Tải bản đầy đủ (.doc) (12 trang)

“Mối quan hệ giữa chiến lược “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch và “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” ở Việt Nam Một số giải pháp phòng, chống”

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (147.21 KB, 12 trang )

A. MỞ ĐẦU
Sau chiến tranh thế giới thứ II, chủ nghĩa xã hội (CNXH) từ một nước nằm
trong vòng vây của chủ nghĩa tư bản (CNTB) đã trở thành một hệ thống thế giới.
Sự phát triển của CNXH và cao trào giải phóng dân tộc đã thu hẹp đáng kể phạm
vi thống trị thế giới của chủ nghĩa đế quốc. Thực tế của tình hình thế giới sau chiến
tranh thế giới thứ II buộc chủ nghĩa đế quốc và các thế lực phản động phải điều
chỉnh chiến lược. Mục tiêu cuối cùng của chủ nghĩa đế quốc là xóa bỏ CNXH khỏi
đời sống nhân loại. Để thực hiện mục tiêu này, chủ nghĩa đế quốc và các thế lực
phản động đã không từ bỏ một âm mưu nào, và chiến lược “diễn biến hòa bình”
với tư cách là một thủ đoạn, biện pháp cụ thể của chủ nghĩa đế quốc để thủ tiêu
CNXH đã được hình thành.
Cuối thập kỷ 80, sau khi Liên Xô và nhiều nước XHCN ở Đông Âu sụp đổ,
chủ nghĩa đế quốc tiếp tục ráo riết triển khai chiến lược “diễn biến hòa bình” nhằm
xóa bỏ CNXH ở những nước XHCN còn lại mà Việt Nam là một trọng điểm. Cùng
với “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch, trong những năm gần đây vấn đề
“tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ nước ta ngày càng diễn biến phức tạp
đe dọa sự tồn vong của Đảng và chế độ XHCN. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
XI, Đảng ta đã chỉ ra rằng: “Những biểu hiện xa rời mục tiêu của CNXH, “tự diễn
biến”, “tự chuyển hóa” có diễn biến phức tạp. Các thế lực thù địch tiếp tục thực
hiện âm mưu “diễn biến hòa bình”, gây bạo loạn lật đổ, sử dụng các chiêu bài “dân
chủ”, “nhân quyền” hòng làm thay đổi chế độ chính trị ở nước ta”.
“Tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” và “diễn biến hòa bình” nhìn bề ngoài tưởng
chừng là hai vấn đề tách biệt nhưng thực chất có quan hệ chặt chẽ với nhau. Mối
quan hệ giữa hai vấn đề này trong giai đoạn hiện nay như là lực cộng hưởng làm
cho nguy cơ mà Đảng ta đã chỉ ra ngày càng trầm trọng, nếu như không cảnh giác
và có giải pháp phòng, chống kịp thời thì nguy cơ sẽ trở thành hiện thực. Chính vì
vậy, việc tìm hiểu về mối quan hệ của chiến lược “diễn biến hòa bình” và “tự diễn
biến”, “tự chuyển hóa” ở Việt Nam để từ đó có những giải pháp phòng, chống hữu
hiệu là vấn đề rất cấp thiết hiện nay.
Xuất phát từ lý do trên, tôi chọn vấn đề: “Mối quan hệ giữa chiến lược “diễn
biến hòa bình” của các thế lực thù địch và “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” ở Việt


Nam - Một số giải pháp phòng, chống” làm bài thu hoạch kết thúc môn Giáo dục
quốc phòng và an ninh của Lớp hoàn chỉnh Chương trình cao cấp lý luận chính trị
Khóa 4.
1


