Tải bản đầy đủ (.docx) (94 trang)

Thực hiện chính sách tôn giáo đối với người Khmer ở tỉnh An Giang

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (331.66 KB, 94 trang )

MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ....................................................................................................................
1
Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH TÔN GIÁO . 9
1.1. Khái quát về tôn giáo ..........................................................................................
9
1.2. Chính sách tôn giáo và thực hiện chính sách tôn giáo ................................... 13
1.3. Chính sách tôn giáo tại Việt Nam hiện nay ..................................................... 20
Tiểu kết chương 1 .....................................................................................................
24
Chương 2: THỰC TRẠNG THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH TÔN GIÁO ĐỐI
VỚI ĐỒNG BÀO NGƯỜI KHMER Ở TỈNH AN GIANG .............................. 25
2.1. Khái quát về đồng bào người Khmer tỉnh An Giang ...................................... 25
2.2. Nội dung thực hiện chính sách tôn giáo đối với đồng bào người Khmer tỉnh
An Giang ...................................................................................................................
31
2.3. Đánh giá việc thực hiện chính sách tôn giáo đối với người Khmer ở tỉnh An
Giang
61

.........................................................................................................................

Tiểu kết chương 2 .....................................................................................................
66
Chương 3: QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG HIỆU QUẢ
THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH TÔN GIÁO ĐỐI VỚI NGƯỜI KHMER Ở
TỈNH AN GIANG ..................................................................................................
67
3.1. Quan điểm cho việc tăng cường hiệu quả thực hiện chính sách tôn giáo đối với
người Khmer ở tỉnh An Giang .......................................................................... 67
3.2. Đề xuất một số giải pháp tăng cường hiệu quả chính sách tôn giáo đối với đồng


bào người Khmer ở tỉnh An Giang ................................................................ 68 Tiểu
kết chương 3 ..................................................................................................... 77
KẾT LUẬN ..............................................................................................................
78
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC


DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT

CHXHCNVN
CT
CSXH
ĐĐKDT
KĐĐKTDT
KHXH
KHXHVN

: Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam
: Chỉ thị
: Chính sách xã hội
: Đại đoàn kết dân tộc
: Khối Đại đoàn kết toàn dân tộc
: Khoa học Xã hội
: Khoa học Xã hội Việt Nam

NQ

: Nghị quyết


PGHH

: Phật giáo Hòa Hảo



: Trung ương

TW

: Trung ương

UBND

: Ủy ban nhân dân

UBMTTQVN

: Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam

UBTVQH

: Ủy ban thường vụ Quốc hội

XHCN

: Xã hội chủ nghĩa


DANH MỤC BẢNG BIỂU

Bảng 2.1. Kết quả lấy ý kiến khảo sát về phân công và phối hợp của các chủ
thể thực hiện chính sách tôn giáo đối với người Khmer trên địa bàn tỉnh An
Giang
33

...............................................................................................................

Bảng 2.2. Kết quả lấy ý kiến khảo sát về công tác chỉ đạo, lãnh đạo thực hiện
chính sách tôn giáo đối với người Khmer trên địa bàn tỉnh An Giang ...........
37 Bảng 2.3. Kết quả lấy ý kiến khảo sát về công tác xây dựng, ban hành văn
bản quản lý thực hiện chính sách tôn giáo đối với người Khmer trên địa bàn
tỉnh An Giang ..................................................................................................
41
Bảng 2.4. Kết quả lấy ý kiến khảo sát về công tác phổ biến, tuyên truyền thực
hiện chính sách tôn giáo đối với người Khmer trên địa bàn tỉnh An Giang ...
45
Bảng 2.5. Kết quả lấy ý kiến khảo sát về công tác duy trì, điều chỉnhthực hiện
chính sách tôn giáo đối với người Khmer trên địa bàn tỉnh An Giang ...........
54
Bảng 2.6. Kết quả lấy ý kiến khảo sát về công tác theo dõi, đôn đốc, kiểm tra
thực hiện chính sách tôn giáo đối với người Khmer trên địa bàn tỉnh An Giang
.........................................................................................................................
58
Bảng 2.7. Kết quả lấy ý kiến khảo sát về công tác đánh giá tổng kết thực hiện
chính sách tôn giáo đối với người Khmer trên địa bàn tỉnh An Giang ...........
60


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài

An Giang là địa phương có đông đồng bào dân tộc Khmer. Hầu hết
đồng bào người Khmer ở đây đều theo đạo Phật giáo Nam Tông. Từ khi đổi
mới (1986) đến nay, đời sống kinh tế, văn hóa, chính trị, xã hội vùng đồng
bào Khmer ở An Giang luôn ổn định và từng bước vươn lên. Để không ngừng
tạo điều kiện ngày càng tốt hơn, giúp cho đồng bào dân tộc thiểu số, vùng
sâu, vùng xa, vùng núi, vùng hải đảo và vùng biên giới có những điều kiện
thuận lợi để phát triển và hội nhập; Đảng và chính quyền tỉnh An Giang đã có
những chủ trương, chính sách trong đó đối với các dân tộc Khmer.
Để nâng cao hiệu quả hơn nữa việc thực hiện chính sách tôn giáo đối
với đồng bào người Khmer theo Phật giáo Nam Tông ở tỉnh An Giang, phát
huy những mặt tích cực, xây dựng niềm tin vào sự nghiệp đổi mới, huy động
được đông đảo đồng bào Khmer theo đạo vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc, qua đó đáp ứng được ước nguyện sống “tốt đời đẹp đạo” của đông
đảo đồng bào Khmer. Hơn nữa, chiến lược “diễn biến hòa bình” của các thế
lực thù địch đã và đang tìm cách khống chế, xóa bỏ chế độ xã hội chủ nghĩa.
Tôn giáo là vấn đề mà các thế lực thù địch luôn lợi dụng để công kích, tuyên
truyền, xuyên tạc lịch sử vùng đất Nam Bộ Việt Nam, để đòi ly khai, tự trị
gây chia rẻ đại đoàn kết dân tộc. Đề tài “Thực hiện chính sách tôn giáo đối
với người Khmer ở tỉnh An Giang” được làm đề tài luận văn tốt nghiệp
nhằm có những hiểu biết đầy đủ, đánh giá khoa học những thành tựu đã đạt
được trong công tác tôn giáo, thực hiện chính sách đối với đồng bào có đạo,
cụ thể đối với cộng đồng Khmer theo Phật giáo Nam Tông ở An Giang, từ đó
có thể có những đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao công tác thực hiện
chính sách tôn giáo đối với đồng bào Khmer ở An Giang.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
1


Đã có nhiều bài báo khoa học, luận văn viết về đề tài này, nhưng ở các
địa phương khác nhau và nhiều góc độ khác nhau.

