TÓM LƯỢC
Cạnh tranh là cơ chế vận hành chủ yếu của kinh tế thị trường, là động lực thúc
đẩy phát triển kinh tế. Đối với xã hội, cạnh tranh là động lực quan trong nhất để huy
động nguồn lực của xã hội vào sản xuất kinh doanh hàng hóa, dịch vụ còn thiếu, qua
đó nâng cao khả năng sản xuất của toàn xã hội. Do đó, việc nâng cao khả năng cạnh
tranh trong mỗi doanh nghiệp là rất cần thiết, nó giúp doanh nghiệp chủ động hơn
trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh. Trong thời gian thực tập tại Công ty Cổ
phần luyện kim đen Thăng Long, tác giả nhận thấy nhiều điểm còn chưa thực sự hoàn
thiện trong công tác quản lý, đầu tư và điều hành của công ty có ảnh hưởng đến năng
lực cạnh tranh của công ty trên thị trường. Những điểm yếu đó cũng làm ảnh hưởng
không nhỏ đến uy tín và thương hiệu của Công ty trên thị trường. Trên cơ sở nhận thức
được những hạn chế còn tồn tại của Công ty, khóa luận đã đi nghiên cứu lý thuyết về
cạnh tranh và năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp nhằm đưa ra một số giải pháp để
nâng cao khả năng cạnh tranh cho Công ty, nâng cao uy tín, thương hiệu của Công ty
trên thị trường miền Bắc . Do vậy tác giả chọn đề tài “Nâng cao năng lực cạnh tranh
của công ty cổ phần luyện kim đen Thăng Long trên thị trường miền Bắc” làm đề
tài khóa luận.
1
1
LỜI CẢM ƠN
Khóa luận “Nâng cao năng lực cạnh tranh của Công ty Cổ phần luyện kim đen
Thăng Long” được hoàn thành là do sự hướng dẫn chỉ bảo tận tình của toàn thể các
thầy cô trường Đại học Thương Mại, đặc biệt TS Thân Danh Phúc và toàn thể cán bộ
công nhân viên của Công ty Cổ phần luyện kim đen Thăng Long
Tác giả xin chân thành tỏ lòng biết ơn đến Ban Giám Hiệu, cùng các thầy cô
giáo trường Đại học Thương Mại, cám ơn các thầy cô trong khoa Kinh Tế đã dạy cho
tác giả những kiến thức trong suốt 4 năm học vừa qua.
Tác giả xin tỏ lòng biết ơn chân thành đến TS Thân Danh Phúc đã nhiệt tình
hướng dẫn, chỉ bảo tận tình để tác giả hoàn thành bài Khóa luận tốt nghiệp này.
Tác giả xin chân thành cảm ơn các cô chú lãnh đạo cùng các anh chị ở Công ty
Cổ phần luyện kim đen Thăng Long, đã tạo điều kiện thuận lợi cho tác giả tiếp xúc với
công việc, trao đổi và cung cấp những thông tin cần thiết để giúp tác giả hoàn thành
bài luận văn này. Trong thời gian thực tập tại công ty và làm khóa luận, do thời gian
không nhiều và bản thân còn nhiều hạn chế về mặt trình độ và nhận thức nên khóa
luận còn nhiều thiếu sót. Vì vậy tác giả rất mong nhận được sự chỉ bảo và đóng góp
quý báu của các thầy cô và tập thể Ban lãnh đạo cùng toàn thể nhân viên trong công ty
để bài khóa luận được hoàn thiện hơn.
Tác giả xin chân thành cảm ơn!
2
2
MỤC LỤC
Tên bảng
Số trang
Bảng 2.1 Tình hình mua, bán dự trữ thép giai đoạn 2015-2017
Bảng 2.2 So sánh kết kinh doanh của Công ty Cổ phần luyện kim đen
Thăng Long
Bảng 2.3 Báo giá thép xây dựng trên thị trường miền Bắc
Bảng 2.4 So sánh sản lượng tiêu thụ của Công ty Cổ phần luyện kim đen
với CTCP Thép thương mại Hà Nội giai đoạn 2015-2017
Bảng 2.5 Doanh thu theo cơ cấu thị trường của công ty ở khu vực miền
Bắc
Bảng 2.6 Cơ cấu doanh thu theo cơ cấu thị trường của Công ty Cổ phần
luyện kim đen Thăng Long giai đoạn 2015-2017
Bảng 2.7 Biểu đồ thị phần thị trường thép trên thị trường miền Bắc giai
đoạn 2014-2017
Bảng 2.8 Lợi nhuận trước thuế của công ty giai đọa 2014-2017
Bảng 2.9 Một số công trình, dự án công ty đã cung cấp thép
3
3
21
23
29
30
30
31
32
33
33
DANH MỤC VIẾT TẮT
Từ viết tắt
Agribank
BIDV
CP
CTCP
KCN
OECD
TISCO
TM
Vietcombank
Vietinbank
VLXD
4
Giải thích
Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam
Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam
Cổ phần
Công ty cổ phần
Khu công nghiệp
Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế
Công ty Cổ phần Gang thép Thái Nguyên
Thương mại
Ngân hàng thương mại cổ phần Ngoại thương Việt Nam
Ngân hàng Thương mại cổ phần Công thương Việt Nam
Vật liệu xây dựng
4
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Cạnh tranh là cơ chế vận hành chủ yếu của nền kinh tế thị trường, là động lực
thúc đẩy phát triển kinh tế. Đối với mỗi chủ thể kinh doanh, cạnh tranh tạo ra sức ép
hoặc kích ứng khoa học, công nghệ tiên tiến trong sản xuất, cải tiến công nghệ, thiết bị
sản xuất và phương thức quản lý nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm, hạ giá thành và
giá bán hàng. Cạnh tranh với các tín hiệu giá cả và lợi nhuận sẽ hướng người kinh
doanh chuyển nguồn lực từ nơi sử dụng có hiệu quả thấp hơn sang nơi sử dụng có hiệu
quả cao hơn. Đối với xã hội, cạnh tranh là động lực quan trọng nhất để huy động
nguồn lực của xã hội vào sản xuất kinh doanh hàng hóa, dịch vụ còn thiếu, qua đó
nâng cao khả năng sản xuất của toàn xã hội. Do đó việc nâng cao khả năng cạnh tranh
trong mỗi doanh nghiệp là rất cần thiết, nó giúp doanh nghiệp chủ động hơn trong quá
trình hoạt động sản xuất kinh doanh.
Trong giai đoạn hiện nay, việc đầu tư nâng cao khả năng cạnh tranh đã và đang
làm thay đổi những yếu tốt quuyết định đến sự tăng trưởng và phát triển của nền kinh
tế đất nước. Đối với Công ty Cổ phần luyện kim đen Thăng Long, việc đầu tư nâng
cao năng lực cạnh tranh là một vấn đề hết sức cần thiết và cấp bách. Nâng cao năng
lực cạnh tranh chính là nâng cao khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp trên thị
trường. Đặc biệt, trong cơ chế thị trường cạnh tranh gay gắt như hiện nay: giá sắt, thép
lên xuống thất thường dẫn đến giá xi măng cũng bị ảnh hưởng, vốn thanh toán chậm
và địa bàn trải rộng
Nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề này, những năm qua Công ty Cổ
phần luyện kim đen Thăng Long đã không ngừng có chủ trương cụ thể đảm bảo việc
đầu tư đúng hướng và có hiệu quả.
Dựa trên cơ sở lý luận về cạnh tranh cùng với tình hình thực tế của Công ty Cổ
phần luyện kim đen Thăng Long, tôi nhận thấy đơn vị còn gặp nhiều khó khăn với
hoạt động cạnh tranh trong lĩnh vực kinh doanh của mình. Vì vậy, xuất phát từ tình
hình đó, tôi đã lựa chọn đề tài: “ Nâng cao năng lực cạnh tranh của Công ty Cổ phần
luyện kim đen Thăng Long “
2. Tổng quan các công trình nghiên cứu liên quan
Đề tài về nâng cao năng lực cạnh tranh là một trong những đề tài được quan
tâm nhiều nhất và thị trường thép với dự báo phát triển trong tương lai là vấn đề được
rất nhiều luận văn hương tới. Một số công trình như:
1, Đề tài: “Nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt Nam
trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế: trường hợp nghiên cứu cụ thể ở Công ty
5
Gang thép Thái Nguyên” của tác giả Bùi Lê Thủy Ninh ( 2007 ) luận văn tốt nghiệp,
trường Đại học Ngoại Thương. Đề tài đã đi sâu vào nghiên cứu và chỉ ra thực trạng
cạnh tranh, những tồn tại trong môi trường kinh doanh dược phẩm trên thị trường Hà
Nội đưa ra một số giải pháp hạn chế những tồn tại. Tuy nhiên đề tài chưa làm rõ
những chiến lược cạnh tranh trực tiếp với đối thủ của mình trong thị trường trong nước
cũng như nước ngoài.
