Tải bản đầy đủ (.doc) (14 trang)

Đảm bảo quyền con người trong lĩnh vực xét xử ở Việt Nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (108.86 KB, 14 trang )

A. MỞ ĐẦU
Xét xử có vai trò rất quan trọng trong việc giữ vững ổn định và phát triển của
xã hội. Sự ổn định của trật tự pháp luật trong nước, việc giữ vững kỷ cương xã hội,
sự tự do và an toàn của con người…một phần quan trọng phụ thuộc vào hoạt động
xét xử của Tòa án. Bởi vì, xét xử bao giờ cũng gắn với việc Tòa án nhân danh Nhà
nước ra bản án hoặc quyết định có tính chất kết luận về các vi phạm pháp luật, các
tranh chấp pháp lý xảy ra trong xã hội; xử lý các vi phạm pháp luật bằng chế tài nhà
nước, giải quyết các tranh chấp bằng quyền lực nhà nước.
Việc bảo đảm quyền con người, quyền công dân trong hoạt động xét xử gắn
liền với trách nhiệm của Tòa án trong thực thi công quyền. Cơ chế bảo đảm quyền
con người trong hoạt động xét xử được thể hiện thông qua việc áp dụng các quy
định của pháp luật tố tụng và các quy định của pháp luật nội dung để giải quyết vụ
việc tại Tòa án. Nói cách khác, bảo đảm quyền con người thông qua việc bảo đảm
những người tham gia tố tụng được thực hiện đầy đủ các quyền tố tụng tại Tòa án.
Ở Việt Nam, trong những năm qua, việc đảm bảo đảm bảo quyền con người
trong lĩnh vực xét xử đã được Đảng và Nhà nước ta rất quan tâm. Hiến pháp năm
2013, ngoài việc dành một chương để quy định về quyền con người thì cũng đã mở
rộng khá nhiều những nội dung quan trọng để đảm bảo quyền con người trong lĩnh
vực xét xử như: xét xử kịp thời, công bằng, công khai; không bị kết án hai lần cho
cùng một tội phạm; quyền tự bào chữa hoặc nhờ luật sư bào chữa,…Việc mở rộng
những nội dung này trong lĩnh vực xét xử, một mặt, phù hợp với yêu cầu thực thi Bộ
luật nhân quyền quốc tế và quy định của các công ước quốc tế về quyền con người
tại Việt Nam. Mặt khác, nó góp phần khẳng định hơn nữa bản chất dân chủ, công
bằng, bình đẳng của xã hội ta.
Tuy vậy, trong công cuộc đổi mới hiện nay vấn đề đảm bảo quyền con người
trong lĩnh vực xét xử vẫn còn bộc lộ những bất cập cả về lý luận cũng như hoạt
động thực tiễn. Những bất cập này đã ít nhiều gây tổn hại đến sức khỏe, danh dự,
nhân phẩm, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân; vi phạm các vấn đề về dân
chủ, công bằng, bình đẳng trong xã hội; làm ảnh hưởng đến bản chất tốt đẹp của chế
độ xã hội XHCN… Đó là nguyên cớ để các thế lực thù địch tìm cách chống phá lại
sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta. Thực trạng trên đang là sự bức xúc lớn, được


Đảng, Nhà nước và nhân dân ta đặc biệt quan tâm.
Xuất phát từ lý do trên, tôi chọn vấn đề “Đảm bảo quyền con người trong lĩnh
vực xét xử ở Việt Nam hiện nay” làm bài thu hoạch môn Lý luận và pháp luật về Quyền
con người của Lớp hoàn chỉnh Chương trình cao cấp lý luận chính trị Khóa 4.
1


B. NỘI DUNG
1. Một số vấn đề lý luận chung
1.1. Khái niệm về quyền con người
- Quan niệm thứ nhất: Bắt nguồn từ chỗ coi con người là một thực thể tự nhiên,
nên quyền con người phải là quyền "bẩm sinh", là "đặc quyền", nghĩa là quyền con
người, quyền lợi của con người với tư cách là người, gắn liền với cá nhân con người,
không thể tách rời. Quan điểm này được các đại biểu tư tưởng của giai cấp tư sản ở
thế kỷ XVII, XVIII như Crotius, Hobbes, Kant, Locke, Spinoza, Rousseau hoàn thiện
và nêu ra trong học thuyết về pháp luật tự nhiên. Trường phái này cho rằng, quyền tự
nhiên, pháp luật tự nhiên đứng trên, cao hơn pháp luật nhà nước.
- Quan niệm thứ hai: Trái với quan niệm thứ nhất, quan niệm này lại chỉ đặt
con người và quyền con người trong mối quan hệ xã hội. Quan niệm này cho rằng,
con người chỉ là một thực thể xã hội, nên quyền của nó chỉ được xác định trong mối
tương quan với các thực thể xã hội khác và vì là quan hệ xã hội nên nó được chế độ
nhà nước, pháp luật điều chỉnh bảo vệ. Quan niệm này có tính tích cực khi coi
quyền con người là một khái niệm có tính lịch sử, đặt con người trong tổng hòa các
mối quan hệ xã hội. Vì con người là thực thể của xã hội, có mối quan hệ phổ biến
với xã hội nên quyền con người cũng luôn gắn liền với đấu tranh giai cấp, đấu tranh
chống áp bức bóc lột, đấu tranh chống bạo lực, chống bất công trong xã hội. Cơ sở
của quyền con người ở đây chính là trình độ phát triển của nền kinh tế, văn hóa, xã
hội và do chế độ kinh tế, chế độ xã hội quyết định.
- Quan niệm thứ ba: Quan niệm của chủ nghĩa Mác - Lênin về vấn đề quyền
con người. Xuất phát từ quan niệm coi con người vừa là sản phẩm tự nhiên, vừa là