Công tác quản lý của Nhà nước đối với Phật giáo Nam Tông Khmer ở
An Giang, Ban Tôn giáo An Giang, 2008. Trong đó, trong nghiên cứu của
mình tác giả đã nêu lên tình hình hoạt động của Phật giáo Nam Tông Khmer ở
An Giang, vai trò, vị trí của Phật giáo Nam Tông đối với đời sống tinh thần
của đồng bào người Khmer ở An Giang. Làm rõ những thành quả đạt được
trong công tác quản lý Nhà nước đối với tôn giáo nói chung và việc sinh hoạt
tôn giáo của đồng bào theo Phật giáo Nam Tông Khmer nói riêng, đồng thời
nêu lên những thiếu sót và đề ra phương hướng thực hiện tốt công tác quản lý
của Nhà nước đối với Phật giáo Nam Tông Khmer ở An Giang [12].
Tác giả Nguyễn Thu Thủy (2001) với công trình nghiên cứu khoa học
Quá trình thực hiện chính sách dân tộc của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với
đồng bào Khmer ở đồng bằng sông Cửu Long đã trình bày khái quát một số
chính sách đối với đồng bào người Khmer ở đồng bằng sông Cửu Long trước
1975; cơ sở lý luận và thực tiễn hoạch định chính sách của Đảng về phát triển
kinh tế - xã hội vùng đồng bào Khmer trong thời kỳ 1975-2000 và chính sách
dân tộc của Đảng [67].
Tác giả Trần Thanh Nam (2001) trong tác phẩm nghiên cứu khoa học
của mình: Phát triển đời sống tinh thần của đồng bào dân tộc Khmer Nam Bộ
trong công cuộc đổi mới hiện nay, đã phân tích vai trò của đời sống tinh thần
trong sự phát triển xã hội, các yếu tố thuộc đời sống tinh thần nói chung, đời
sống tín ngưỡng, tôn giáo của đồng bào dân tộc Khmer đồng bằng sông Cửu
Long nói riêng, trong đó có nhiều yếu tố thuộc văn hóa và những yếu tố ảnh
hưởng đến đời sống tín ngưỡng, tôn giáo của người Khmer của đồng bằng
sông Cửu Long [51].
2


Truyền thống đấu tranh cách mạng của đồng bào Khmer Nam Bộ dưới
sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam (1930-1975). Đề tài khoa học do
Ủy ban dân tộc và miền núi, cơ quan đặc trách công tác dân tộc ở Nam Bộ

thực hiện, 2000 -2001, đã trình bày khá chi tiết các cuộc đấu tranh chống áp
bức bóc lột, bất công của đồng bào dân tộc Khmer cũng như sự đoàn kết đấu
tranh của các dân tộc trong vùng nhằm chống áp bức, chống xâm lược bảo vệ
quê hương, bảo vệ Tổ quốc từ trước khi Đảng Cộng sản Việt Nam thành lập
cho đến kết thúc cuộc kháng chiến chống Mỹ, giải phóng miền Nam, thống
nhất đất nước (30/4/1975).
Tác giả Phạm Phương Hoa (2013) với Bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng
và tự do tôn giáo trong pháp luật Việt Nam hiện nay, (Luận văn Thạc sĩ luật
học, Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội), cung cấp những tri thức khoa học
cơ bản về quyền của người có tín ngưỡng, tôn giáo; pháp luật về quyền tự do
tín ngưỡng, tôn giáo trong pháp luật quốc tế; giúp người đọc nhận thức rõ hơn
quan điểm, chủ trương, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước Việt
Nam. Luận văn nêu lên thực trạng và những bất cập trong việc bảo đảm thực
hiện quyền của người có tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam, từ đó nêu ra một số
giải pháp cho việc bảo đảm thực hiện quyền của người có tín ngưỡng, có tôn
giáo ở Việt Nam [41].
Tác giả Vũ Hoàng Hải (2016), Thực hiện chính sách tôn giáo từ thực
tiễn tỉnh Phú Thọ (luận văn Thạc sĩ chính sách công, Học viện KHXHVN),
căn cứ vào cơ sở lý luận, thực tiễn của việc ban hành và thực hiện chính sách
tôn giáo được nghiên cứu, tìm hiểu và làm rõ những thành tựu cũng như
những hạn chế trong công tác thực hiện chính sách tôn giáo ở tỉnh Phú Thọ
[34].

3


Ngoài ra còn nhiều bài viết đã đề cập đến quan điểm, đường lối của
Đảng và Nhà nước ta, nhất là trong thời kỳ đổi mới, trong đó là các bài viết:
Tôn trọng tự do tín ngưỡng, tự do tôn giáo – Chính sách nhất quán của Đảng
và Nhà nước của Đặng Tài Tính (Công tác tôn giáo, số 1/2005); Trở lại những

quan điểm đổi mới về tôn giáo của Nghị quyết 24 của Nguyễn Thanh Xuân
(Công tác tôn giáo, số 2/2005); Quá trình nhận thức của Đảng về vấn đề tôn
giáo, công tác tôn giáo và chính sách tôn giáo qua cương lĩnh, văn kiện, nghị
quyết từ đổi mới đến nay (Nghiên cứu tôn giáo, số
1/2011), Luận văn thạc sĩ – Nguyễn Thị Diệu Thúy – Mã số 603810 về Quyền
tự do tín ngưỡng, tự do tôn giáo của công dân Việt Nam – Những vấn đề lý
luận và thực tiễn; đặc biệt là cuốn sách Tôn giáo và chính sách tôn giáo ở Việt
Nam, của Ban Tôn giáo Chính phủ, đã giúp có cái nhìn toàn diện hơn về tình
hình tôn giáo; hiểu rõ quan điểm nhận thức tư duy lý luận mới của Đảng ta về
vấn đề tôn giáo, tôn trọng tự do tín ngưỡng, tự do tôn giáo trong thời kỳ hiện
nay.
Các công trình nghiên cứu nêu trên từ nhiều góc độ nghiên cứu khoa
học khác nhau đã đề cập đến hàng loạt vấn đề liên quan đến tôn giáo, tín
ngưỡng của đồng bào người Khmer ở tỉnh An Giang nói riêng và đồng bằng
sông Cửu Long nói chung; liên quan đến củng cố khối đại đoàn kết toàn dân
tộc. Tuy nhiên vấn đề thực hiện chính tôn giáo cụ thể đối với người Khmer ở
An Giang vẫn còn bỏ ngõ cần được nghiên cứu, tìm hiểu.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Luận văn làm rõ chủ trương, chính sách, quan điểm của Đảng, Nhà
nước ta về chính sách tôn giáo, xây dựng hệ thống lý luận về thực hiện chính
sách tôn giáo, phân tích và làm rõ việc thực hiện chính sách tôn giáo đối với
4