2, Nguyễn Thị Nga (2015), “ Giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của
công ty cổ phần sản xuất phụ tùng ô tô và thiết bị công nghiệp JAT ”, Khóa luận tốt
nghiệp – Trường Đại học Thương mại. Khóa luận đã hệ thống được cơ sở lý luận chủ
yếu của cạnh tranh nói chung và năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp nói riêng,
nghiên cứu, tìm hiểu đánh giá thực trạng năng lực cạnh tranh của Công ty Cổ phần sản
xuất phụ tùng ô tô và thiết bị công nghiệp JAT, từ đó đề xuất các giải pháp nhằm khắc
phục những khó khăn, hạn chế trong năng lực cạnh tranh mà công ty đang gặp phải.
Tuy nhiên, công trình mới chỉ đề cập đến các nhân tố ảnh hưởng đến năng lực cạnh
tranh của doanh nghiệp, chưa đề cập đến các yếu tố tạo nên năng lực cạnh tranh của
doanh nghiệp. Khóa luận này tiếp tục nghiên cứu và đề cập đến các yếu tố tạo nên
năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp
3, Bài báo: “ Nghành thép làm gì trước sức ép cạnh tranh? “ của tác giả Thu
Hường (2017) được đăng trên báo Bộ Công Thương, tác giả đã đưa những cải tổ nhằm
nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm để có giá thành cạnh tranh
4, Đoàn Mạnh Thịnh ( 2014) ,“ Nâng cao năng lực cạnh tranh của Tổng công
ty thương mại Hà Nội trong điều kiện hội nhập kinh tế” , Khóa luận tốt nghiệpTrường Đại học Ngoại thương. Đề tài đã nghiên cứu những vấn đề lý luận cơ bản về
sức cạnh tranh cho sản phẩm của công ty, phân tích thực trạng, đánh giá thực trạnh để
phát hiện những vấn đề cần khắc phục giải quyết từ thực trạng cạnh tranh của Tổng
công ty thương mại Hà Nội, đề xuất những giải pháp nhằm nâng cao sức cạnh tranh
của công ty. Tuy nhiên đề tài vẫn chưa làm rõ được các yếu tố để nâng cáo sức cạnh
tranh của công ty trong điều kiện mà Việt Nam đang hội nhập sâu.
5, Nguyễn Thị Hằng (2017), Nâng cao năng lực cạnh tranh của công ty TNHH
Hoàng Vũ trên thị trường miền Bắc, Khóa luận tốt nghiệp – Trường Đại học Thương
Mại. Khóa luận đã đề cập tới các lý thuyết liên quan đến cạnh tranh và sức cạnh tranh
của doanh nghiệp. Khóa luận đã đưa ra các giải pháp cùng những kiến nghị nâng cao
sức cạnh tranh của công ty trên cơ sở giải quyết các vấn đề về giá cả, chất lượng sản
phẩm, chất lượng dịch vụ và chăm sóc khách hàng.
Đề tài khóa luận “ Nâng cao năng lực cạnh tranh của Công ty Cổ phần luyện
kim đen Thăng Long trên thị trường miền Bắc “ của em đã kế thừa những lý luận cơ
6
-
-
bản về nâng cao năng lực cạnh tranh, những chỉ tiêu đánh giá năng lực cạnh tranh của
doanh nghiệp, một số định hướng để công ty có thể cạnh tranh tốt hơn trong thời gian
tới. Do các sản phẩm được nghiên cứu riêng biệt nên đề tài của em nghiên cứu cụ thể
hơn các chỉ tiêu đánh giá năng lực cạnh tranh và một số lý thuyết nâng cao năng lực
cạnh tranh của công ty với mặt hàng thép trong bối cảnh hội nhập sâu như hiện nay.
3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục tiêu lý luận:
Nghiên cứu những lý luận cơ bản về nâng cao năng lực cạnh tranh cho sản phẩm
của công ty, những chỉ tiêu đánh giá về sức cạnh tranh của công ty, cũng như những
Mục tiêu thực tiễn:
Phân tích thực trạnh đánh giá thực trạng vấn đề nghiên cứu để phát hiện những
vấn đề cần khắc phục từ thực trạng cạnh tranh của công ty. Phân tích tình hình cạnh
tranh của thi trường thép miền Bắc. Bao gồm cả công ty kinh doanh về thép nhập lẫn
thép nội
Đề xuất các giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh cho công ty
4. Phạm vị nghiên cứu
Nội dung nghiên cứu: Nghiên cứu về năng lực cạnh tranh của công ty thương mại về
mặt hàng thép
- Thời gian : phân tích thực trạng công ty từ năm 2015-2017
Không gian: phạm vi hoạt động của doanh nghiệp trên địa bàn Hà Nội và muốn phát
triển ra hầu hết các tỉnh có nền kinh tế phát triển ở khu vực miền Bắc
5. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu là cách thức, con đường, phương tiện để giải quyết
các nhiệm vụ nghiên cứu nhằm đạt được mục đích nghiên cứu. Trong quá trình thực
hiện đề tài em đã sử dụng các phương pháp nghiên cứu:
Phương pháp quan sát
Quan sát quy trình làm việc của phòng Marketing, phòng kinh doanh và bộ
phận thị trường của công ty trong thời gian thực tập. Quan sát các nghiệp vụ từng
thành viên và cả đội thực hiện từng mục tiêu trong tuần, trong tháng. Qua đó quan sát
hiệu quả thực tế của các chương trình xúc tiến, so sánh với các công ty khác trong
ngành để có cái nhìn tổng quan về toàn bộ quá trình phát triển thị trường của công ty
cổ phần luyện kim đen Thăng Long đạt được hiệu quả như thế nào.
Phương pháp thu thập dữ liệu
Trong mỗi công trình nghiên cứu, thu thập dữ liệu là công việc không thể thiếu,
bao gồm thu thập dữ liệu sơ cấp và dữ liệu thứ cấp. Trong quá trình thực tập tại công
ty Cổ phần luyện kim đen Thăng Long, được sự giúp đỡ của phòng tài chính kế toán,
phòng kho, em đã có được các dữ liệu thứ cấp cần thiết phục vụ cho mục đích nghiên
cứu. Ngoài ra, em tìm hiểu thông tin về sản phẩm trên các tài liệu cùng sản phẩm
7
-
-
-
nghiên cứu với đề tài của mình.
Phương pháp phân tích dữ liệu
Từ những dữ liệu thu thập được sẽ tiến hành phân tích bằng một số phương
pháp như sau:
Phương pháp thống kê: Phương pháp này được sử dụng để tổng hợp số liệu như doanh
thu, lợi nhuận, số lượng lao động theo từng năm. Từ đó tính toán được các chỉ tiêu
tăng ( giảm ) tuyệt đối và tương đối để phục vụ cho việc phân tích thực trạng phát triển
thị trường của công ty.
Phương pháp so sánh: Để thấy rõ những thay đổi, biến động về doanh thu, lợi nhuận
qua từng năm từ phương pháp so sánh là lựa chọn tối ưu. Qua việc so sánh các chỉ tiêu
sẽ phân tích được những thành công cũng như hạn chế trong việc phát triển thị trường
sản phẩm dược phẩm của công ty thời gian qua.
Phương pháp phân tích tổng hợp: Từ việc phân tích và so sánh các dữ liệu đã thu thập
được, sẽ rút ra được cái nhìn tổng quát và chính xác nhất về phát triển thị trường dược
phẩm thực phẩm chức năng của công ty Cổ phần luyện kim đen Thăng Long. Sau đó
đưa ra các giải pháp và kiến nghị nhằm phát triển mở rộng thị trường của công ty.
6. Kết cấu khóa luận tốt nghiệp
Kế cấu khóa luận gồm 3 chương
Chương I: Một số lý luận cơ bản về năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp
Chương II: Thực trạng năng lực cạnh tranh của Công ty Cổ phần luyện kim đen
Thăng Long
Chương III Các đề xuất và kiến nghị nâng cao năng lực cạnh tranh của Công ty
Cổ phần Luyện kim đen Thăng Long
8
CHƯƠNG I: MỘT SỐ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ NĂNG LỰC CẠNH
TRANH CỦA DOANH NGHIỆP
Một số khái niệm cơ bản
1.1.1 Khái niệm về cạnh tranh của doanh nghiệp
Thuật ngữ cạnh tranh được sử dụng phổ biến trong nhiều lĩnh vực như kinh tế,
thương mại, luật, chính trị,… nên có khá nhiều khái niệm khác nhau về cạnh tranh.
