ô nhiễm không khí của xe hơi để tiết kiệm nhiên
liệu.
Tuy nhiên việc sử dụng thuyết phục đạo đức như là phương pháp chính sách chủ yếu lại có
vấn đề. Từ giác độ đạo đức, không phải tất cả mọi người đều có trách nhiệm như nhau.
Một số người sẽ có phản ứng với những tranh luận về đạo đức, một số ngưòi khác lại
không phản ứng gì. Vì vậy, gánh nặng chính sách sẽ đè lên những người nhạy cảm về đạo
đực hơn, những người ít nhạy cảm về đạo đức sẽ “ăn theo” những người khác, hưởng lợi từ
sự cẩn thận về đạo đức của người khác và chối bỏ sự chia sẻ trách nhiệm công bằng. Điều

Barry Field & Nancy Olewiler

12


này tệ hại ở chỗ nó có tác động lâu dài. Nếu những người nhạy cảm đạo đức phải đương
đầu với những cảnh tượng “ăn theo” tràn lan về đạo đức, điều này có thể làm xói mòn mức
độ chung về trách nhiệm và đạo đức công dân trong lâu dài. Vì vậy mặc dù có hiệu lực
trong ngắn hạn, kêu gọi sự đáp ứng nhiệt tình về đạo đức của con người có thể có ảnh

hưởng ngược lại trong dài hạn. Điều này tương tự như việc người dân sẽ không còn tin
tưởng khi khi luật môi trường mới tiếp tục được ghi vào sách nhưng không được thực thi.
Thói quen đạo đức tốt chính bản thân nó là một phần thưởng, nếu những người khác biết
được điều đó thì tốt hơn. Khuyến khích tinh thần sẽ hiệu quả hơn trong việc giảm ô nhiễm
khi sẵn có thông tin về mức ô nhiễm và sự thay đổi của nó. Vì vậy, như là phần bổ sung
cho các chương trình vận động về môi trường, những nỗ lực đo lường và công bố mức thải
cũng như những nỗ lực giảm thải là một phần bổ trợ quan trọng. Những yếu tố này là lý do
của những nỗ lực gần đây của các nhóm môi trường ở Canada và Hoa kỳ để phát triển bộ
luật đạo đức chống ô nhiễm mà các công ty có thể đăng ký tự nguyện. Canada cũng có
kiểm kê quốc gia hàng năm về chất thải ô nhiễm (NPRI) cung cấp những thông tin chung
về xả thải và sự phát tán chất thải của khoảng 240 hợp chất độc hại từ các nguồn thải cá
nhân và công cộng.
Việc sử dụng thuyết phục đạo đức như là một công cụ trong quản lý môi trường cũng dễ bị
chỉ trích. Trong thời đại mà các đoàn thể xã hội càng nhiều và mức độ phá hoại môi trường
cao, những nhà hoạch định chính sách cứng rắn bị lôi kéo bởi các chính sách môi trường
mạnh mẽ. Đó có thể là một sai lầm. Rõ ràng là chúng ta không thể phụ thuộc nặng nề vào
công cụ thuyết phục đạo đức để đạt được mức giảm có ý nghĩa về ô nhiễm không khí ở
khu vực hành lang Windsor-Montreal, hoặc giảm mức sử dụng hóa chất nông nghiệp gây ô
nhiễm nguồn nước ngầm. Nhưng trong việc tìm kiếm những chính sách công mới có hiệu
lực để giải quyết những vấn đề ô nhiễm môi trường cụ thể, có lẽ chúng ta đã đánh giá thấp
sự vai trò của đạo đức xã hội và ý thức công dân. Nền tảng đạo đức xã hội thuận lợi cho
phép ban hành những chính sách mới và việc quản lý và thực thi các chính sách đó trở nên
dễ dàng hơn. Từ đó chúng ta cũng có thể thấy được tầm quan trọng của các chính trị gia và
những người hoạch định chính sách cho việc thực hiện những chương trình làm lành mạnh
môi trường đạo đức thay vì làm xói mòn nó.