ngời Khmer ở tỉnh An Giang. Đồng thời, tác giả dựa trên những đánh giá
khách quan, khoa học trong nghiên cứu đó để có thể đề xuất những giải pháp,
kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả hơn nữa việc thực hiện chính sách tôn giáo
và nâng cao công tác vận động đồng bào người Khmer thực hiện tốt chủ
trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước góp phần ổn định đời

sống kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội đối với đồng bào Khmer trên địa bàn
tỉnh An Giang.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu:
Để thực hiện được mục đích nghiên cứu trên, luận văn có những nhiệm
vụ chủ yếu sau:
- Hệ thống hoá và làm rõ những vấn đề lý luận về thực hiện chính sách tôn
giáo;
- Phân tích, đánh giá việc thực hiện chính sách tôn giáo đối với người Khmer ở
tỉnh An Giang dưới góc độ khoa học chính sách công.
- Đề xuất các giải pháp tăng cường thực hiện chính sách tôn giáo đối với người
Khmer ở tỉnh An Giang.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là các chính sách tôn giáo đối với
người Khmer và thực hiện chính sách tôn giáo đối với người Khmer cụ thể ở
An Giang.
4.2. Phạm vi nghiên cứu đề tài

5


Đề tài tập trung nghiên cứu các chính sách tôn giáo đối với người
Khmer và việc thực hiện chính sách tôn giáo đối với người Khmer tại tỉnh An
Giang giai đoạn từ đổi mới đến nay (1986-2018).
5. Cơ sở luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở luận
Luận văn dựa trên phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử
của chủ nghĩa Mác - Lênin, đường lối của Đảng và pháp luật của Nhà nước về
tôn giáo, về hoạt động tôn giáo cụ thể đối với đồng bào Khmer ở
An Giang, các cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của khoa học chính

sách công.
Ngoài ra những cơ sở lý luận thuộc chuyên ngành dân tộc học, nhân
học và tôn giáo học cũng sẽ được vận dụng.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn vận dụng các phương pháp nghiên cứu sau:
Phương pháp thống kê, phân tích số liệu, tổng hợp số liệu, giải thích
các thuật ngữ liên quan được sử dụng phổ biến trong các nghiên cứu.
Phương pháp quan sát (tiếp cận đối tượng nghiên cứu, không gian
nghiên cứu để làm rõ các vấn đề nghiên cứu từ thực tiễn) kết hợp phương
pháp điều tra bằng bảng hỏi và phỏng vấn để thu thập các thông tin về thực
tiễn thực hiện chính sách tôn giáo đối với người Khmer ở tỉnh An Giang.
Thực hiện đề tài là một tổng thể vận dụng một số kiểu nghiên cứu khác
nhau với các tiếp cận dân tộc học, nhân học, tôn giáo, xã hội học và luật học.
6


Các nghiên cứu tập trung vào đánh giá chính sách và tác động xã hội của
chính sách, nghiên cứu sự đáp ứng và thích ứng của nhóm dân cư thuộc cộng
đồng tôn giáo đối với chính sách và thực tiễn cộng đồng dân tộc, tôn giáo.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
6.1. Ý nghĩa lý luận
Luận văn hệ thống hóa lý thuyết về thực hiện chính sách tôn giáo đối
với đồng bào người Khmer, làm rõ vị trí, vai trò, đặc điểm thực hiện chính
sách tôn giáo đối với người Khmer; góp phần làm phong phú thêm sự hiểu
biết lý luận về thực hiện chính sách tôn giáo.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Đề tài nghiên cứu luận văn đã chỉ ra một số hạn chế trong việc thực thi
chính sách tôn giáo đối với đồng bào dân tộc thiểu số nói chung và đồng bào
dân tộc Khmer ở An Giang nói riêng như: xây dựng kế hoạch triển khai thực
hiện chính sách tôn giáo đối với người Khmer; tuyên truyền chính sách; phân

công phối hợp thực hiện chính sách tôn giáo đối với người Khmer; đánh giá,
tổng kết rút kinh nghiệm từ đó cung cấp những vấn đề có giá trị tham khảo
cho việc nâng cao hiệu quả thực hiện chính sách tôn giáo đối với người
Khmer ở tỉnh An Giang. Luận văn cung cấp thông tin khách quan cho các cơ
quan, ban, ngành về công tác dân tộc trong quá trình hoạch định và thực hiện
chính sách tôn giáo đối với người Khmer ở tỉnh An Giang.
7. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục, luận văn được bố cục theo 03
chương sau:

7


Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn thực hiện chính sách tôn giáo ở
người Khmer tỉnh An Giang.
Chương 2: Việc thực hiện chính sách đối với người Khmer ở tỉnh An
Giang.
Chương 3: Quan điểm và giải pháp tăng cường hiệu quả thực hiện
chính sách tôn giáo đối với người Khmer ở tỉnh An Giang.