Theo từ điển thuật ngữ kinh tế học định nghĩa:” Cạnh tranh là sự đấu tranh đối lập giữa
các cá nhân, tập đoàn hay quốc gia. Cạnh tranh nảy sinh khi hai bên nhiều bên cố gắng
giành lấy thứ mà không phải ai cũng có thể giành được
Theo nhà kinh tế học người Mỹ Micheal Porter thì: Cạnh tranh là việc giành
giật từ đối thủ về khách hàng, thị phần hay nguồn lực của các doanh nghiệp. Tuy
nhiên, bản chất của cạnh tranh không phải là tiêu diệt đối thủ mà là doanh nghiệp phải
tạo ra và mang lại cho khách hàng những giá trị gia tăng cao hơn hoặc mới lạ hơn đối
thủ cạnh tranh để họ có thể lựa chọn cho mình mà không đến với đối thủ cạnh tranh”.
(Micheal Porter, 1996)
Trong đại từ điển kinh tế thị trường ( Viện nghiên cứu và phổ biến trí thức Bách
Khoa, HN 1988 trang 247) cũng đưa ra định nghĩa :” Cạnh tranh hữu hiệu là một
phương thức thích ứng với thị trường của doanh nghiệp, mà mục đích là giành được
hiệu quả hoạt động thị trường làm cho người ta tương đối thỏa mãn nhằm đạt được lợi
nhuận bình quân vừa đủ để có lợi cho việc kinh doanh bình thường và thù lao cho
những rủi ro trong việc đầu tư, đồng thời hoạt động của đơn vị sản xuất cũng đạt được
hiệu suất cao, không có hiện tượng quá dư thừa về khả năng sản xuất trong một thời
gian dài, tính chất sản phẩm đạt trình độ hợp lý …”
Trong xu hướng toàn cầu hóa thì các nước đều thừa nhận cạnh tranh và coi cạnh
tranh vừa là cơ hội vừa là thách thức để doanh nghiệp khẳng định mình. Do vậy, cạnh
tranh kinh tế là sự ganh đua giữa các chủ thể kinh tế ( nhà sản xuất, nhà phân phối, bán
lẻ…) nhằm lấy những vị thế tạo nên lợi thế tương đối trong sản xuất, tiêu thụ hàng
hóa, dịch vụ hay các lợi ích về kinh tế, thương mại khác để thu được nhiều lợi ích nhất
cho mình.
1.1.2 Khái niệm về năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp
Trong quá trình các chủ thể cạnh tranh với nhau, để giành lợi thế về phía mình,
các chủ thể phải áp dụng tổng hợp nhiều biện pháp nhằm duy trì và phát triển vị thế
của mình trên thị trường. Các biện pháp này thể hiện một sức mạnh nào đó, một khả
năng nào đó hoặc một năng lực nào đó của chủ thể, được gọi là năng lực cạnh tranh.
Bên cạnh khái niệm năng lực cạnh tranh, người ta còn sử dụng các khái niệm sức cạnh
1.1
9
tranh, tính cạnh tranh hoặc khả năng cạnh tranh. Mặc dù các thuật ngữ này có thể
mang sắc thái khác nhau và không đồng nhất trong những trường hợp cụ thể nào đó,
nhưng các thuật ngữ đó đề được dịch ra từ một thuật ngữ tiếng Anh là “
competitiveness”
Hiện nay vẫn còn tồn tại nhiều quan điểm khác nhau về năng lực cạnh tranh, có
thể dẫn ra một số quan điểm như sau:
Khái niệm sức cạnh tranh được đề cập đến lần đầu tiên ở Mỹ vào đầu những
năm 1990. Theo Aldington Report (1985): “ Doanh nghiệp có khả năng cạnh tranh là
doanh nghiệp có thể sản xuất sản phẩm và dịch vụ với chất lượng vượt trội và giá cả
thấp hơn các đối thủ khác trong nước và quốc tế. Khả năng cạnh tranh đồng nghĩa với
việc đạt được lợi ích lâu dài của doanh nghiệp và khả năng đảm bảo thu nhập cho
người lao động và chủ doanh nghiệp ”. Bộ thương mại và Công nghiệp Anh (1998)
đưa ra định nghĩa: “ Đối với doanh nghiệp, năng lực cạnh tranh là khả năng sản xuất
đúng sản phẩm, xác định đúng giá cả vào đúng thời điểm. Điều đó có nghĩa là đáp ứng
nhu cầu khách hàng với hiệu suất và hiệu quả hơn các doanh nghiệp khác ”.
Hội đồng sức cạnh tranh của Mỹ đề nghị định nghĩa: “ Năng lực cạnh tranh là
năng lực kinh tế về hàng hóa và dịch vụ của một nền sản xuất có thể vượt qua thử
thách trên thị trường thế giới trong khi mức sống của dân chúng có thể được nâng cao
một cách vững chắc và lâu dài. ”
Trong từ điển thuật ngữ chính sách thương mại: “ Sức cạnh tranh là năng lực
của một doanh nghiệp, hoặc một ngành, một quốc gia không bị doanh nghiệp khác,
nghành khác, quốc gia khác đánh bại về năng lực kinh tế ”
Diễn đàn cấp cao về cạnh tranh công nghiệp của Tổ chức Hợp tác và phát triển
kinh tế đã chọn định nghĩa về năng lực cạnh tranh cố gắng kết hợp cả doanh nghiệp,
ngành và quốc gia:“ Năng lực cạnh tranh là sức sản xuất ra thu nhập tương đối cao trên
cơ sở sử dụng các yếu tố sản xuất có hiệu quả làm cho các doanh nghiệp, các ngành,
các địa phương, các quốc gia và khu vực phát triển bền vững trong điều kiện cạnh
tranh quốc tế ”
Ở Việt Nam thì các chuyên gia lại cho rằng : “ Năng lực cạnh tranh ( còn gọi là
sức cạnh tranh), khả năng giành được thị phần lớn trước các đối thủ cạnh tranh trên thị
trường, kể cả khả năng giành lại một phần hay toàn bộ thị phần của đồng nghiệp ”
Mặc dù có sự khác nhau giữa các định nghĩa trên song hàm nghĩa cơ bản là như
nhau. Với phạm vi và khuôn khổ của đề tài nghiên cứu, trong khóa luận sử dụng khái
niệm năng lực cạnh tranh của OECD
Như ta biết, mội trường cạnh tranh hiện nay là mội trường cạnh tranh không
hoàn hảo, tức là vừa có cạnh tranh, vừa có độc quyền, vừa cạnh tranh hợp tác cả ở thị
trường trong nước lẫn thị trường quốc tế. Vì vậy, việc nhận thức đúng đắn về năng lực
10
cạnh tranh là điều vô cùng cần thiết để nâng cao năng lực cạnh tranh của các chủ thể.
1.1.3 Lợi thế cạnh tranh
Theo Micheal E .Porter, lợi thế cạnh tranh xuất phát chủ yếu từ giá trị mà doanh
nghiệp có thể tạo ra cho khách hàng. Lợi thế có thể ở dưới dạng giá cả thấp hơn đối
thủ cạnh tranh ( trong khi lợi ích cho người mua là tương đương ), hoặc việc cung cấp
những lợi ích vượt trội so với đối thủ khiến người mua chấp nhận thanh toán một mức
giá cao hơn. Về cơ bản, lợi thế cạnh tranh phát sinh từ giá trị mà doanh nghiệp bỏ ra.
Giá trị là mức mà người mua sẵn lòng thanh toán và giá trị vượt trội xuất hiện khi
doanh nghiệp chào bán các tiện ích tương đương nhưng với mức giá thấp hơn đối thủ
cạnh tranh, hoặc cung cấp các tiện ích độc đáo và người mua vẫn hài lòng với mức giá
cao hơn bình thường.
Chi phí và sự sẵn có của các yếu tố sản xuất chỉ là một trong nhiều nguồn lực
tại chỗ quyết định lợi thế cạnh tranh, không phải là yếu tố quan trọng, nếu xét xem trên
phạm vi tương đối so với các yếu tố khác. Lợi thế cạnh tranh của một doanh nghiệp về
dài hạn tùy thuộc vào khả năng cải tiến liên tục và nhấn mạnh đến sự tác động của môi
trường đối với việc thực hiện cải tiến đó.