B. NỘI DUNG
1. Chiến lược “diễn biến hòa bình”
1.1. Khái niệm
Theo Từ điển Bách khoa Quân sự Việt Nam: “Diễn biến hòa bình là chiến
lược cơ bản nhằm lật đổ chính trị - xã hội của các nước tiến bộ, trước hết là các
nước XHCN từ bên trong, chủ yếu bằng các biện pháp phi quân sự do chủ nghĩa đế
quốc và các thế lực phản động đứng đầu là Mỹ tiến hành”1.
Như vậy, “diễn biến hòa bình” là chiến lược phản cách mạng của các thế lực
thù địch, sử dụng tổng hợp các phương thức phi vũ trang để thẩm thấu, công phá
vào tất cả các lĩnh vực đời sống xã hội, làm suy yếu, chuyển hóa từ bên trong, tiến
tới làm sụp đổ chế độ XHCN và nền độc lập dân tộc các quốc gia mà không cần
chiến tranh.
Về bản chất, đây là chiến lược phản cách mạng do các nước đế quốc phát động
nhằm chống phá, chuyển hóa, thủ tiêu các nước XHCN, các phong trào cộng sản,
phong trào độc lập giải phóng dân tộc, ngăn cản xu thế vận động phát triển tất yếu của
xã hội loài người. Bản chất sâu xa vẫn là quá trình các thế lực thù địch và phản động
thực hiện cuộc vận động phản cách mạng ngay trong lòng các nước XHCN, từng
bước hình thành những nhân tố chống CNXH từ bên trong, thậm chí ngay trong nội
bộ các đảng cộng sản cầm quyền làm suy yếu, tan rã và sụp đổ chế độ XHCN.
1.2. Âm mưu, nội dung, thủ đoạn trong chiến lược “diễn biến hòa bình” của
các thế lực thù địch chống phá Việt Nam
1.2.1. Âm mưu mục tiêu
Không khuất phục được nhân dân ta bằng vũ lực vì thất bại trong các cuộc
chiến tranh xâm lược từ năm 1945 đến năm 1975, chủ nghĩa đế quốc và các thế lực

phản động, thù địch thay đổi phương thức, thủ đoạn, dùng “diễn biến hòa bình” kết
hợp bạo loạn lật đổ để chống phá chế độ XHCN ở Việt Nam.
Hiện nay, các thế lực thù địch buộc phải điều chỉnh chính sách, như bỏ cấm
vận kinh tế và bình thường hóa quan hệ về ngoại giao. Nếu nhìn về hình thức, thì
có vẻ “thân thiện hơn”, nhưng thực chất đang đẩy mạnh sử dụng chiến lược “diễn
1

Trung tâm từ điển Bách khoa quân sự, Bộ Quốc phòng: Từ điển Bách khoa Quân sự Việt Nam, Nxb.Quân đội nhân
dân, H.2004, tr.303.

2


biến hòa bình” để chống phá cách mạng Việt Nam với mức độ quyết liệt hơn,
nhằm: Phủ nhận để tiến tới xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam,
xóa bỏ CNXH, lái nước ta theo con đường TBCN.
Đây là cuộc đấu tranh giai cấp, dân tộc của nhân dân Việt Nam với các thế lực
thù địch ở bên ngoài cấu kết chặt chẽ với những phần tử phản động, thoái hóa, biến
chất, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” ở trong nước, sử dụng nhiều thủ đoạn hết sức
thâm độc. Đây là cuộc đấu tranh không có chiến tuyến, không có khói lửa, súng
đạn, song rất quyết liệt, tinh vi và ngày càng phức tạp.
1.2.2. Nội dung chống phá
Để thực hiện âm mưu trên, các thế lực thù địch đã và đang chống phá Việt
Nam toàn diện với những nội dung cơ bản sau:
Một là, tuyên truyền xuyên tạc nhằm loại bỏ chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh, loại bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng đối với xã hội.
Hai là, lợi dụng quan hệ kinh tế để xâm nhập, gây sức ép nhằm từng bước
chuyển hóa Việt Nam theo chế độ TBCN.
Ba là, tăng cường truyền bá văn hóa, lối sống thực dụng phương Tây, xuyên
tạc, phủ nhận các giá trị văn hóa, đạo đức, lối sống XHCN.

Bốn là, lợi dụng vấn đề dân chủ, nhân quyền, tôn giáo để chống phá.
Năm là, chuyển hóa lực lượng vũ trang mà trọng tâm là “phi chính trị hóa”
quân đội nhân dân và công an nhân dân.
Sáu là, phá hoại đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa phương hóa, đa dạng
hóa trong quan hệ quốc tế của Việt Nam.
1.2.3. Thủ đoạn chống phá
Để thực hiện được các nội dung chống phá nêu trên, chúng áp dụng nhiều thủ
đoạn thâm độc trên nhiều lĩnh vực:
Trên lĩnh vực chính trị: các thế lực thù địch coi đây là trận tuyến hàng đầu
trong chống phá Việt Nam. Xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng, thay đổi mục tiêu,
định hướng XHCN trong đường lối chính trị của Đảng và Nhà nước Việt Nam, tiến
tới thực hiện “đa nguyên chính trị”, “đa đảng đối lập”, thực chất là gây dựng các
thế lực chống đối chính trị ngay trong lòng Việt Nam.
3