8


Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH TÔN GIÁO ĐỐI
VỚI ĐỒNG BÀO NGƯỜI KHMER
1.1. Khái quát về tôn giáo
1.1.1. Một số hiểu biết liên quan tôn giáo
Các nhà thần học cho rằng “Tôn giáo là mối liên hệ giữa thần thánh và
con người” [17, tr.12]. Khái niệm mang dấu hiệu đặc trưng của tôn giáo: “Tôn

giáo là niềm tin vào cái siêu nhiên” [17, tr.12]. Một số nhà tâm lý học lại cho
rằng “Tôn giáo là sự sáng tạo của mỗi cá nhân trong nỗi cô đơn của mình, tôn
giáo là sự cô đơn, nếu anh chưa từng cô đơn thì anh chưa bao giờ có tôn giáo”
[17, tr.13].
Theo Khoản 5, Điều 2, Luật Tín ngưỡng, tôn giáo năm 2016 thì: Tôn
giáo là niềm tin của con người tồn tại với hệ thống quan niệm và hoạt động
bao gồm đối tượng tôn thờ, giáo lý, giáo luật, lễ nghi và tổ chức [53].
Với sự thiếu hụt điểm dựa tinh thần, con người thường có xu hướng tìm
đến thế lực siêu nhiên, tìm đến tôn giáo. Tùy nhu cầu và nhận thức của từng
người mà tôn giáo sẽ phát huy những đặc tính vốn có của mình. Con người
khi theo một tôn giáo nào đó, có thể bắt nguồn từ ý thức của bản thân nhưng
cũng có thể là do vô thức, chịu ảnh hưởng bởi những người xung quanh. Khi
con người đủ kiến thức để nhận định về thế giới xung quanh mình, việc
chuyển đổi tôn giáo có thể xảy ra nếu nhận thấy một tôn giáo khác phù hợp
với cách sống, với niềm tin của mình hơn.
Về chính trị, ở những nước có quốc giáo, chính phủ thường đứng sau vì
quyền lợi và do môi trường, người dân nước ấy thuận lợi trong các hoạt động
9


tôn giáo của mình. Chính quyền của quốc giáo cũng không hoặc ít tạo điều
kiện nếu không muốn nói là ngăn cấm việc truyền những tôn giáo lạ vào. Trừ
những tôn giáo nảy nở thông qua quan hệ hôn nhân thì các tôn giáo khác khó
du nhập và phát triển được.
Về kinh tế, ở những nước không có quốc giáo, người dân tự do lựa
chọn tôn giáo của mình, thì đây sẽ là những mảnh đất để các tôn giáo cạnh
tranh lẫn nhau. Mỗi tôn giáo đều cố gắng phát huy tối đa thế mạnh của mình
tại quốc gia hay vùng đất. Tùy từng đối tượng tín đồ mà mỗi tôn giáo có cách
tiếp cận cũng như thu hút riêng. Trong đó, kinh tế là một yếu tố quan trọng để
tôn giáo có thể xâm nhập vào đời sống của tín đồ. Tôn giáo nào có sức mạnh

tài chính hơn, biết sử dụng nguồn tiền một cách hợp lý để giúp đỡ tín đồ, thì
dễ dàng lấy được lòng tin của họ. Một mặt tôn giáo sẽ nâng cao hiệu lực quản
lý, làm xã hội ổn định hơn; nhưng ngược lại, tôn giáo cũng có thể phá vỡ tính
ổn định xã hội, phá vỡ trật tự được định ra từ trước, gây ra những bất ổn xã
hội. Tôn giáo vừa có lợi và vừa có hại đối với quản lý xã hội.
1.1.2. Tôn giáo với ổn định chính trị và phát triển cộng đồng hiện nay
Châu Âu vào thế kỷ XIX và đầu thế kỷ thứ XX đã chứng kiến sự xuất
hiện của nhiều nhóm giáo phái tôn giáo mới có nguồn gốc khác nhau từ Kitô
giáo, các tôn giáo phương Đông do người nhập cư mang đến, số nhóm tôn
giáo mới khác lại có xuất xứ từ Mỹ… Hầu hết các quốc gia Châu Âu đều xuất
hiện một vài phong trào tôn giáo mới ngay trong đời sống tôn giáo của quốc
gia mình. Theo tổ chức INFORM có khoảng 3000 tổ chức tôn giáo mới đang
hiện diện ở Châu Âu với số lượng tín đồ khiêm tốn, rất ít giáo phái có số
lượng tới 1000 thành viên. Phản ứng của xã hội Châu Âu đối với tôn giáo mới
là thái độ nghi ngờ và thù địch [26].

10


Theo Sueki Fumhiko, ở Nhật Bản, các tôn giáo mới được hình thành
vào cuối thời Mạc Phủ - Tokugawa mà: “ngày nay người ta gọi tổng thể
những tôn giáo này là Tân tôn giáo (Shin-Shukyo) đối lập với những tôn giáo
có từ trước” [57, tr.255] như các giáo phái Reiyukai (Linh hữu hội),
Gedatsukai (Giải thoát hội), Thiên lý giáo (Tenri-Kyo), Hắc tú giáo
(Kutozumi-Kyo), Kim Quang giáo (Konko-Kyo). Tuy nhiên, sự chuyển đổi
tôn giáo cũ (trước đó) sang tôn giáo mới ở Nhật Bản chỉ thật sự bùng nổ từ
sau 1945, các học giả Nhật bản thường gọi là: “Thời khắc bùng nổ của các vị
thần” [26]. Việc chuyển đổi tôn giáo ở Nhật Bản, có thể hiểu được nguyên
nhân kinh tế, chính trị, xã hội và văn hóa cho sự bùng nổ tôn giáo ở quốc gia
này.

Trung Quốc là quốc gia đa tôn giáo và dân tộc, trên phương diện tôn
giáo có nhiều điểm tương đồng với lịch sử, truyền thống tôn giáo Việt Nam.
Các nhà nghiên cứu Trung Quốc thường gọi là “Tà giáo” hay tôn giáo “hỗn
tạp” đối với các tôn giáo mới hay sự chuyển đổi từ tôn giáo cũ sang niềm tin
tôn giáo khác. Các hình thức đó xảy ra vào cuối thời MinhThanh như: các hệ phái từ “Bạch liên xã”, “Cầu nguyện giáo”, “Hoàng liên
giáo”, “Hoàng thiên giáo”, “Hồng nhật giáo” cho đến tận ngày nay như:
“Nhất Quan đạo”, “Pháp luân công”… Chu Việt Lợi cho rằng Tà giáo hoạt
động mê tín tràn lan, hiện tượng khoa học giả, phù thủy, thuật lưu hành cũng
thường giương cao ngọn cờ tôn giáo, gây khó khăn nghiêm trọng cho sự phát
triển của các tôn giáo hợp pháp” [48, tr.71], vì thế quan điểm của
Trung Quốc là “kiểm soát, điều tiết tín ngưỡng, tôn giáo” và “cải cách tôn
giáo để thích ứng trong xã hội Trung Quốc” [48, tr.115].
Hoa Kỳ là nơi có nhiều chủng tộc, dân tộc khác nhau di cư tới mang
theo văn hóa, tôn giáo khác biệt đến. Ở đó, qua nhiều thế hệ hội nhập vào đời
11