Có thể chia lợi thế cạnh tranh thành hai nhóm cơ bản sau:
- Lợi thế về chi phí: tính ưu việt của nó thể hiện trong việc tạo ra sản phẩm có chi phí
thấp hơn đối thủ cạnh tranh. Lợi thế cạnh tranh này mang lại cho doanh nghiệp hiệu
quả cao hơn và có khả năng tốt hơn để chống lại việc giảm giá sản phẩm .
- Lợi thế cạnh tranh về sự khác biệt: tính ưu việt của nó dựa vào sự khác biệt của sản
phẩm , làm tăng giá trị cho người tiêu dùng hoặc làm giảm chi phí sử dụng sản phẩm
hoặc nâng cao tính hoàn thiện khi sử dụng sản phẩm. Lợi thế này cho phép doanh
nghiệp có khả năng buộc thị trường chấp nhận mức giá cao hơn mức giá của đối thủ
cạnh tranh
1.1.4 Sự cần thiết nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp
Trong điều kiện hội nhập kinh tế với khu vực và thế giới , để tồn tại và đứng
vững trên thị trường các doanh nghiệp cần phải cạnh tranh gay gắt với không chỉ với
các doanh nghiệp trong nước mà còn phải cạnh tranh với các Công ty tập đoàn xuyên
quốc gia. Đối với các doanh nghiệp , cạnh tranh luôn là con dao hai lưỡi. Quá trình
cạnh tranh sẽ đào thải các doanh nghiệp không đủ năng lực cạnh tranh để đứng vững
trên thị trường . Mặt khác cạnh tranh buộc các doanh nghiệp phải không ngừng cố
gắng trong hoạt động tổ chức sản xuất kinh doanh của mình để tồn tại và phát triển .
Đặc biệt trong giai đoạn hiện nay, cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật công nghệ đang
phát triển nhanh nhiều công trình khoa học công nghệ tiên tiến ra đời tạo ra các sản
phẩm tốt, đáp ứng nhu cầu mọi mặt của con người. Người tiêu dùng đòi hỏi ngày càng
11
cao về sản phẩm mà nhu cầu của con người thì vô tận, luôn có " ngách thị trường "
đang chờ các nhà doanh nghiệp tìm ra và thoả mãn. Do vậy các doanh nghiệp phải đi
sâu nghiên cứu thị trường , phát hiện ra những nhu cầu mới của khách hàng để qua đó
có thể lựa chọn phương án phù hợp với năng lực kinh doanh của doanh nghiệp để đáp
ứng nhu cầu khách hàng . Trong cuộc cạnh tranh này doanh nghiệp nào nhạy bén hơn
thì doanh nghiệp đó sẽ thành công.
Tóm lại, việc nâng cao khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp trong điều kiện
hội nhập là cần thiết cho sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp.
1.1.5 Vai trò của nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp
* Đối với doanh nghiệp
Đối với mỗi doanh nghiệp sản xuất kinh doanh trong nền kinh tế thị trường,
cạnh tranh có những vai trò sau:
Cạnh tranh được coi như là cái “sàng” để lựa chọn và đào thải những doanh
nghiệp. Vì vậy nâng cao khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp có vai trò cực kỳ to
lớn.
Cạnh tranh quyết định sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. Cạnh tranh tạo
ra động lực cho sự phát triển của doanh nghiệp, thúc đẩy doanh nghiệp tìm mọi biện
pháp để nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh.
Cạnh tranh đòi hỏi doanh nghiệp phải phát triển công tác marketing bắt đầu từ việc
nghiên cứu thị trường để xác định được nhu cầu thị trường từ đó ra các quyết định sản
xuất kinh doanh để đáp ứng các nhu cầu đó. Bên cạnh đó, doanh nghiệp phải nâng cao các
hoạt động dịch vụ cũng như tăng cường công tác quảng cáo, khuyến mãi, bảo hành...
Cạnh tranh buộc các doanh nghiệp phải đưa ra các sản phẩm có chất lượng cao
hơn để đáp ứng được nhu cầu thường xuyên thay đổi của người tiêu dùng. Muốn vậy,
các doanh nghiệp phải áp dụng những thành tựu khoa học kỹ thuật mới vào quá trình
sản xuất kinh doanh, tăng cường công tác quản lý, nâng cao trình độ tay nghề của công
nhân... từ đó làm cho doanh nghiệp ngày càng phát triển hơn.
* Đối với người tiêu dùng
Có cạnh tranh, hàng hoá sẽ có chất lượng ngày càng tốt hơn, mẫu mã ngày càng
đẹp, phong phú đa dạng hơn để đáp ứng các yêu cầu của người tiêu dùng trong xã hội.
Vì vậy, đối với người tiêu dùng, cạnh tranh có các vai trò sau:
Người tiêu dùng có thể thoải mái, dễ dàng trong việc lựa chọn các sản phẩm
phù hợp với túi tiền và sở thích của mình.
Những lợi ích mà họ thu được từ hàng hoá ngày càng được nâng cao, thoả mãn
ngày càng tốt hơn các nhu cầu của họ nhờ các dịch vụ kèm theo được quan tâm nhiều
hơn. Đó chính là những lợi ích mà người tiêu dùng có được từ việc nâng cao khả năng
12
cạnh tranh của các doanh nghiệp.
* Đối với nền kinh tế
Cạnh tranh được coi như là “linh hồn” của nền kinh tế, vai trò của cạnh tranh
đối với nền kinh tế quốc dân thể hiện ở những mặt sau:
Cạnh tranh là môi trường, là động lực thúc đẩy sự phát triển của mọi thành
phần kinh tế trong nền kinh tế thị trường, góp phần xoá bỏ những độc quyền, bất hợp
lý, bất bình đẳng trong kinh doanh.
Cạnh tranh bảo đảm thúc đẩy sự phát triển của khoa học kỹ thuật, sự phân công
lao động xã hội ngày càng xâu sắc.
Cạnh tranh thúc đẩy sự đa dạng hoá sản phẩm đáp ứng nhu cầu ngày càng cao
của xã hội, kích thích nhu cầu phát triển, làm nảy sinh những nhu cầu mới, góp phần
nâng cao chất lượng đời sống xã hội và phát triển nền kinh tế.
Cạnh tranh làm nền kinh tế quốc dân vững mạnh, tạo khả năng cho doanh
nghiệp vươn ra thị trường nước ngoài.
Cạnh tranh giúp cho nền kinh tế có nhìn nhận đúng hơn về kinh tế thị trường,
rút ra được những bài học thực tiễn bổ sung vào lý luận kinh tế thị trường của nước ta.
Bên cạnh những tác dụng tích cực, cạnh tranh cũng làm xuất hiện những hiện
tượng tiêu cực như làm hàng giả, buôn lậu trốn thuế… gây nên sự bất ổn trên thị
trường, làm thiệt hại đến lợi ích của nhà nước và của người tiêu dùng.
Phát huy những yếu tố tích cực, hạn chế những mặt tiêu cực của cạnh tranh
không chỉ là nhiệm vụ của nhà nước, doanh nghiệp mà là nhiệm vụ chung của toàn bộ
cá nhân.
1.1.6 Ý nghĩa của việc nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp
Cạnh tranh là một đặc trưng cơ bản của nền kinh tế thị trường, ở đâu có nền
kinh tế thị trường thì ở đó có nền kinh tế cạnh tranh. Bất kỳ một doanh nghiệp nào
cũng vậy, khi tham gia vào kinh doanh trên thị trường muốn doanh nghiệp mình tồn tại
và đứng vững thì phải chấp nhận cạnh tranh. Trong giai đoạn hiện nay do tác động của
khoa học kỹ thuật và công nghệ, nền kinh tế nước ta đang ngày càng phát triển, nhu
cầu cuộc sống của con người được nâng lên ở mức cao hơn rất nhiều.Con người không
chỉ cần có nhu cầu “ăn chắc mặc bền” như trước kia mà còn cần “ăn ngon mặc đẹp”.
Để đáp ứng kịp thời nhu cầu đó, doanh nghiệp phải không ngừng điều tra nghiên cứu
thị trường, tìm hiểu nhu cầu của khách hàng, doanh nghiệp nào bắt kịp và đáp ứng đầy
đủ nhu cầu đó thì sẽ chiến thắng trong cạnh tranh. Chính vì vậy cạnh tranh là rất cần
thiết, nó giúp cho doanh nghiệp:
13
-
Tồn tại và đứng vững trên thị trường: Cạnh tranh sẽ tạo ra môi trường kinh doanh và
những điều kiện thuận lợi để đáp ứng nhu cầu khách hàng, làm cho khách hàng tin
rằng sản phẩm của doanh nghiệp mình là tốt nhất, phù hợp với thị hiếu nhu cầu của
người tiêu dùng nhất. Doanh nghiệp nào càng đáp ứng tốt nhu cầu của khách hàng thì
doanh nghiệp đó mới có khả năng tồn tại trong nền kinh tế thị trường hiện nay.