Trên lĩnh vực tư tưởng: các thế lực thù địch, phản động tìm mọi cách để phủ
nhận bản chất cách mạng và khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh. Phủ nhận thành tựu của cách mạng Việt Nam trong cuộc đấu tranh giải
phóng dân tộc, thống nhất đất nước cũng như công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc Việt Nam XHCN dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Truyền bá
hệ tư tưởng tư sản cũng như các học thuyết, trào lưu tư tưởng chính trị đối lập, thù
địch với CNXH vào Việt Nam như: chủ nghĩa đa nguyên, chủ nghĩa thực dụng,
thuyết “xã hội hậu công nghiệp”, “thuyết hội tụ”… Tuyên truyền đề cao những cái
gọi là “giá trị” của CNTB như: tự do, dân chủ, nhân quyền.
Trên lĩnh vực chính trị nội bộ: Các thế lực thù địch ra sức tuyên truyền bịa đặt
về sự mất đoàn kết trong nội bộ Đảng, Chính phủ nhằm gây hoang mang, nghi
ngờ, giảm sút niềm tin của nhân dân. Tác động nhằm dẫn đến “tự diễn biến”, “tự
chuyển hóa” trong nội bộ, làm cho cán bộ, đảng viên suy thoái về chính trị, tư
tưởng, đạo đức, lối sống, xa rời mục tiêu, lý tưởng XHCN. Mua chuộc, lôi kéo,

kích động các đối tượng cơ hội chính trị, những đối tượng mà địch gọi là những
người “bất đồng chính kiến” chống phá Đảng, Nhà nước, chế độ XHCN Việt Nam
ngay trong nội bộ. Xuyên tạc, đả kích, thổi phồng những sơ hở, thiếu sót trong việc
xây dựng, tổ chức thực hiện đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước Việt Nam
nhằm gây ra bức xúc xã hội, bất bình, bất mãn trong các tầng lớp xã hội, phá hoại
mối quan hệ giữa nhân dân với Đảng. Lợi dụng tình trạng tham nhũng, lãng phí,
thoái hóa, biến chất của một bộ phận cán bộ, đảng viên, nhất là những cán bộ, đảng
viên giữ vị trí, vai trò lãnh đạo để kích động tư tưởng và hành vi chống Đảng, Nhà
nước, chống chế độ từ trong nội bộ và ngoài xã hội.
Trên lĩnh vực kinh tế: để thực hiện chiến lược “diễn biến hòa bình”, các thế lực
thù địch âm mưu lợi dụng các hoạt động đầu tư, liên doanh, liên kết, tài trợ… để từng
bước làm chệch định hướng XHCN của nền kinh tế thị trường, làm biến đổi dần cơ sở
kinh tế - xã hội của CNXH ở nước ta. Thúc đẩy tự do hóa nền kinh tế nước ta theo
hướng TBCN, làm cho kinh tế Việt Nam lệ thuộc dần vào các trung tâm kinh tế quốc
tế, Nhà nước không kiểm soát, điều hành được nền kinh tế cũng là một ý đồ được các
thế lực thù địch tìm nhiều cách để thực hiện trong thời gian qua;…
4


Trên lĩnh vực quốc phòng, an ninh: thế lực thù địch tìm cách xóa bỏ vai trò
lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với quốc
phòng, an ninh. “Phi chính trị hóa” lực lượng vũ trang là mục tiêu lâu dài, xuyên
suốt mà các thế lực thù địch tập trung phá hoại, làm cho lực lượng vũ trang xa rời
mục tiêu, lý tưởng cách mạng, mất phương hướng, không làm tròn vai trò lực
lượng nòng cốt trong đấu tranh, đặc biệt trong những “thời điểm nóng” và bất ngờ.
Trên lĩnh vực văn hóa: các thế lực thù địch tìm mọi cách du nhập lối sống,
đạo đức, văn hóa tư sản vào nước ta, làm cho văn hóa của chúng ta đi chệch mục
tiêu, lý tưởng yêu nước và CNXH, phá hoại, làm xói mòn nền tảng và các giá trị
đạo đức, văn hóa tốt đẹp của dân tộc, làm tha hóa một bộ phận cán bộ, đảng viên,
đặc biệt là thế hệ trẻ, nhằm tạo ra một thế hệ mất gốc, thích ăn chơi, thực dụng, vụ