sống xã hội Hoa Kỳ, đồng thời ra sức bảo lưu, gìn giữ truyền thống văn hóa,
tôn giáo của mình, hình thành ở Hoa Kỳ một bức tranh hết sức phức tạp giữa
quan điểm, thái độ, ứng xử đối với sự xuất hiện tôn giáo khác. Chủ lưu áp đảo
lớn nhất ở Hoa Kỳ vẫn là Kitô giáo (bao hàm Công giáo, Chính thống giáo và
Tin lành) [15, tr.23], là cơ sở thực tiễn cho quan điểm, thái độ và quan hệ ứng
xử của xã hội Hoa Kỳ với các tôn giáo khác.
Ở góc độ khác, ở Nam Bộ và cụ thể ở An Giang đang nổi lên một số
vấn đề về sự đa dạng dân tộc, văn hóa, tín ngưỡng tôn giáo đã làm nên bản
sắc phong phú, là ưu thế cho phát triển bền vững của địa phương. Bên cạnh
đó, trong sự phát triển về kinh tế, xã hội thì Nam Bộ và cả An Giang còn tiềm
ẩn những động lực cho các kiểu loại hành động tập thể, phong trào xã hội
khác nhau và các hiện tượng tín ngưỡng, tôn giáo mới. Cơn lốc kiếm tiền và
sự may rủi của thời buổi kinh tế thị trường đã khiến nhiều người dân tộc thiểu

số đi tìm sự độ trì của lực lượng “siêu nhiên” thông qua sự cầu xin và cúng
dường. Mặt khác, cùng với “diễn biến hòa bình” các tôn giáo gia tăng ảnh
hưởng, các giáo phái nước ngoài thâm nhập ngày càng nhiều vào các tầng lớp
dân cư các tộc người thiểu số ở đây cụ thể đối với người Khmer (An Giang),
đã và đang tác động mạnh mẽ, chứa đựng nhiều nguy cơ gây mất ổn định xã
hội và an ninh quốc gia.
Từ đó, những tác động đến sự phát triển ổn định tôn giáo trong đời
sống xã hội các dân tộc thiểu số tại chỗ ở Nam Bộ còn thể hiện khá rõ nét
trong các chính sách thực thi về tôn giáo trong thời gian gần đây. Hiện nay,
việc đánh giá về công tác thực hiện chính sách dân tộc, chính sách tôn giáo
trong cộng đồng người thiểu số phần nào còn khiên cưỡng và chưa phù hợp
với thực tế khách quan của phát triển vùng. Những biến đổi kinh tế mạnh mẽ
ở Nam Bộ đang dẫn đến những biến đổi về môi trường, xã hội, văn hóa đặc
biệt trong tín ngưỡng, tôn giáo một cách nhanh chóng, kích hoạt những xung
12


lực xã hội tiềm tàng, tạo nên cả cơ hội lẫn thách thức sự ổn định và khối đoàn
kết dân tộc, đoàn kết tôn giáo.
Vì thế, không thể đơn giản hóa các vấn đề tôn giáo bằng cách quy vào
khuôn khổ pháp luật. Việc nghiên cứu, hình thành cơ sở lý thuyết và chính
sách cho tín ngưỡng tôn giáo thật sự khoa học phải xuất phát từ những
nguyên nhân tác động cả bên trong lẫn bên ngoài làm phát sinh hiện tượng tín
ngưỡng tôn giáo là vấn đề quan tâm của nhiều ngành khoa học nhằm có
những đánh giá khách quan để tìm ra những giải pháp phù hợp cho sự phát
triển ổn định, bền vững của đồng bào thiểu số tại chỗ ở Nam Bộ trong tương
lai cụ thể đối với cộng đồng dân tộc Khmer ở An Giang.
1.2. Chính sách tôn giáo và thực hiện chính sách tôn giáo
1.2.1. Khái niệm chính sách tôn giáo và thực hiện chính sách tôn giáo
Chính sách tôn giáo là những chính sách xã hội về tôn giáo nhằm quy

định những chuẩn mực, những quy chế về tôn giáo để phù hợp với thực trạng
xã hội hiện tại của một quốc gia. Chính sách tôn giáo nhằm giúp cân bằng xã
hội, nhằm củng cố và phát triển những sự gắn kết xã hội để cho các bộ phận
tôn giáo hòa hợp với nhau [42, tr.21].
Thực hiện chính sách tôn giáo là toàn bộ quá trình chuyển hóa ý chí của
chủ thể chính sách thành hiện thực, là bước đặc biệt quan trọng trong chu
trình chính sách: hiện thực hóa chính sách, đưa chính sách vào cuộc sống.
Chất lượng, hiệu quả thực hiện chính sách phụ thuộc nhiều vào năng lực của
đội ngũ cán bộ, công chức trong thực thi chính sách [35].
1.2.2. Chủ thể thực hiện chính sách tôn giáo

13


Từ quan điểm đổi mới của Đảng lần lượt các chính sách pháp luật về
tôn giáo được ban hành như: Pháp lệnh tín ngưỡng tôn giáo, Nghị định số
22/2005/NĐ-CP, Nghị định 92/2012/NĐ-CP, Luật Tín ngưỡng, tôn giáo năm
2016… Các chính sách này đã cụ thể hóa quan điểm của Đảng trong lĩnh vực
tôn giáo.
Các cơ quan làm nhiệm vụ tham mưu, kiến nghị với Nhà nước về thể
chế chính sách tôn giáo thành pháp luật, văn bản dưới luật, tạo hành lang pháp
lý để các tổ chức tôn giáo hoạt động chính là Ban Tôn giáo Chính phủ thuộc
Bộ Nội vụ. Thẩm quyền của Ban Tôn giáo Chính phủ đối với việc quản lý
hoạt động tôn giáo được quy định cụ thể tại Nghị định số 162/2017/NĐ-CP
ngày 30/12/2017 của Chính phủ về việc quy định chi tiết một số điều và biện
pháp thi hành Luật tín ngưỡng, tôn giáo.
Ngoài các chủ thể hoạch định và trực tiếp ban hành chính sách và các
chủ thể trực tiếp tư vấn đề hoạch định, xây dựng chính sách cho Đảng, Nhà
nước còn có các chủ thể trực tiếp và gián tiếp tham gia triển khai, tổ chức,
thực thi chính sách tôn giáo cụ thể có các Bộ, ngành như: Bộ Công An, Bộ