- Doanh nghiệp cần phải nâng cao năng lực cạnh tranh để phát triển
Ngày nay trong nền kinh tế thị trường, cạnh tranh là một điều kiện và là một yếu tố
kích thích kinh doanh. Quy luật cạnh tranh là động lực thúc đẩy hát triển sản xuất, sản
xuất hàng hoá ngày càng phát triển, hàng hoá sản xuất ra nhiều, số lượng người cung
ứng ngày càng đông thì cạnh tranh ngày càng khốc liệt, kết quả cạnh tranh là loại bỏ
những Công ty làm ăn kém hiệu quả, năng suất chất lượng thấp và ngược lại nó thúc
đẩy những Công ty làm ăn tốt, năng suất chất lượng cao. Do vậy, muốn tồn tại và phát
triển thì doanh nghiệp cần phải cạnh tranh, tìm mọi cách nâng cao khả năng cạnh tranh
của mình nhằm đáp ứng tốt hơn nhu cầu khách hàng. Các doanh nghiệp cần phải tìm
mọi biện pháp để đáp ứng nhu cầu thị hiếu của người tiêu dùng như sản xuất ra nhiều
loại hàng hoá có chất lượng cao, giá cả phù hợp với chất lượng sản phẩm, phù hợp với
mức thu nhập của từng đối tượng khách hàng. Có như vậy hàng hoá của doanh nghiệp
bán ra mới ngày một nhiều, tạo được lòng tin đối với khách hàng. Muốn tồn tại và phát
triển được thì doanh nghiệp cần phải phát huy hết ưu thế của mình, tạo ra những điểm
khác biệt so với các đối thủ cạnh tranh từ đó doanh nghiệp mới có khả năng tồn tại,
phát triển và thu được lợi nhuận cao.
Trong nền kinh tế thị trường muốn tồn tại và phát triển thì cạnh tranh luôn là
mục tiêu của mỗi doanh nghiệp. Cũng trong nền kinh tế đó khách hàng là người tự do
lựa chọn nhà cung ứng và cũng chính là những người quyết định cho doanh nghiệp có
tồn tại hay không. Họ không phải tìm đến doanh nghiệp như trước đây nữa và họ cũng
không phải mất thời gian chờ đợi để mua hàng hoá dịch vụ, mà đối ngược lại trong
nền kinh tế thị trường khách hàng được coi là thượng đế, các doanh nghiệp muốn tồn
tại và phát triển thì phải tìm đến khách hàng và khai thác nhu cầu nơi họ. Điều này đòi
hỏi doanh nghiệp phải có những chương trình giới thiệu truyền bá và quảng cáo sản
phẩm của mình để người tiêu dùng biết đến, để họ có sự xem xét, đánh giá và quyết
định có nên tiêu dùng sản phẩm của doanh nghiệp hay không?. Ngày nay việc chào
mời để khách hàng tiêu thụ sản phẩm của mình đã là vấn đề khó khăn nhưng việc giữ
lại được khách hàng còn khó khăn hơn rất nhiều. Bởi vậy mà doanh nghiệp nên có
những dịch vụ cả trước khi bán, trong khi bán và dịch vụ sau khi bán hàng hoá cho
khách hàng để những khách hàng đó là những khách hàng truyền thống của doanh
nghiệp, chính họ là những nhân tố quan trọng trong sự tồn tại và phát triển của doanh
nghiệp.
14
Doanh nghiệp phải nâng cao năng lực cạnh tranh để thực hiện các mục tiêu
Bất kỳ một doanh nghiệp nào dù lớn hay nhỏ khi thực hiện hoạt động kinh doanh đều
có những mục tiêu nhất định. Tuỳ thuộc vào từng giai đoạn phát triển của doanh
nghiệp mà doanh nghiệp đặt ra cho mình những mục tiêu khác nhau. Trong giai đoạn
đầu khi mới thực hiện hoạt động kinh doanh thì mục tiêu của doanh nghiệp là muốn
khai thác thị trường nhằm tăng lượng khách hàng truyền thống và tiềm năng, giai đoạn
này doanh nghiệp thu hút được càng nhiều khách hàng càng tốt. Còn ở giai đoạn
trưởng thành và phát triển thì mục tiêu của doanh nghiệp là tăng doanh thu, tăng lợi
nhuận và giảm chi phí, giảm bớt những chi phí được coi là không cần thiết, để lợi
nhuận thu được là tối đa, uy tín của doanh nghiệp và niềm tin của khách hàng đối với
doanh nghiệp là cao nhất. Đến giai đoạn gần như bão hoà thì mục tiêu chủ yếu của
doanh nghiệp là gây dựng lại hình ảnh đối với khách hàng bằng cách thực hiện trách
nhiệm đối với Nhà nước, đối với cộng đồng, củng cố lại thêm niềm tin cho của khách
hàng đối với doanh nghiệp. Để đạt được các mục tiêu doanh nghiệp cần phải cạnh
tranh, chỉ có cạnh tranh thì doanh nghiệp mới bằng mọi giá tìm ra phương cách, biện
pháp tối ưu để sáng tạo, tạo ra những sản phẩm đạt chất lượng cao hơn, cung ứng
những dịch vụ tốt hơn đối thủ cạnh tranh, thỏa mãn nhu cầu khách hàng ngày càng
tăng. Chỉ có cạnh tranh thì doanh nghiệp mới có thể tồn tại và phát triển.
1.2
Các chỉ tiêu đánh giá năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp
1.2.1 Các chỉ tiêu phản ánh lợi thế cạnh tranh
1.2.1.1 Chỉ tiêu cạnh tranh về chất lượng sản phẩm
Chất lượng sản phẩm là mức độ tập trung một tập hợp các đặc tính của sản
phẩm làm thỏa mãn nhu cầu. Sản phẩm có nhiều tiêu chuẩn chất lượng khác nhau,
nhưng nếu chỉ cần một tiêu chuẩn không đảm bảo thì không thể coi sản phẩm đó đạt
chất lượng được, ở đây không có quy luật bù trừ. Chất lượng sản phẩm lại bao gồm
nhiều yếu tố khác nhau, đó là: nghiên cứu sản phẩm, thiết kế sản phẩm, tạo sản phẩm,
tiêu thụ sản phẩm, yếu tố con người, công nghệ sản xuất,….
1.2.1.2 Chỉ tiêu cạnh tranh về giá cả
Giá cả có thể coi là yếu tố quan trọng thứ hai sau chất lượng. Trong bối cảnh
hiện nay, khi khoa học kỹ thuật đã đã phát triển với trình độ cao thì chất lượng sản
phẩm của các doanh nghiệp gần như tương đương nhau. Và khi đó giá cả lại là yếu tố
hấp dẫn khách hàng.
Để có giá cả thấp thì doanh nghiệp phải tìm cách giảm chi phí. Chỉ có cách
giảm chi phí thì doanh nghiệp mới giảm được giá bán khi chất lượng vẫn tương đương
với các đối thủ mà vẫn có lợi nhuận.
1.2.1.3 Chỉ tiêu cạnh tranh về phân phối
Hiện nay, ngày càng có nhiều doanh nghiệp quan tâm đến phân phối như là biến
-
15
số marketing tạo lợi thế cạnh tranh dài hạn cho doanh nghiệp trên thị trường. Hoạt
động phân phối giải quyết vấn đề hàng hoá dịch vụ được đưa như thế nào đến người
tiêu dùng. Vì vậy, doanh nghiệp nào có cách thức tổ chức hệ thống phân phối sản
phẩm, dịch vụ của mình tốt, tạo ra sự thuận tiện nhanh chóng cho người tiêu dùng thì
việc đó sẽ góp phần làm tăng khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp trên thị trường lên
khá nhiều. Các doanh nghiệp tổ chức và quản lý hoạt động phân phối thông qua các hệ
thống kênh phân phối.