lợi, vị kỷ, đua đòi, hưởng lạc, sa vào các tệ nạn xã,…
Trên lĩnh vực tôn giáo: chúng tuyên truyền xuyên tạc, đả kích đường lối,
chính sách tôn giáo của Đảng, Nhà nước ta, lợi dụng việc các cơ quan bảo vệ pháp
luật xử lý những đối tượng lợi dụng tôn giáo xâm phạm an ninh, trật tự để vu cáo
Việt Nam “đàn áp tôn giáo, vi phạm nhân quyền”. Tuyên truyền phát triển tôn
giáo trái pháp luật, làm cho tôn giáo trở thành một lực lượng đối lập, đối trọng đối
với Đảng Cộng sản Việt Nam, hoạt động phá rối an ninh, gây bạo loạn lật đổ.
Trên lĩnh vực dân tộc: chúng kích động gây mâu thuẫn giữa các dân tộc, nhất
là giữa dân tộc thiểu số (DTTS) với dân tộc Kinh nhằm chia rẽ, phá vỡ khối đại
đoàn kết dân tộc Việt Nam. Kích động tư tưởng ly khai, tự trị dân tộc trong các
DTTS ở các vùng chiến lược của nước ta; xuyên tạc, đả kích chính sách dân tộc
của Đảng, Nhà nước ta; vu cáo Việt Nam đàn áp DTTS; lập ra các tổ chức phản
động trong các DTTS, tiến hành hoạt động phá rối an ninh, gây bạo loạn lật đổ.
Trên lĩnh vực đối ngoại: chúng tuyên truyền, xuyên tạc, vu cáo Việt Nam vi
phạm tự do, dân chủ, nhân quyền, gây áp lực nhằm buộc Việt Nam phải thay đổi
đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ. Tác động gây mâu thuẫn, phá hoại mối quan
hệ hữu nghị, hợp tác giữa Việt Nam và các nước láng giềng như Lào, Campuchia
cũng như quan hệ của Việt Nam với các nước trong cộng đồng ASEAN nhằm hạ
thấp, hạn chế vị trí, vai trò của Việt Nam trong khu vực và trên thế giới.
5


Trên lĩnh vực pháp luật: chúng kích động đòi xóa bỏ Điều 4 Hiến pháp, tuyên
truyền, quảng bá, đề cao pháp luật tư sản của các nước tư bản phương Tây bằng các
hình thức, phương tiện truyền thông đại chúng. Thông qua tài trợ kinh phí hỗ trợ
thực hiện các dự án cải cách, hoàn thiện pháp luật để hướng lái Việt Nam theo luật
pháp tư sản của chế độ TBCN. Thông qua các chương trình đào tạo, bồi dưỡng kiến
thức pháp luật để đào tạo ra những chuyên gia pháp luật của Việt Nam theo luật
pháp tư sản. Thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong giới luật sư Việt Nam
trở thành lực lượng đối lập chống lại Đảng Cộng sản Việt Nam. Cài cắm người của

các thế lực thù địch, đưa đối tượng cơ hội chính trị, những người không phải là đảng
viên Đảng Cộng sản Việt Nam vào các cơ quan lập pháp, tư pháp của Việt Nam
nhằm “phi cộng sản hóa” bộ máy công quyền dưới chế độ XHCN Việt Nam.
2. “Tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”
“Tự diễn biến” là quá trình đấu tranh giữa các mặt tích cực và tiêu cực, giữa tư
tưởng XHCN và tư tưởng TBCN trong nội tâm người cán bộ, đảng viên trước những
tác động phức tạp của tình hình trong nước và quốc tế. Trong đó, yếu tố tiêu cực và
tư tưởng TBCN dần dần tăng lên; yếu tố tích cực, cách mạng, tư tưởng XHCN phai
nhạt dần. Đây là quá trình biến đổi từ bên trong chủ thể, đến một thời điểm nhất
định, đến “độ” nhất định, sự biến đổi này sẽ chuyển sang hành động của chủ thể.
“Tự chuyển hóa” là sự tiếp nối của quá trình “tự chuyển biến”, nhưng ở cấp
độ cao hơn. Đó là sự thay đổi về chất của quan điểm chính trị lẫn đạo đức, lối
sống, khiến cho cán bộ, đảng viên không còn là chính mình, chẳng những đánh
mất vai trò tiên phong, gương mẫu mà có khi còn trở thành kẻ phản bội, chống lại
Đảng và Nhà nước, thậm chí chuyển sang hàng ngũ kẻ thù.
“Tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” là sự suy thoái từ bên trong, là quá trình biến
đổi tư tưởng, chính trị, đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên, nhân dân theo
chiều hướng tiêu cực làm mất dần chuẩn mực của người cộng sản, của người công
dân XHCN, dẫn đến hoài nghi, xa rời, rồi có hành vi chống lại nguyên tắc, quan
điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước và
chế độ XHCN.