Ngoại giao, Bộ Quốc phòng, Bộ Thông tin và Truyền thông, Bộ Xây dựng,
Bộ Tài nguyên môi trường, Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc
Trung ương. Tại Nghị định số 162/2017/NĐ-CP ngày 30/12/2017 quy định
nhiệm vụ các cơ quan là:
Bộ Công an là đơn vị được Nhà nước giao trọng trách quan trọng và
theo nhiệm vụ của mình linh hoạt phối hợp trong công tác đảm bảo về mặt an
ninh tôn giáo, đảm bảo cho các hoạt động tôn giáo được thực hiện theo đúng
các quy định của pháp luật, vừa đảm bảo các hoạt động đó không ảnh hưởng
đến an ninh quốc gia, vừa đảm bảo an toàn, bình thường cho các tổ chức tôn
14


giáo, đồng thời khẳng định nhất quán chính sách tự do tín ngưỡng, tôn giáo
của Đảng, Nhà nước ta.
Ủy ban Mặt trận Tổ Quốc Việt Nam các cấp là đại diện của khối Đại
đoàn kết toàn dân tộc, Mặt trận Tổ quốc các cấp dựa vào chức năng nhiệm vụ
của mình phối hợp với các Bộ, Ban, Ngành và UBND các tỉnh tuyên truyền
phổ biến các chủ trương chính sách Tôn giáo, cũng như giám sát việc thực
hiện chính sách tôn giáo từ Trung ương đến địa phương.
1.2.3. Các bước thực hiện chính sách tôn giáo
* Phổ biến thực hiện chính sách
Tuyên truyền phổ biến chính sách tôn giáo là công tác rất quan trọng là
một trong những yếu tố quyết định sự thành công của việc thực hiện chính
sách. Để quá trình thực thi, thực hiện chính sách tôn giáo diễn ra hiệu quả cần
thường xuyên tổ chức các lớp tuyên truyền chính sách tôn giáo cho các cơ
quan thông tin đại chúng, cán bộ làm công tác tuyên truyền; xây dựng các văn
bản hướng dẫn phổ biến cụ thể việc thực hiện chính sách tôn giáo gửi cho các
bộ, ban ngành Trung ương, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể, UBND các
tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương. Ngoài ra cũng có thể gửi đăng tải trên
các báo tạp chí, các trang thông tin điện tử để các chức sắc, chức việc và đồng

bào theo đạo biết để thực hiện.
* Duy trì và điều chỉnh chính sách Tôn giáo
Trong quá trình thực hiện chính sách nếu gặp khó khăn do môi trường
thực tế thay đổi, chính sách tôn giáo xuất hiện những bất cập, hạn chế, không
còn phù hợp với thực tiễn thì cán bộ trực tiếp làm công tác tôn giáo cần phải
chủ động tham mưu, đề xuất với các cơ quan ban hành chính sách tôn giáo
15


điều chỉnh chính sách và áp dụng các giải pháp, biện pháp thực hiện chính
sách tôn giáo phù hợp với điều kiện thực tế phát triển của đất nước, nhưng
không làm thay đổi mục tiêu chung.
* Theo dõi, kiểm tra, đôn đốc việc thực hiện chính sách
Theo dõi, đôn đốc, kiểm tra là một nhiệm vụ, là một khâu quan trọng
trong quá trình thực hiện chính sách tôn giáo. Theo dõi, đôn đốc, kiểm tra
giúp kịp thời bổ sung, điều chỉnh, hoàn thiện chính sách tôn giáo, đồng thời
chấn chỉnh công tác tổ chức thực hiện chính sách, góp phần nâng cao hiệu
lực, hiệu quả thực hiện mục tiêu của chính sách tôn giáo. Việc theo dõi, đôn
đốc, kiểm tra thực hiện chính sách tôn giáo đối với đồng bào dân tộc thiểu số
nói riêng và các chính sách dân tộc nói chung là hết sức cần thiết đối với quá
trình thực hiện chính sách tôn giáo.
* Đánh giá, tổng kết, rút kinh nghiệm
Việc đánh giá, tổng kết, rút kinh nghiệm là khâu, là nhiệm vụ quan
trọng không thể thiếu trong quá trình thực hiện chính sách tôn giáo. Để từ đó
đánh giá, tổng kết, rút kinh nghiệm chính xác kết quả thực hiện chính sách tôn
giáo. Để tổng kết và đánh giá chính xác ngoài các tiêu chí còn phải căn cứ vào
các nguyên tắc đã được xác định, thống nhất giữa các cơ quan tham gia phối
hợp thực hiện chính sách tôn giáo.
1.2.4. Các yếu tố ảnh hưởng đến thực hiện chính sách tôn giáo
1.2.4.1. Các yếu tố khách quan

Thứ nhất, âm mưu lợi dụng vấn đề tôn giáo chống phá cách mạng Việt
Nam của các thế lực thù địch.
16