PHẢN ỨNG CỦA THỊ TRƯỜNG ĐỐI VỚI Ô NHIỄM MÔI TRƯỜNG:
HÀNG HÓA XANH
Mỗi khi quyền sở hữu được thiết lập rõ ràng, nghĩa là chúng hạn chế lượng ô nhiễm hoặc
định rõ được mức độ chất lượng môi trường, thị trường mới sẽ xuất hiện để cung cấp hàng

hóa chất lượng môi trường. Người tiêu dùng có thể sẵn lòng trả cho hàng hóa đem lại cho
họ cùng một mức độ hài lòng như nhau nhưng ít gây thiệt hại môi trường trong quá trình
sản xuất hoặc sử dụng. Nếu nhà máy có thể sản xuất được những hàng hóa như vậy thì thị
trường “hàng hóa xanh” có thể xuất hiện. Ở Canada hiện nay một số hàng hóa xanh đang
được bán. Ví dụ, chúng bao gồm hàng gia dụng như bột giặt không có photphat, ắc quy
không có thủy ngân, giấy được sản xuất từ nguyên liệu tái chế, và các thiết bị như tủ lạnh
và lò sưởi tiết kiệm năng lượng. Cũng có thể có đầu vào xanh cho quá trình sản xuất. Hàng
hóa xanh giảm ô nhiễm như thế nào?

Barry Field & Nancy Olewiler

13


Hình 10-4: Chi phí xã hội biên của hàng hóa xanh so với hàng hóa ô nhiễm
$
SS

$

SP

P0
P1

D0

SS

SP


D

D1
0

Q1 Q2
(a) Khối lượng giấy được sản xuất sử
dụng nguyên liệu nguyên sinh

0
(b) Khối lượng giấy được sản xuất sử
dụng nguyên liệu tái chế

Xem xét Hình 10-4. Biểu đồ (a) thể hiện thị trường sản phẩm giấy được sản xuất bằng
nguyên liệu nguyên sinh và Biểu đồ (b) minh họa thị trường sản phẩm giấy sản xuất từ
nguyên liệu tái chế. Chúng ta giả định rằng nguyên liệu tái chế làm cho quá trình sản xuất
ít gây ô nhiễm hơn so với nguyên liệu nguyên sinh. Mỗi biểu đồ minh họa hai đường cung:
SP thể hiện chi phí sản xuất tư nhân biên; SS chi phí xã hội biên (là tổng chi phí tư nhân
biên và chi phí ngoại tác biên, như chúng ta đã thấy ở Chương 4). Mức độ ô nhiễm của hai
loại sản phẩm được thể hiện bởi chi phí xã hội biên cao hơn đối với giấy được sản xuất
bằng nguyên liệu nguyên sinh. Bây giờ chúng ta sẽ bổ sung thêm các đường cầu. Giả sử,
lúc đầu thị trường chỉ cung cấp giấy được sản xuất bởi quy trình gây ô nhiễm cao. Như thể
hiện ở Biểu đồ (a) với đường cầu D0, giá cả cân bằng thị trường là P0 và khối lượng sản
phẩm là Q0. Bây giờ người sản xuất giấy ít gây ô nhiễm hơn tham gia thị trường. Nếu
người tiêu dùng cảm thấy rằng giấy tái chế là hàng thay thế tốt cho giấy thông thường, sẽ
có cầu cho giấy tái chế. Nếu hai hàng hóa là hàng hóa thay thế, cầu về giấy gây ô nhiễm
nhiều hơn sẽ dịch chuyển sang trái khi giấy tái chế được giới thiệu ra thị trường. Cân bằng
thị trường mới được thiết lập với mức sản xuất giấy thông thường thấp hơn (Q1) và được
bán với mức giá thấp hơn (P1). Sẽ có cầu về giấy tái chế. Nếu người tiêu dùng càng muốn

thay thế giấy tái chế cho giấy thông thường, đường cầu ở Biểu đồ (a) càng dịch chuyển
sang trái. Mức dịch chuyển phụ thuộc vào thị hiếu của người tiêu dùng, chi phí sản xuất tư
nhân biên v.v.
Nếu giấy tái chế chiếm lĩnh một phần thị trường thì ô nhiễm sẽ giảm xuống. Điều này xảy
ra vì đường chi phí giảm ô nhiễm biên dịch chuyển xuống phía dưới. Tại sao? Xem lại
cách thức xác định chi phí giảm ô nhiễm biên gộp (MAC) trong Chương 5. Thay vì chỉ có
một phương pháp sản xuất với lượng ô nhiễm nhiều cho mỗi đơn vị sản phẩm, bây giờ
chúng ta có sản phẩm giấy được sản xuất bởi hai loại nhà máy: một loại với mức thải thấp
hơn nhiều trên mỗi đơn vị sản phẩm. Nếu khối lượng sản phẩm giấy không thay đổi, tổng ô
nhiễm chắc chắn phải giảm. Biểu đồ 10-5 thể hiện điều này, với MAC1 là chi phí giảm ô
nhiễm biên gộp của chỉ gồm những nhà cung cấp gây ô nhiễm cao và MAC 2 là đường chi
phí biên mới khi có những nhà cung cấp có cường độ ô nhiễm bình quân cho mỗi đơn vị
sản phẩm thấp hơn. Chúng ta thấy rằng mức ô nhiễm giảm từ E1 xuống E2. Điều này có
nghĩa bất kể đường thiệt hại biên nằm ở vị trí nào, ô nhiễm là thấp hơn thậm chí ngay khi
Barry Field & Nancy Olewiler