6


“Tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” diễn ra qua ba giai đoạn: (1) Giai đoạn ban
đầu, đối tượng thể hiện sự hoang mang, dao động về tư tưởng chính trị, sự hoài nghi
về sự lãnh đạo của Đảng, tính khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin, và hoài nghi con
đường đi lên CNXH; (2) Giai đoạn hai, đối tượng bắt đầu chủ động hơn trong tiếp
nhận những thông tin trái chiều, những luận điệu chống đối, hoặc lý luận phản động;

(3) Giai đoạn ba, đối tượng hoàn toàn có tư tưởng phản động, chống đối.
“Tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” có thể diễn ra trên tất cả các lĩnh vực từ tư
tưởng, chính trị đến kinh tế, văn hóa, đạo đức, lối sống. “Tự diễn biến” trên lĩnh
vực tư tưởng là sự hoài nghi chủ nghĩa Mác - Lênin; thiếu niềm tin, hoài nghi vai
trò lãnh đạo của Đảng, con đường đi lên CNXH; xa rời các nguyên lý xây dựng
Đảng, phê phán lịch sử thiếu khách quan, bôi nhọ hình ảnh lãnh tụ và các đồng chí
lãnh đạo Đảng, Nhà nước… “Tự chuyển hóa” trên lĩnh vực tư tưởng là sự nối tiếp
của quá trình “tự diễn biến” trên lĩnh vực tư tưởng. Khi sự biến đổi về chất đã làm
thay đổi quan điểm tư tưởng, chính trị, đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên, sẽ
dẫn đến hành động chống lại chủ trương, đường lối của Đảng, pháp luật của Nhà
nước. “Tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” về kinh tế là sự phủ nhận nền kinh tế thị
trường định hướng XHCN. Trên lĩnh vực văn hóa, xã hội, đạo đức, lối sống là sự
đề cao, sùng bái, chạy theo văn hóa, lối sống tư sản; từ bỏ các giá trị văn hóa, đạo
đức XHCN; xuyên tạc lịch sử, phủ nhận nền văn hóa cách mạng; đánh mất bản sắc
văn hóa dân tộc; đề cao chủ nghĩa cá nhân, lối sống thực dụng… “Tự diễn biến” về
văn hóa, xã hội, đạo đức, lối sống thường là sự khởi đầu cho “tự diễn biến” về tư
tưởng. Trên lĩnh vực quốc phòng, an ninh, biểu hiện của “tự diễn biến”, “tự chuyển
hóa” là thay đổi bản chất nền quốc phòng, thay đổi bản chất cách mạng của lực
lượng vũ trang, quân đội kiểu mới của giai cấp vô sản, v.v…
3. Mối quan hệ giữa “diễn biến hòa bình” và “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”
“Diễn biến hòa bình” và “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” là hai vấn đề khác
nhau. “Diễn biến hòa bình” là chiến lược do các thế lực thù địch tiến hành một cách
chủ động với động cơ, mục đích rõ ràng là nhằm xóa bỏ chế độ XHCN, hướng các
nước XHCN đi theo quỹ đạo của CNTB. Đây là hoạt động tác động từ bên ngoài
của các thế lực thù địch vào nội bộ nhằm hình thành các nhân tố, lực lượng chống
7