Trong lịch sử nước ta, vấn đề tôn giáo đã từng bị chủ nghĩa đế quốc tìm
cách triệt để lợi dụng để phục vụ cho âm mưu xâm lược và chống phá cách
mạng Việt Nam. Hiện nay, trong âm mưu “Diễn biến hòa bình” chống phá sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, các thế lực phản động và thù địch vẫn
triệt để lợi dụng tôn giáo như con bài hết sức lợi hại để thực hiện mục đích
đen tối của chúng. Trong suốt chiều dài lịch sử dựng nước, giữ nước, cộng
đồng các tôn giáo ở Việt Nam luôn đồng hành cùng dân tộc, hòa chung niềm
vui và nỗi đau của dân tộc trong những thời khắc lịch sử, góp phần phát triển
và làm rạng rỡ nền văn hóa Việt Nam. Tôn trọng và phát huy những giá trị
nhân văn của tôn giáo, Luật Tín ngưỡng, tôn giáo đã được Quốc hội thông
qua và có hiệu lực từ ngày 1-1-2018. Đây là cơ sở để các tôn giáo ở nước ta
hoạt động trong khuôn khổ pháp luật. Thế nhưng, trong những năm gần đây,
các thế lực phản động và thù địch đang lợi dụng vấn đề tôn giáo để chống phá
công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc của Đảng, Nhà nước ta.
Thứ hai, thủ đoạn lợi dụng vấn đề tôn giáo chống phá cách mạng Việt
Nam của các thế lực thù địch.
Trong tiến trình cách mạng, dưới sự lãnh đạo của Đảng, các tôn giáo đã
đóng góp xứng đáng vào thắng lợi của hai cuộc kháng chiến và tiếp tục phát
huy trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Nhiều chức sắc tôn giáo,
tăng ni, phật tử đã làm tốt việc đạo, việc đời, hướng dẫn tín đồ chấp hành
đúng chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước,
sống "tốt đời, đẹp đạo", "kính Chúa yêu nước" được ghi nhận và tôn vinh.
Thế nhưng hiện nay, các thế lực phản động đang lợi dụng vấn đề tự do
tín ngưỡng, tôn giáo để chống phá công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc của
Đảng, Nhà nước ta. Chúng ra sức xuyên tạc sự thật về tình hình tín ngưỡng,

tôn giáo Việt Nam, xuyên tạc chính sách tôn giáo của Đảng và Nhà Nước ta,
17


vu cáo chính quyền đàn áp tôn giáo… Nhằm mục đích chia rẽ sự đoàn kết
lương giáo, chia rẽ các tôn giáo với nhau, tách các tôn giáo ra khỏi khối đại
đoàn kết toàn dân. Chúng triệt để lợi dụng các hiện tượng "dâng sao, giải
hạn", "gọi hồn", "thỉnh vong báo oán" … đã và đang sảy ra tại một số điểm
thờ tự như chùa Phúc Khánh, Hà Nội, chùa Ba Vàng, Quảng Ninh để thổi
phồng, bóp méo, xuyên tạc rồi vu khống cho rằng các cấp chính ở các địa
phương quyền bao che. Từ đó, trực tiếp chĩa mũi nhọn sang công kích chính
quyền.
Mặt khác, chúng thường lợi dụng sinh hoạt tín ngưỡng, tôn giáo của bộ
phận nhân dân để khống chế, kích động quần chúng, tuyên truyền chống phá
chế độ. Lợi dụng thần quyền và hệ thống tổ chức tôn giáo hoặc tổ chức mang
danh nghĩa tôn giáo để tập hợp lực lượng, kích động, khống chế quần chúng,
phá rối trật tự an ninh, gây bạo loạn. Lôi kéo một số chức sắc, cốt cán trong
các tổ chức tôn giáo rồi móc nối, cấu kết giữa những phần tử phản động trong
nước với bọn phản động bên ngoài để kích động, gây rối tình hình an ninh
chính trị của đất nước. Lợi dụng những sơ hở thiếu sót của chính quyền địa
phương trong giải quyết, xử lý các vụ việc liên quan đến tín ngưỡng, tôn
giáo... để xuyên tạc, vu cáo, chống phá Đảng, Nhà nước trên lĩnh vực dân chủ
và nhân quyền.
1.2.4.2. Các yếu tố chủ quan
Một, quá trình xây dựng chính sách tôn giáo.
Trước tình hình tôn giáo ở Việt Nam hiện nay, với chính sách tự do tín
ngưỡng, tôn giáo đúng đắn và nhất quán của Đảng và Nhà nước Việt Nam,
đông đảo chức sắc, tín đồ các tôn giáo đã phát huy truyền thống yêu nước,
gắn bó, đồng hành cùng dân tộc, đoàn kết đồng bào tôn giáo với đồng bào
18



không theo tôn giáo, hăng hái tham gia các chương trình phát triển kinh tế xã hội, tham gia xây dựng và củng cố quốc phòng, đảm bảo an ninh trật tự,
góp phần làm nên những thành tựu to lớn trong công cuộc đổi mới quê
hương, đất nước. Nhà nước Việt Nam tạo điều kiện cho các tổ chức tôn giáo
được in ấn kinh sách, sửa sang, làm mới cơ sở thờ tự, tổ chức sinh hoạt bình
thường. Hoạt động xã hội, nhân đạo, từ thiện của các tôn giáo ngày càng được
mở rộng. Các tổ chức giáo hội từng bước được củng cố; quan hệ của tôn giáo
với Nhà nước ngày càng được hoàn thiện.
Nhìn chung, đời sống vật chất, tinh thần của đồng bào tôn giáo những
năm qua được nâng lên, đa số chức sắc, chức việc, tín đồ phấn khởi, tin tưởng
trước những thành tựu đổi mới của đất nước và chủ trương của Đảng, chính
sách, pháp luật của Nhà nước Việt Nam về tín ngưỡng, tôn giáo; các tôn giáo
luôn đồng hành cùng dân tộc, hành đạo theo pháp luật, tích cực tham gia phát
triển kinh tế, xã hội, xóa đói giảm nghèo, làm từ thiện, xây dựng đời sống văn
hóa,… góp phần củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc, cùng nhau xây dựng
và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Hai, quá trình thực hiện chính sách tôn giáo.
Với vai trò là một thành tố cấu thành của văn hóa, tôn giáo đã góp phần
lưu giữ, bồi đắp và làm phong phú những giá trị truyền thống văn hóa, mang
giá trị nhân văn, hướng thiện có ảnh hưởng tích cực trong đời sống xã hội,
thông qua giáo lý khuyên răn con người sống hướng thiện, vị tha, bác ái...
Những giới điều trong giáo lý các tôn giáo mang giá trị đạo đức và nhân văn
sâu sắc, góp phần điều chỉnh hành vi ứng xử của con người. Nhiều khu dân cư
có đông đồng bào theo tôn giáo trở thành điểm sáng về phòng chống tội
phạm, phòng chống ma túy và các tệ nạn xã hội khác, giữ gìn tốt an ninh trật
tự, an toàn xã hội. Tín đồ, chức sắc tích cực tham gia phát triển kinh tế xã hội,
19