1.2.1.4 Trình độ công nghệ
Trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay tại Việt Nam nói riêng và tại
các nước đang phát triển nói chung, công nghệ đang trở thành một động lực của phát
triển kinh tế trong nước, cải thiện năng lực cạnh tranh trên thị trường, tham gia vào
mậu dịch quốc tế và nâng cao mức sống của dân cư. Mặc dù nắm công nghệ trong tay
nhưng việc quản lý công nghệ không chỉ là vấn đề riêng của doanh nghiệp. Chính sách
của nhà nước sẽ giúp các doanh nghiệp nâng cao trình độ công nghệ thông qua chuyển
giao công nghệ hoặc tự mình phát triển để nâng cao khả năng cạnh tranh của doanh
nghiệp.
1.2.1.5 Trình độ quản lý
Trình độ quản lý của doanh nghiệp được thể hiện thông qua năng lực của nhà
quản trị., cụ thể là thể hiện ở việc đưa ra các chiến lược, hoạch định hướng đi cho
doanh nghiệp. Nhà quản trị giỏi phải là người giỏi về trình độ, giỏi về chuyên môn
nghiệp vụ, có khả năng giao tiếp, biết nhìn nhận và giải quyết các công việc mộ cách
linh hoạt và nhạy bén, có khả năng thuyết phục để người khác phục tùng mệnh lệnh
của mình một cách tự nguyện và nhiệt tình.Biết quan tâm, động viên, khuyến khích
cấp dưới làm việc có tinh thần trách nhiệm. Điều đó sẽ tạo nên sự đoàn kết giữa các
thành viên trong doanh nghiệp. Ngoài ra nhà quản trị còn phải là người biết nhìn xa
trông rộng, vạch ra những chiến lược kinh doanh trong tương lai với cách nhìn vĩ
mô,hợp với xu hướng phát triển chung trong nền kinh tế thị trường. Nhà quản trị chính
là người cầm lái con tầu doanh nghiệp, họ là nhứng người đứng mũi chịu sào trong
mỗi bước đi của doanh nghiệp. Họ là những người có quyền lực cao nhất và trách
nhiệm thuộc về họ cũng là nặng nề nhất. Họ chính là nhứng người xác định hướng đi
và mục tiêu cho doanh nghiệp. Vì vậy mà nhà quản trị đóng một vai trò chủ chốt trong
sự phát triển của doanh nghiệp..
1.2.1.6 Thương hiệu, uy tín, hình ảnh của doanh nghiệp so với đối thủ cạnh tranh
16
Uy tín của doanh nghiệp là một trong những chỉ tiêu quan trọng để đánh giá năng lực
cạnh tranh của doanh nghiệp. Doanh nghiệp nào có uy tín sẽ có nhiều bạn hàng, nhiều
đối tác làm ăn và nhất là có một lượng khách hàng rất lớn. Mục tiêu của các doanh
nghiệp là doanh thu, thị phần và lợi nhuận .v.v. Nhưng để đạt được các mục tiêu đó
doanh nghiệp phải tạo được uy tín của mình trên thị trường, phải tạo được vị thế của
mình trong con mắt của khách hàng. Cơ sở, tiền đề để tạo được uy tín của doanh
nghiệp đó là doanh nghiệp phải có một nguồn vốn đảm bảo để duy trì và phát triển
hoạt động kinh doanh, có một hệ thống máy móc, cơ sở hạ tầng đáp ứng đầy đủ yêu
cầu của hoạt động kinh doanh. Yếu tố quan trọng nhất để tạo nên uy tín của doanh
nghiệp đó là “ con người trong doanh nghiệp” tức doanh nghiệp đó phải có một đội
ngũ cán bộ có trình độ chuyên môn, nghiệp vụ cao, đội ngũ nhân viên giỏi về tay nghề
và kỹ năng làm việc, họ là những con người có trách nhiệm và nhiệt tình trong công
việc, biết khơi dậy nhu cầu của khách hàng.
Khác với các chỉ tiêu định lượng, để đo lường được chỉ tiêu này đòi hỏi người
phân tích cần phải thu thập được nhiều thông tin phản hồi từ khách hàng, xem xem sự
đánh giá của họ đối với các nhãn hiệu sản phẩm, dịch vụ của doanh nghiệp như thế
nào. Nếu một doanh nghiệp có uy tín cao thì các sản phẩm, dịch vụ của nó cũng được
khách hàng tín nhiệm và đánh giá cao và do đó các sản phẩm, dịch vụ của doanh
nghiệp đó sẽ có khả năng cạnh tranh cao trên thị trường.
Trong nền kinh tế thị trường yếu tố nổi bật nhất để đánh giá khả năng cạnh tranh, uy
tín của doanh nghiệp đó là nhãn hiệu sản phẩm
-
Thiết kế nhãn hiệu sản phẩm: Khi xây dựng một sản phẩm, các nhà quản trị sẽ lưu
tâm đến rất nhiều đến nhãn hiệu sản phẩm, một nhãn hiệu sản phẩm hay và ấn tượng
góp phần không nhỏ vào sự thành công của sản phẩm, nó giúp phân biệt sản phẩm của
doanh nghiệp với đối thủ cạnh tranh khác và là cộng cụ để doanh nghiệp định vị sản
phẩm trên thị trường mục tiêu. Khi thiết kế nhãn hiệu doanh nghiệp phải xem xét đến
các thành phần gồm: đặt tên sản phẩm, xây dựng biểu tượng(logo), khẩu hiệu và hình
ảnh cho nhãn. Đồng thời phải có chiến lược về nhãn hiệu đối với sản phẩm của doanh
nghiệp.
-
Các giá trị tài sản nhãn hiệu: Tài sản nhãn hiệu là giá trị của một nhãn hiệu của sản
phẩm do uy tín của nhãn hiệu sản phẩm đó đem lại. Quản trị giá trị nhãn là một trong
các công việc mang tính chiến lược quan trọng nhất, nó được xem là một trong những
dạng tầm tiềm năng có giá trị cao. Trong những năm gần đây, khi các nhãn hiệu sản
17
phẩm của các doanh nghiệp cạnh tranh mạnh mẽ trên thị trường, hình thức khuyến mại
định hướng vào gía là hình thức phổ biến được nhiều doanh nghiệp áp dụng, điều này
làm tổn thương nhiều doanh nghiệp.
18
1.2.2 Các chỉ tiêu phản ánh năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp
1.2.2.1 Chỉ tiêu phản ánh lợi thế cạnh tranh
a. Sản lượng tiêu thụ, doanh thu
Doanh thu là chỉ tiêu tổng hợp thể hiện sản lượng và giá bán sản phẩm qua các
giai đoạn.
Doanh thu được tính với công thức: DT = PxQ
Trong đó:
DT: Doanh thu sản phẩm
P: Giá bán cho 1 đơn vị sản phẩm
Q: Tổng khối lượng sản phẩm tiêu thụ
Tốc độ tăng doanh thu được hiểu là phần doanh thu tăng lên trong kỳ so với
doanh thu tiêu thụ ở kỳ trước: ∆DT = P1Q1 – P0Q0
Trong đó:
P1Q1: Doanh thu sản phẩm của kỳ nghiên cứu.
P0Q0: : Doanh thu sản phẩm của kỳ gốc (kỳ so sánh).
Sản lượng tiêu thụ là số lượng hàng hóa mà doanh nghiệp bán ra và chỉ tiêu này
ảnh hưởng trực tiếp đến chỉ tiêu doanh thu. Do vậy mà sản lượng quyết định đến năng
lực cạnh tranh của công ty. Căn cứ vào số lượng sản phẩm bán ra trong kỳ, doanh
nghiệp có thể ước lượng được doanh thu, từ đó tính toán lượng chi phí thấp nhất để có
được lợi nhuận cao nhất. Sản lượng tồn kho ít hay nhiều cũng gây ra những khó khăn
cho công ty, khả năng buôn bán của công ty kém sẽ làm cho sức cạnh tranh của công
ty sẽ không bằng những công ty khác.
Doanh thu là số tiền mà doanh nghiệp thu được khi bán hàng hoá hoặc dịch vụ.
Bởi vậy mà doanh thu có thể được coi là một chỉ tiêu đánh giá năng lực cạnh tranh.
Hơn khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp là khả năng duy trì và tăng thêm lợi nhuận.
Căn cứ vào chỉ tiêu doanh thu qua từng thời kỳ hoặc qua các năm ta có thể đánh giá
được kết quả hoạt động kinh doanh là tăng hay giảm, theo chiều hướng tốt hay xấu.