14


không có chính sách của nhà nước thiết kế để đạt mức phát thải hiệu quả. Chú ý rằng
đường thiệt hại biên không dịch chuyển, bởi vì mối quan hệ giữa mỗi đơn vị phát thải và
thiệt hại môi trường không thay đổi.
Hình 10-5: Hàng hóa xanh ảnh hưởng chi phí xử lý biên như thế nào
$
MAC1

MD

MAC2


0
0

E2
E1
Lượng phát thải (tấn mỗi năm)

Hàng hóa xanh gây ô nhiễm ít hơn trên mỗi đơn vị sản phẩm so với hàng hóa có cường độ ô
nhiễm cao. Sử dụng hàng hóa xanh sẽ làm cho đường MAC dịch chuyển từ MAC1 sang
MAC2. Thậm chí khi không có chính sách môi trường, sự thay thế này sẽ làm giảm phát thải
từ E1 xuống E2.

Một nền kinh tế có tỷ lệ sản xuất và tiêu dùng sản phẩm xanh cao hơn sẽ có ít ô nhiễm hơn
nền kinh tế sử dụng hàng hóa có cường độ ô nhiễm cao. Tất nhiên chính phủ có thể khuyến
khích sản xuất sản phẩm xanh. Chúng ta sẽ thảo luận vấn đề này nhiều hơn ở Chương 12.
0 ở đây là thậm chí ngay khi không có can thiệp của chính phủ, nếu tồn tại cầu
Điểm chính
cho sản phẩm xanh và có công nghệ cần thiết, chất lượng môi trường sẽ cao hơn nếu
những hàng hóa này được sản xuất và tiêu dùng.
Tóm lại:
Sản xuất và tiêu dùng sản phẩm xanh giảm cường độ ô nhiễm trong hàng hóa
của nền kinh tế (làm đường MAC dịch chuyển xuống dưới), và dẫn đến mức
chất lượng môi trường cao hơn.