đối từ trong lòng các nước XHCN. Trong khi đó, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”
mà Đảng ta đề cập lại nhấn mạnh đến quá trình tự vận động, biến đổi và chuyển hóa

theo chiều hướng tiêu cực trong nhận thức và hành động của người cán bộ, đảng
viên, nhấn mạnh đến yếu tố bên trong, yếu tố nội tại. “Tự diễn biến”, “tự chuyển
hóa” là một quá trình thụ động, không có động cơ và mục đích rõ ràng. Mặc dù mục
tiêu và kết quả của “diễn biến hòa bình” với “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” không
có gì khác nhau khi cả hai đều muốn đi đến xóa bỏ chủ nghĩa Mác - Lênin, con
đường đi lên CNXH ở Việt Nam; vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam…
nhưng chủ thể của “diễn biến hòa bình” gắn liền với các thế lực thù địch, còn chủ
thể của “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” lại gắn chặt với người cán bộ, đảng viên
trong hệ thống chính trị, trong nội bộ Đảng. Nói cách khác, nhìn vào chiến lược
“diễn biến hòa bình” chúng ta có thể nhận thấy rõ “kẻ thù” của mình nhưng đối với
“tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” không dễ nhận ra “kẻ thù”, bởi nó nằm ngay trong
chính bản thân người cán bộ, đảng viên, là “tha hóa” trong người cộng sản mà nếu
không phòng ngừa, ngăn chặn hiệu quả thì dưới tác động tiêu cực của nhân tố khách
quan và chủ quan có thể dần dần dẫn tới “tự chuyển hóa”.
Tuy nhiên, chiến lược “diễn biến hòa bình” và “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”
lại có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, được thể hiện ở một số điểm cơ bản sau:
Thứ nhất, “diễn biến hòa bình” có mối quan hệ khăng khít, không tách rời với
quá trình “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”. Bản chất của chiến lược “diễn biến hòa
bình” là thông qua các phương thức, thủ đoạn khác nhau tác động vào nội bộ, làm
cho các nước XHCN “tự diễn biến” ngay từ bên trong, dẫn tới “tự chuyển hóa” theo
con đường TBCN. Thúc đẩy quá trình “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong lòng
các nước XHCN chính là một trong những cách thức, thủ đoạn của các thế lực thù
địch trong chiến lược “diễn biến hòa bình”. Nguy cơ “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”
có nguyên nhân từ bên trong, nguyên nhân nội tại còn được thúc đẩy bởi các nguyên
nhân bên ngoài. Một trong những nguyên nhân bên ngoài hết sức quan trọng đó là
do chiến lược “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch tạo ra. Thực tế rằng, luận
điệu tuyên truyền xuyên tạc chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, phủ
nhận vai trò lãnh đạo của Đảng, phủ định con đường xây dựng CNXH ở nước ta của
8



các thế lực thù địch trong thời gian vừa qua cũng đã góp phần không nhỏ dẫn đến sự
suy thoái về tư tưởng chính trị, phẩm chất đạo đức, lối sống của một bộ phận cán bộ,
đảng viên, đây là biểu hiện rõ nét nhất của “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”. Mà
nguyên nhân của nó, như Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã chỉ rõ, một trong bốn
lý do quan trọng đó là do sự chống phá điên cuồng và quyết liệt của các thế lực thù
địch, phản động. Đồng chí Tổng Bí thư nhấn mạnh: “Các thế lực thù địch và các
phần tử cơ hội chắc mẩm đây là cơ hội để họ dấn tới tác động, làm chuyển hóa tình
hình, thay đổi đường lối ở nước ta, cho nên họ hoạt động rất điên cuồng với nhiều
thủ đoạn và sách lược mới; vừa dùng các lực lượng, phương tiện từ bên ngoài, vừa
tận dụng phát triển lực lượng ở trong nước ta để tạo ra “tự diễn biến”, “tự chuyển
hóa”, chống đối từ nội bộ Đảng ta, xã hội ta, hòng phá ta từ bên trong phá ra, làm
cho “cộng sản tự diệt cộng sản”, “cộng sản con diệt cộng sản bố”.
Thứ hai, “diễn biến hòa bình” và “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” có thể xem
là hai mặt của một vấn đề, có mối quan hệ tương hỗ, bổ trợ cho nhau. Chiến lược
“diễn biến hòa bình” hướng tới thúc đẩy các yếu tố “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”
và là một trong những nguyên nhân làm gia tăng nguy cơ “tự diễn biến”, “tự
chuyển hóa”. Đến lượt nó, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” lại là môi trường, điều
kiện để chiến lược “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch đẩy mạnh chống
phá. Nếu người cán bộ, đảng viên không có biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển
hóa” thì chiến lược “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch sẽ không có hiệu
quả. Ngược lại, chính sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của
người cán bộ, đảng viên lại là “mảnh đất màu mỡ” để các thế lực thù địch khai
thác, lợi dụng, triển khai và thúc đẩy chiến lược “diễn biến hòa bình”.
Thứ ba, “diễn biến hòa bình” và “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” đang là nguy
cơ tồn tại hiện hữu, đe dọa đến sự tồn vong của chế độ XHCN, vai trò lãnh đạo của
Đảng và khối đại đoàn kết dân tộc. Do đó, nếu không có biện pháp phòng ngừa, đấu
tranh ngăn chặn kịp thời, hiệu quả thì có thể dẫn tới những hậu quả khủng khiếp - đó
là sự tan rã của Đảng Cộng sản, sự diệt vong chế độ XHCN và mọi thành quả cách
mạng mà Đảng, Nhà nước và nhân dân ta đấu tranh có được hoàn toàn bị xóa bỏ.