Nhưng để đánh giá được hoạt động kinh doanh đó có mang lại được hiệu quả hay
không ta phải xét đến những chi phí đã hình thành nên doanh thu đó. Nếu doanh thu và
chi phí của doanh nghiệp đều tăng lên qua các năm nhưng tốc độ tăng của doanh thu
lớn hơn tốc độ tăng của chi phí thì hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp được đánh
giá là tốt, doanh nghiệp đã biết phân bổ và sử dụng hợp lý yếu tố chi phí, bởi một phần
chi phí tăng thêm đó được doanh nghiệp mở rộng quy mô kinh doanh, đầu tư mua sắm
trang thiết bị và xây dựng cơ sở hạ tầng. v.v.
b. Thị phần của doanh nghiệp
Thị phần là chỉ số thể hiện quy mô của doanh nghiệp, cho thấy doanh nghiệp có
19
vị thế cạnh tranh như thế nào trên thị trường. Một điều tất yếu là doanh nghiệp càng có
năng lực cạnh tranh thì tiêu thụ được càng nhiều hàng hóa, doanh thu lớn và điều tất
yếu là thị phần tăng. Việc tăng thị phần và giữ vững thị phần đã có luôn là vấn đề quan
tâm lớn của mỗi doanh nghiệp. Nói tới thị phần, ta thường thấy xuất hiện chỉ số thị
phần tuyệt đối và tương đối được tính theo công thức sau
Thị phần tuyệt đối = 100% x
Thị phần tương đối = 100% x
Chỉ tiêu này càng lớn nói lên sự chiếm lĩnh thị trường của doanh nghiệp càng
rộng. Thông qua sự biến động của chỉ tiêu này ta có thể đánh giá mức động hoạt động
của doanh nghiệp có hiệu quả hay không bởi nếu doanh nghiệp có một mảng thị
trường lớn thì chỉ số trên đạt mức cao nhất và ấn định cho doanh nghiệp một vị trí ưu
thế trên thị trường. Nếu doanh nghiệp có một phạm vi thị trường nhỏ hẹp thì chỉ số
trên ở mức thấp, phản ánh tình trạng doanh nghiệp đang bị chèn ép bởi các đối thủ
cạnh tranh. Bằng chỉ tiêu thị phần, doanh nghiệp có thể đánh giá sơ bộ khả năng chiếm
lĩnh thị trường so với toàn ngành.
Để đánh giá được khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp so với các đối thủ ta dùng
chỉ tiêu thị phần tương đối: đó là tỷ lệ so sánh về doanh thu của công ty so với đối thủ
cạnh tranh mạnh nhất để từ đó có thể biết được những mặt mạnh hay những điểm còn hạn
chế so với đối thủ. Ưu điểm của chỉ tiêu này là đơn giản, dễ hiểu nhưng nhược điểm của
nó là khó nắm bắt được chính xác số liệu cụ thể và sát thực của đối thủ.
c. Tỷ suất lợi nhuận
Tỷ số lợi nhuận trên doanh thu = 100% x
Lợi nhuận là một phần dôi ra của doanh thu sau khi đã trừ đi các chi phí dùng
vào hoạt động sản xuất kinh doanh. Lợi nhuận được coi là một chỉ tiêu tổng hợp đánh
giá năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp. Bởi vì nếu doanh nghiệp thu được lợi nhuận
cao chắc chắn doanh nghiệp có doanh thu cao và chi phí thấp. Căn cứ vào chỉ tiêu lợi
nhuận các doanh nghiệp có thể đánh giá được khả năng cạnh tranh của mình so với đối
thủ. Nếu lợi nhuận cao thì khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp cao và được đánh
20
1.3
giá hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp rất khả quan.
Nếu xét về tỷ suất lợi nhuận:
Chỉ tiêu này cho thấy nếu có 100 đồng doanh thu thì sẽ thu được bao nhiêu
đồng lợi nhuận. Nếu chỉ tiêu này thấp tức là tốc độ tăng của lợi nhuận nhỏ hơn tốc độ
tăng của doanh thu, chứng tỏ sức cạnh tranh của doanh nghiệp thấp. Hiệu quả kinh
doanh của doanh nghiệp chưa đạt hiệu quả cao. Đã có quá nhiều đối thủ thâm nhập
vào thị trường của doanh nghiệp. Do đó doanh nghiệp phải không ngừng mở rộng thị
trường để nâng cao khả năng cạnh tranh. Nhằm mục đích nâng cao lợi nhuận. Nếu chỉ
tiêu này cao tức là tốc độ tăng lợi nhuận lớn hơn tốc độ tăng của doanh thu. Hoạt động
kinh doanh của doanh nghiệp được đánh giá là có hiệu quả. Điều này chứng tỏ khả
năng cạnh tranh của doanh nghiệp cao. Doanh nghiệp cần phát huy lợi thế cảu mình
một cách tối đa và không ngừng đề phòng đối thủ cạnh tranh tiềm ẩn thâm nhập vào
thị trường của doanh nghiệp bất cứ lúc nào do sức hút lợi nhuận cao.
Các nhân tố ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp
Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp không chỉ có các yếu tố cấu thành tác
động trực tiếp mà còn chịu ảnh hưởng từ các nhân tố bên ngoài. Những yếu tố nội tại
doanh nghiệp có thể kiểm soát được, nhưng các nhân tố ảnh hưởng thì nằm ngoài tầm
kiểm soát của doanh nghiệp, do Nhà nước và nghành chi phối là chính.
1.3.1 Các nhân tố vĩ mô
Môi trường vĩ mô chính là môi trường doanh nghiệp đang hoạt động. Môi
trường kinh doanh của doanh nghiệp bao gồm nhiều nhân tố phức tạp ảnh hưởng đến
sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. Môi trường đó chính là tổng thể các nhân tố
cơ bản: Nhân tố kinh tế, nhân tố chính trị và pháp luật, nhân tố xã hội, nhân tố tự
nhiên, nhân tố công nghệ.
Mỗi nhân tố này tác động cà chi phối mạnh mẽ đến các hoạt động kinh doanh
của doanh nghiệp:
1.3.1.1 Nhân tố kinh tế:
Đây là nhân tố ảnh hưởng rất to lớn đối với doanh nghiệp và là nhân tố quan
trọng nhất trong môi trường kinh doanh của doanh nghiệp. Một nền kinh tế tăng
trưởng sẽ tạo đà cho doanh nghiệp phát triển, nhu cầu của người dân tăng lên đồng
nghĩa với việc doanh nghiệp có cơ hội để thoả mãn những nhu cầu đó nhiều hơn và hệ
quả tất yếu là doanh nghiệp sẽ thu được nhiều lợi nhuận hơn và phát triển. Đồng thời
với đó là tốc độ tích luỹ vốn đầu từ trong nền kinh tế cũng tăng lên, mức độ hấp dẫn
đầu tư cũng sẽ tăng lên cao, sự cạnh tranh ngày càng gay gắt. Thị trường mở rộng
chính là cơ hội tốt cho ngững doanh nghiệp biết tận dụng thời cơ, biết tự hoàn thiện
mình, không ngừng vươn lên chiếm lĩnh thị trường, nhưng cũng là thách thức đối với
21
những doanh nghiệp không có mục tiêu rõ ràng, chiến lược hợp lý.
Và ngược lại, khi nền kinh tế bị suy thoái, bất ổn định, tâm lý người tiêu dùng
hoang mang, sức mua giảm sút, các doanh nghiệp tìm mọi cách để giữu khách hàng,
giành giật khách hàng, lúc đó cạnh tranh sẽ trở nên khốc liệt hơn.
Các yếu tố của nhân tố kinh tế như mức lãi suất, tỷ lệ lạm phát, tỷ giá hối
đoái…cũng tác động đến khả năng tài chính của doanh nghiệp.
1.3.1.2 Nhân tố chính trị và pháp luật
Chính trị và pháp luật là nền tảng cho sự phát triển kinh tế cũng như cơ sở pháp
lý cho các doanh nghiệp hoạt động sản xuất kinh doanh ở bất cứ thị trường nào dù là
trong nước hay nước ngoài.
Không có sự ổn định về chính trị thì sẽ không có một nền kinh tế ổn định, phát
triển lâu dài lành mạnh. Luật pháp tác động điều chỉnh trực tiếp đến hoạt động của mỗi
doanh nghiệp trong nền kinh tế. Luật pháp rõ ràng, chính trị ổn định là môi trường
thuận lợi cho hoạt động kinh doanh của từng doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh
nghiệp tham gia vào hoạt động xuất nhập khẩu chịu ảnh hưởng của quan hệ các chính
phủ, các hiệp định kinh tế quốtế…phải quan tâm đến sự khác biệt về pháp luật giữa
các quốc gia. Sự khác biệt này có thể làm tăng hoặc giảm năng lực cạnh tranh của
doanh nghiệp.