góp phần vào công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, nhất là trong thời kỳ
đổi mới của đất nước. Dù mỗi tôn giáo đều có đường hướng và phương châm
hành đạo riêng nhưng đều chung một định hướng là sống “Tốt đời, đẹp đạo”
gắn bó đồng hành với dân tộc, với đất nước.
Các tôn giáo tích cực tham gia xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, cùng chính
quyền các cấp xây dựng đời sống văn hoá ở cơ sở, xây dựng nông thôn mới,
phát triển kinh tế xã hội; đặc biệt là cùng chung tay với nhà nước cứu trợ
thiên tai, chăm lo giúp đỡ người có hoàn cảnh khó khăn, giúp đỡ tiếp cận các
dịch vụ y tế, giáo dục, dạy nghề, văn hóa,...
Nội dung cốt lõi của công tác tôn giáo là công tác vận động quần
chúng. Mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh
là điểm tương đồng để gắn bó đồng bào các tôn giáo với sự nghiệp chung.
Mọi công dân không phân biệt tín ngưỡng, tôn giáo đều có quyền và nghĩa vụ
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Công tác vận động quần chúng các tôn giáo phải
động viên đồng bào nêu cao tinh thần yêu nước, ý thức bảo vệ độc lập và
thống nhất Tổ quốc. Đồng thời, thông qua việc thực hiện tốt các chính sách
kinh tế - xã hội, an ninh quốc phòng, bảo đảm lợi ích và tinh thần của nhân
dân nói chung, trong đó có đồng bào các tôn giáo.
1.3. Chính sách tôn giáo tại Việt Nam hiện nay
Mọi người Việt Nam đều: “có quyền tự do tín ngưỡng, theo hoặc không
theo một tôn giáo nào” [54, tr.593]. Các nhà tu hành được tự do giảng đạo tại
các cơ sở thờ tự. Người cho rằng: “việc cúng bái tổ tiên hoàn toàn là một hiện
tượng xã hội” [44, tr.479]. Người luôn giáo dục cán bộ, đảng viên tôn trọng
phong tục tập quán, tín ngưỡng của mọi người. Do vậy, người Việt Nam dù là
dân tộc đa số hay thiểu số, theo tín ngưỡng này hay tôn giáo khác, ở trong
nước hay ở nước ngoài vẫn vọngvề quê hương xứ sở, nơi có mồ mà tổ tiên, có
20


những anh hùng tiên liệt đã từng hy sinh vì nước, vì dân để giữ gìn cội nguồn

của mình.
Nhìn chung, đời sống vật chất, tinh thần của đồng bào tôn giáo những
năm qua được nâng lên, đa số chức sắc, chức việc, tín đồ phấn khởi, tin tưởng
trước những thành tựu đổi mới của đất nước và chủ trương của Đảng, chính
sách, pháp luật của Nhà nước Việt Nam về tín ngưỡng, tôn giáo; các tôn giáo
luôn đồng hành cùng dân tộc, hành đạo theo pháp luật, tích cực tham gia phát
triển kinh tế, xã hội, xóa đói giảm nghèo, làm từ thiện, xây dựng đời sống văn
hóa,… góp phần củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc, cùng nhau xây dựng
và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Thực hiện công cuộc đổi mới đất nước, Đảng và Nhà nước Việt Nam đã
có nhiều chủ trương, chính sách về tôn giáo và công tác tôn giáo, như Nghị
quyết số 24 của Bộ Chính trị (khóa VI); đặc biệt sau khi có Nghị quyết
25/NQ-TW ngày 12/3/2003 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa IX)
về “công tác tôn giáo”, các tỉnh, thành phố đều xây dựng chương trình hành
động; nhiều tỉnh, thành phố có Nghị quyết chuyên đề về công tác tôn giáo,
thành lập Ban chỉ đạo công tác tôn giáo để chỉ đạo thống nhất trong hệ thống
chính trị thực hiện công tác tôn giáo.
Nhiều tỉnh, thành đã tích cực giải quyết việc lập hồ sơ, xét cấp giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất cho các tôn giáo; tạo điều kiện thuận lợi để các
tôn giáo sinh hoạt bình thường, đúng theo tinh thần Nghị quyết hội nghị Ban
Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 7 (khóa IX) về Công tác tôn giáo đã nêu:
Tín ngưỡng, tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân, đã, đang
và sẽ tồn tại cùng dân tộc trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt
Nam.

21


Việc in ấn, xuất bản các loại kinh sách và các xuất bản phẩm tôn giáo,
việc sản xuất kinh doanh, xuất nhập văn hóa phẩm tôn giáo, đồ dùng trong

việc truyền đạo thực hiện theo qui chế nhà nước về in, xuất bản, sản xuất,
kinh doanh, xuất nhập khẩu văn hóa phẩm hàng hóa.
+ Tín ngưỡng, tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân,
đang và sẽ tồn tại cùng dân tộc trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở
nước ta. Đồng bào các tôn giáo là bộ phận của khối đại đoàn kết toàn dân tộc.
+ Đảng, Nhà nước ta thực hiện nhất quán chính sách đại đoàn kết toàn
dân tộc, không phân biệt đối xử vì lý do tín ngưỡng, tôn giáo; đoàn kết đồng
bào theo các tôn giáo khác nhau, đoàn kết đồng bào không theo tôn giáo và
đồng bào theo tôn giáo. Phát huy những giá trị văn hoá, đạo đức tốt đẹp của
các tôn giáo, động viên các tổ chức tôn giáo, chức sắc, tín đồ sống tốt đời, đẹp
đạo, tham gia đóng góp tích cực cho công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
+ Nội dung cốt lõi của công tác tôn giáo là công tác vận động quần
chúng. Động viên đồng bào nâng cao tinh thần yêu nước, ý thức bảo vệ độc
lập và thống nhất Tổ quốc thông qua thực hiện tốt các chính sách kinh tế - xã
hội, an ninh – quốc phòng, bảo đảm lợi ích vật chất và tinh thần của nhân dân
nói chung, trong đó có đồng bào các tôn giáo.
+ Công tác tôn giáo là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị; trong đó,
các tổ chức quần chúng có vai trò quan trọng trong công tác quản lý Nhà
nước đối với các tôn giáo.
- Công tác tôn giáo, chính sách tôn giáo:
+ Thực hiện có hiệu quả chủ trương, chính sách và các chương trình
phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao đời sống vật chất, văn hoá của nhân dân,
trong đó có đồng bào các tôn giáo.
22


×