9


4. Một số giải pháp cơ bản phòng, chống “diễn biến hòa bình” và “tự
diễn biến”, “tự chuyển hóa” hiện nay
Phòng, chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” cũng như đấu tranh chống
“diễn biến hòa bình” đều hướng tới mục đích là bảo vệ Đảng, chế độ XHCN, khối
đại đoàn kết toàn dân tộc cũng như mỗi cán bộ, đảng viên và nhân dân. Do vậy,
chúng ta cần thực hiện đồng bộ nhiều giải pháp, nhưng trước hết, cần thực hiện tốt
các giải pháp chủ yếu sau:
Một là, thường xuyên chú trọng tuyên truyền, giáo dục quan điểm, đường lối
của Đảng, chủ trương, chính sách của Nhà nước và phát huy sức mạnh toàn dân tộc
nhằm phòng, chống chiến lược “diễn biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ và “tự diễn
biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ.
Cần khắc phục những hiện tượng lệch lạc như coi nhẹ việc tuyên truyền, giáo
dục quan điểm, đường lối của Đảng, chủ trương, chính sách của Nhà nước ta về
phòng, chống chiến lược “diễn biến hòa bình” và “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”
trong nội bộ. Phê phán quan điểm cho rằng, không có chiến lược “diễn biến hòa
bình” mà do chúng ta cường điệu hóa lên; nếu có thì đó là trách nhiệm của lực
lượng vũ trang, chứ không phải trách nhiệm của hệ thống chính trị và của mỗi
người dân Việt Nam.
Hai là, xây dựng hệ thống chính trị, nhất là các tổ chức đảng và bộ máy chính
quyền từ Trung ương đến cơ sở thực sự trong sạch, vững mạnh, gắn bó mật thiết
với nhân dân, lãnh đạo và quản lý xã hội có uy tín và hiệu quả.
Ba là, nêu cao vai trò gương mẫu của mỗi cán bộ, đảng viên, đẩy mạnh học
tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, kiên quyết “quét sạch
chủ nghĩa cá nhân” trong cuộc sống.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dạy: “Cán bộ là cái gốc của công việc”, “Muôn việc
thành công hay thất bại đều do cán bộ tốt hay xấu”. Do đó, mỗi cán bộ, đảng viên

phải thoát khỏi “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, phải thực sự là tấm gương sáng để
mỗi người dân học tập và làm theo, phải nêu cao tinh thần tự phê bình với chính
bản thân mình, kiên quyết đấu tranh với chủ nghĩa cá nhân và phát huy truyền
thống đạo đức tốt đẹp của dân tộc và những giá trị đạo đức mới, nâng cao sức “đề