1.3.1.3 Nhân tố xã hội
Nhân tố xã hội đó là lối sống, phong tục, tập quán, thái độ tiêu dùng, trình độ
dân trí, tôn giáo, thẩm mĩ.. Chúng quyết định hành vi của người tiêu dùng, quan điểm
của họ về sản phẩm, dịch vụ, đó là những yếu tố tác động trực tiếp đến kết quả sản
xuất kinh doanh của doanh nghiệp, muốn tồn tại được trên thị trường, doanh nghiệp
không thể đi ngược lại những yếu tố xã hội đó.
Ví dụ như đối với những thị trường ưu chuộng hàng nội địa như Nhật Bản, Ấn
Độ, Hàn Quốc thì các sản phẩm ngoại nhập sẽ kém khả năng cạnh tranh so với các
doanh nghiệp của quốc gia đó.
Vì vậy, các doanh nghiệp phải tìm hiểu nghiên cứu kỹ cá yếu tố xã hội tại thị
trường mới cũng như thị trường truyền thống để từ đó đưa ra những giải pháp và chiến
lược kinh doanh hiệu quả, đáp ứng thị trường tốt nhất để nâng cao khả năng cạnh tranh
của doanh nghiệp.
1.3.1.4 Nhân tố tự nhiên
Điều kiện tự nhiên của từng vùng sẽ tạo ra những điều kiện thuận lợi hoặc khó
khăn cho doanh nghiệp trong việc cạnh tranh vị trí địa lý thuận lợi ở trung tâm công
nghiệp hay gần nhất vùng nguyên liệu, nhân lực trình độ cao, lành nghề hay các trục
đường giao thông quan trọng… sẽ tạo cơ hội cho các doanh nghiệp phát triển, giảm
22
được chi phí…
1.3.1.5 Nhân tố công nghệ
Khoa học và công nghệ tác động mạnh mẽ đến khả năng cạnh tranh của doanh
nghiệp thông qua giá thành và chất lượng sản phẩm.
Một doanh nghiệp có hệ thống dây chuyền kỹ thuật hiện đại sẽ tạo ra được các
sản phẩm có chất lượng tốt với năng suất cao, từ đó tiết kiệm được các chi phí khiến
giá thành giảm, giá thành giảm dẫn đến giá bán giảm.. một sản phẩm có chất lượng tốt,
giá thành hợp lý luôn tìm được một chỗ đứng vững chắc trên thị trường, từ đó khẳng
định vị thế của doanh nghiệp.
Mặt khác, khoa học công nghệ tiên tiến sẽ giúp doanh nghiệp xử lý thông tin
một cách chính xác và có hiệu quả. Nhất là trong thời đại ngày nay, bất kỳ một doanh
nghiệp nào muốn thành công cũng cần có hệ thống thu thập, xử lý, lưu trữ, truyền phát
thông tin một cách chính xác, đầy đủ, nhanh chóng, hiệu quả về thị trường và đối thủ
cạnh tranh.
1.3.2 Môi trường ngành
1.3.2.1 Nguồn cung ứng đầu vào
Trong thời đại của sự phân công lao động và chuyên môn hóa cao thì không
một doanh nghiệp nào có thể tự lo cho mình tất cả nguồn đầu vào được, làm như vậy
hiệu quả thấp hoặc là không có hiệu quả vì không phát huy hết lợi thế so sánh của
mình. Để kinh doanh đạt hiệu quả cao doanh nghiệp phải tìm cho mình những người
cung ứng có uy tí ( giao hàng đúng hẹn, đúng chủng lại và đảm bảo yêu cầu về chất
lượng,…), nếu không doanh nghiệp cũng sẽ sai hẹn với khách hàng của mình, và như
vậy sẽ ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh
1.3.2.2 Nhu cầu về sản phẩm
Điều kiện về cầu sản phẩm, hay nói cách khách hàng về sản phẩm doanh nghiệp
là điều kiện cần đầu tiên cho sự tồn tại của sản phẩm. Mỗi sản phẩm sẽ có đặc trưng
riêng về nhu cầu, có thể là nhu cầu linh hoạt, nhu cầu theo mùa vụ, hay mức cầu cố
định,…. Từ đó doanh nghiệp có định hướng đúng đắn về tìn hình sản phẩm, xác định
mức đa dạng hóa của sản phẩm và các dịch vụ đi kèm sản phẩm. Điều này có ảnh
hưởng lớn đến khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp.
1.3.2.3 Sức ép của sản phẩm thay thế
Sức ép của sản phẩm thay thế làm hạn chế tiềm năng lợi nhuận của ngành do
mức giá cao nhất bị khống chế. Nếu không chú ý tới sản phẩm thay thế tiềm ẩn, doanh
nghiệp có thể bị tụt lại với nhu cầu thị trường.
Phần lớn các sản phẩm thay thế mới là kết quả của sự tiến bộ về công nghệ.
Muốn đạt được thành công các doanh nghiệp cần phải chú ý và giành nguồn lực để
23
phát triển hay vận dụng công nghệ mới vào chiến lược của mình.
1.3.3 Các nhân tố về mặt doanh nghiệp
Khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp là tổng hợp sức mạnh từ các nguồn lực
doanh nghiệp hiện có và có thể huy động được đó là nguồn nhân lực, nguồn lực vật
chất, nguồn lực tài chính, tổ chức, kinh nghiệm.
1.3.3.1 Nguồn nhân lực
Nguồn nhân lực là yếu tố quyết định khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp.
Một doanh nghiệp có đội ngũ nhân viên tốt sẽ làm được tất cả những gì họ mong
muốn, đội ngũ này sẽ làm tăng các nguồn lực khác còn thiếu cho doanh nghiệp. Hay
nói cách khác một doanh nghiệp có nguồn nhân lực vững mạnh về chuyên môn,
nghiệp vụ, trình độ tay nghề cao, ý thức kĩ thuật, lòng hăng say lao động... sẽ có thể trở
thành doanh nghiệp đứng đầu dù các yếu tố khác chưa thực sự thuận lợi.
1.3.3.2 Nguồn lực vật chất
Một hệ thống cơ sở vật chất kĩ thuật hiện đại cùng với một công nghệ tiên tiến
phù hợp với qui mô sản xuất của doanh nghiệp chắc chắn sẽ nâng cao năng lực sản
xuất và chất lượng sản phầm cùng với việc giảm giá thành sản phẩm kéo theo sự giảm
giá bán trên thị trường từ đó kéo khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp lên cao và
ngược lại.
Nguồn lực vật chất đó là:
• Tình trạng máy móc công nghệ, khả năng áp dụng công nghệ mới tác động đến
chất lượng, kiểu dáng, hình thức, giá thành sản phẩm.
• Mạng lưới phân phối: phương tiện vận tải, cửa hàng, đại lý...
• Nguồn cung cấp: ảnh hưởng đến chi phí lâu dài và đầu ra trong việc phải đảm
bảo cho sản xuất được liên tục, ổn định.
• Vị trí địa lý: tác động đến chi phí sản xuất, vận tải..
1.3.3.3 Nguồn lực tài chính
Nguồn lực tài chính là yếu tố quan trọng nhất quyết định khả năng sản xuất
cũng như là chỉ tiêu hàng đầu để đánh giá qui mô của doanh nghiệp.
Bất cứ một hoạt động đầu tư, mua sắm trang thiết bị, nguyên liệu hay phân
phối, quảng cáo cho sản phẩm...cũng cần tính toán và quyết định dựa trên tình trạng tài
chính của doanh nghiệp. Một doanh nghiệp có tiềm lực tài chính mạnh mẽ sẽ có khả
năng trang bị máy móc công nghệ hiện đại, đảm bảo chất lượng, hạ giá thành sản
phẩm, tổ chức các hoạt động quảng cáo, khuyến mại mạnh mẽ nâng cao năng lực cạnh
tranh của doanh nghiệp. Ngoài ra, với một nguồn tài chính hùng mạnh, doanh nghiệp
có thể chấp nhận lỗ trong thời gian ngắn nhăm giữ vững và mở rộng thị phần...
Mặt khác, doanh nghiệp có tình trạng tài chính ổn định, vững chắc sẽ dễ dàng
hấp dẫn các nhà đầu tư khác cùng tham gia góp vốn... đồng thời cũng dành được sự tín
24
nhiệm của người tiêu dùng.
Doanh nghiệp nào không đủ khả năng tài chính sẽ bị thôn tính bởi các đối thủ
hùng mạnh hoặc tự rút khỏi thị trường.
25