Barry Field & Nancy Olewiler

15


TÓM TẮT

Trong chương này, chúng ta đã khảo sát những ví dụ về cách tiếp cận phi tập trung để cải
thiện chất lượng môi trường. Cách tiếp cận đầu tiên dựa vào quy định về nghĩa vụ pháp lý,
yêu cầu chủ thể gây ô nhiễm bồi thường cho người bị thiệt hại. Trên lý thuyết, những áp
lực của nghĩa vụ pháp lý có thể làm cho người gây ô nhiễm tiềm năng nội hóa chi phí
ngoại tác. Bằng cách cân nhắc khoản bồi thường và chi phí xử lý, chủ thể gây ô nhiễm có
thể đạt tới mức phát thải hiệu quả. Trong khi học thuyết về nghĩa vụ pháp lý có thể hoạt
động tốt trong những trường hợp ô nhiễm đơn giản có ít người liên quan và có quan hệ
nhân quả rõ ràng, chúng dường như không hoạt động với những vấn đề môi trường lớn
hơn, phức tạp về mặt kỹ thuật của xã hội hiện đại.
Cách tiếp cận thứ hai phụ thuộc vào thể chế quyền sở hữu tư nhân. Nhìn từ giác độ này,
ngoại tác môi trường là vấn đề chỉ vì quyền sở hữu môi trường thường không được quy
định rõ ràng. Bằng cách thiết lập quyền sở hữu rõ ràng, chủ sở hữu và những người khác
muốn sử dụng tài sản môi trường cho các mục đích khác nhau có thể đàm phán thỏa thuận
để cân bằng chi phí của các phương án khác nhau. Chính vì vậy thỏa thuận giữa các bên có
thể trên lý thuyết đem lại mức phát thải hiệu quả. Nhưng vấn đề chi phí giao dịch, đặc biệt
là các vấn đề liên quan đến hàng hóa công hoặc khía cạnh tiếp cận tự do của chất lượng
môi trường, và sự thiếu vắng thị trường dịch vụ môi trường đã cản trở cách thức dựa vào
thể chế quyền sở hữu truyền thống để giải quyết các vấn đề chất lượng môi trường. Ở
Chương 13, chúng ta sẽ thấy rằng một số biến thể mới của phương pháp dựa vào quyền sở
hữu có thể có triển vọng áp dụng rất to lớn.
Cách tiếp cận thứ ba là thuyết phục đạo đức, có thể hữu ích khi không thể đo lường được
lượng phát thải từ các nguồn cụ thể. Chúng ta cũng đã thảo luận vấn đề “ăn theo”, cũng
như thảo luận vấn đề công khai như là một phương tiện khuyến khích hành vi đạo đức
trong những vấn đề môi trường.
Cuối cùng, chúng ta khảo sát việc khu vực kinh tế tư nhân tham gia sản xuất hàng hóa
xanh để đáp ứng nhu cầu của người tiêu dùng đối với những sản phẩm có cường độ ô
nhiễm ít. Tỷ lệ hàng hóa xanh càng lớn trong tổng sản lượng của nền kinh tế, thì mức thải
càng thấp và chất lượng môi trường càng cao.

BÀI TẬP

1. Với ví dụ minh họa ở Hình 10-1, hãy chứng minh rằng cân bằng hiệu quả xã hội tối
thiểu hóa tổng số tiền chi trả của nhà máy hóa chất (tiền bồi thường cho ngành đánh bắt
cá hồi cộng chi phí giảm ô nhiễm) so với bất cứ mức thải nào khác.
2. Giả sử hàm MD trong ví dụ về nhà máy hóa chất và ngành thủy sản là MD = 8E. Tính
mức cân bằng hiệu quả xã hội và xác định liệu việc phân định quyền sở hữu dòng sông
cho nhà máy hay ngành thủy sản có tối đa hóa tổng lợi ích ròng sau khi các bên mặc cả
đạt được giải pháp hiệu quả xã hội. Hãy giải thích theo trực giác tại sao điều này lại
khác với ví dụ ở trong chương.
3. Giải thích và minh họa bằng đồ thị mức độ thay thế giữa hàng hóa xanh và hàng có
cường độ ô nhiễm cao ảnh hưởng mức độ chất lượng môi trường.

Barry Field & Nancy Olewiler

16


4. Phân định trách nhiệm thiệt hại môi trường và phân định quyền sở hữu đối với tài
nguyên môi trường cả hai đều dẫn đến một cân bằng hiệu quả xã hội (giả định không
có chi phí giao dịch). Lợi ích ròng tăng lên cho mỗi bên có giống nhau không? Hãy
chứng minh bằng đồ thị hoặc phương pháp đại số.

CÂU HỎI THẢO LUẬN
1. Trong trường hợp chất gây ô nhiễm có ảnh hưởng không rõ ràng đối với con người, tòa
án có thể buộc bên bị thiệt hại chịu trách nhiễm dẫn chứng là họ bị tổn hại hoặc buộc
bên gây ô nhiễm chịu trách nhiễm dẫn chứng chỉ rõ rằng chất gây ô nhiễm là vô hại.
Điều này sẽ làm cho hệ thống luật nghĩa vụ pháp lý hoạt động khác nhau như thế nào?
2. Tai nạn do xe tải chở chất thải độc hại gây nên đã trở nên khá phổ biến. Giả sử thủ
phạm bị quy trách nhiệm bồi thường một khoản bằng thiệt hại bình quân của tất cả các
tai nạn như vậy. Điều này có làm cho các công ty xe tải phòng ngừa hiệu quả những tai
nạn như vậy không?

3. Tại sao tiền bồi thường sau thỏa thuận (side payments) giữa các bên trong tiến trình
thỏa thuận có thể đạt hiệu quả xã hội? (Side payment là khoản chuyển nhượng từ một
bên cho bên kia sau khi cân bằng đạt được thông qua thương lượng).

Barry Field & Nancy Olewiler

17



×