10


kháng” trước sự tác động từ mặt tiêu cực của cơ chế thị trường, mở cửa, hội nhập,
nhất là trước sự cám dỗ của đồng tiền, của lối sống sa đọa.
Bốn là, giải quyết tốt các vấn đề văn hóa, nâng cao đời sống vật chất và tinh
thần của nhân dân, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc để xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN.
Phải từng bước thông qua đường lối, chủ trương, chính sách và công tác lãnh
đạo, chỉ đạo, tổ chức thực tiễn để từng bước hiện thực hóa mục tiêu, lý tưởng, tính
ưu việt của CNXH trên đất nước ta. Từng bước nâng cao đời sống vật chất, tinh
thần của cán bộ, đảng viên và nhân dân nhất là ở vùng sâu, vùng cao, vùng xa,
những căn cứ cách mạng trước đây và những gia đình, những cán bộ, đảng viên,
những người có nhiều công lao đóng góp cho công cuộc đấu tranh giải phóng dân
tộc, bảo vệ Tổ quốc với những chế độ, chính sách phù hợp.
Năm là, xây dựng lực lượng và thế trận quốc phòng toàn dân gắn liền với lực
lượng và thế trận an ninh nhân dân vững mạnh làm nòng cốt trong đấu tranh phòng,
chống chiến lược “diễn biến hòa bình” và bạo loạn lật đổ của các thế lực thù địch.
Giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng
đối với lĩnh vực quốc phòng và an ninh, đối với Quân đội nhân dân và Công an
nhân dân. Chống lại quan điểm “phi chính trị hóa” lực lượng vũ trang. Đây là một
ngón đòn chủ yếu của kẻ địch tấn công trực tiếp vào lực lượng nòng cốt của nền
quốc phòng toàn dân nhằm làm cho quân đội và công an biến chất, thay đổi bản
chất, tách rời khỏi sự lãnh đạo của Đảng, tiến tới “vô hiệu hóa” để thực hiện “diễn
biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ.

Sáu là, tăng cường hợp tác quốc tế, phòng, chống “diễn biến hòa bình” thông
qua các tổ chức đa phương, song phương và không gian mạng.
Thông qua mở rộng hợp tác quốc tế theo phương châm đa phương hóa, đa
dạng hóa quan hệ để tăng cường “ràng buộc lợi ích”, “thêm bạn, bớt thù”. Đồng
thời qua các mối quan hệ quốc tế, các diễn đàn đa phương và cả không gian mạng
để quảng bá truyền thống, tình cảm tốt đẹp của người Việt Nam và tính ưu việt của
chế độ xã hội; tuyên truyền, phản bác lại luận điệu sai trái về Việt Nam làm cho thế
giới và mọi người dân Việt Nam hiểu đúng sự thật, có đủ thông tin về sự nghiệp
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc của nước ta.

11


C. KẾT LUẬN
Như vậy, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” có mối quan hệ mật thiết với chiến
lược “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch. Diễn biến hòa bình” thúc đẩy
“tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”. Đến lượt nó, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” thúc
đẩy “diễn biến hòa bình”, trong đó “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” là nhân tố bên
trong quan trọng nhất.
Việc phòng, chống chiến lược “diễn biến hòa bình” là vấn đề cơ bản, thường
xuyên, cấp bách hàng đầu trong nhiệm vụ quốc phòng, an ninh hiện nay. Do đó,
cần phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn dân và hệ thống chính trị dưới sự lãnh
đạo của Đảng. Đồng thời, phát huy vai trò gương mẫu của mỗi cán bộ, đảng viên
các cấp, chống những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ.
Sau khi học xong môn học Giáo dục Quốc phòng và An ninh; đặc biệt là sau
khi tìm hiểu chuyên đề về chiến lược “diễn biến hòa bình” đã mang lại cho tôi rất
nhiều hiểu biết về các vấn đề quân sự, Quốc phòng, An ninh, truyền thống dựng
nước, giữ nước của dân tộc; nhiệm vụ Quốc phòng, An ninh; trách nhiệm, nghĩa vụ
bảo vệ Tổ quốc, chủ quyền biên giới, vùng trời, biển đảo Việt Nam; cảnh giác
phòng, chống âm mưu thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch đối với cách

mạng nước ta. Điều này đã mang lại cho bản thân tôi có một cái nhìn toàn diện hơn
về tình hình của đất nước hiện nay, những nguy cơ mà chúng ta đang phải đối mặt,
cũng như lòng tự hào về truyền thống dựng nước, giữ nước của dân tộc ta từ xưa
đến nay, sự tự ý thức về vấn đề lãnh thổ, biên giới, chủ quyền và có tinh thần cảnh
giác cao độ trước những âm mưu chống phá, lôi kéo của các thế lực thù địch.
Không những vậy tôi còn hiểu thêm về các đường lối quân sự, các chỉ thị của Đảng
và Nhà nước để thực hiện và chấp hành đầy đủ với tư cách là một công dân của
nước Việt Nam XHCN./.

12



×