sản phẩm của xã hội, chủ nghĩa Mác - Lênin cho rằng vấn đề quyền con người: "Về
bản chất bao hàm cả hai mặt tự nhiên và xã hội".
Xét về mặt tự nhiên, C.Mác cho rằng, con người là "động vật xã hội" có khả
năng "tái sinh ra con người", con người là động vật cao cấp nhất trong quá trình tiến
hóa. Do đó, về mặt này quyền con người trước hết là một thuộc tính tự nhiên. Quyền
con người không phải là một "tặng vật", do giai cấp thống trị ban phát thông qua
nhà nước mà quyền con người trong hình thức lịch sử tự nhiên của nó mang bản
2


chất tự nhiên, được thể hiện ở quyền được sống, quyền tự do, quyền được sáng tạo,
phát triển, quyền được đối xử như con người, xứng đáng với con người.
Xét về mặt xã hội, con người là động vật cao cấp nhất của tự nhiên, nhưng
ngay khi tiến hóa trở thành động vật cao cấp co người đã trở thành sản phẩm của
lịch sử xã hội. C.Mác cho rằng: "Trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là
tổng hòa những quan hệ xã hội". Do đó xét về khía cạnh xã hội, thì "quyền con
người, ngay từ khi có xã hội loài người, bên cạnh bản tính tự nhiên còn in đậm bản
tính xã hội". Theo Mác: "Quyền con người là những đặc quyền chỉ có ở con người
mới có, với tư cách là con người, là thành viên xã hội loài người".
Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về quyền con người không phải chỉ là
phép cộng đơn giản đối với hai quan niệm về quyền con người nêu trên, mà từ phân
tích nêu trên cho thấy bản chất hai mặt tự nhiên và xã hội của quyền con người có
những thuộc tính phức tạp và luôn có sự thống nhất giữa hai mặt đối lập.
Ở Việt Nam, Hiến pháp đầu tiên năm 1946 của Nước Việt Nam Dân chủ Cộng
hòa đã ghi nhận các quyền thiêng liêng của con người. Tiếp đó là các bản Hiến pháp
năm 1959, 1980, 1992 không chỉ thừa nhận và bảo đảm đầy đủ các quyền con
người, quyền công dân phù hợp với luật pháp quốc tế mà còn khẳng định rõ: Nhà
nước Việt Nam là nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân, có trách nhiệm bảo
đảm và không ngừng phát huy quyền làm chủ về mọi mặt của nhân dân. Đặc biệt
khái niệm quyền con người lần đầu tiên được được đưa vào Hiến pháp năm 2013.

Điều 14, Hiến pháp năm 2013 quy định:
1. Ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các quyền con người, quyền
công dân về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội được công nhận, tôn trọng,
bảo vệ, bảo đảm theo Hiến pháp và pháp luật.
2. Quyền con người, quyền công dân chỉ có thể bị hạn chế theo quy định của
luật trong trường hợp cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an
toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng.
Điều 16, Hiến pháp năm 2013 quy định:
1. Mọi người đều bình đẳng trước pháp luật.

3


2. Không ai bị phân biệt đối xử trong đời sống chính trị, dân sự, kinh tế, văn
hóa, xã hội.
Và nhiều quy định cụ thể khác về quyền con người cũng được thể hiện trong
Hiến pháp năm 2013
Từ sự phân tích trên, có thể hiểu: Quyền con người là các đặc quyền tự nhiên,
bắt nguồn từ phẩm giá vốn có của tất cả mọi người, được cộng đồng quốc tế và
quốc gia thừa nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm bằng hệ thống pháp luật quốc gia
và quốc tế.
1.2. Một số vấn đề lý luận về cơ chế bảo vệ quyền con người bằng tòa án
Khi bàn về Quyền con người, Ayn Rand định nghĩa rất xác đáng rằng “Quyền
con người là điều kiện mà bản chất con người đòi hỏi để tồn tại một cách thích
đáng”. Bảo vệ quyền con người là nhiệm vụ của bất cứ nhà nước pháp quyền và
không chỉ dừng lại ở những tuyên bố chính trị, ghi nhận trong pháp luật mà còn có
cơ chế bảo vệ cụ thể và mục đích cuối cùng là thực hiện việc bảo vệ quyền con
người trong thực tiễn. Bảo vệ quyền con người có nhiều cơ chế khác nhau. Là cơ
quan thực hiện quyền lực tư pháp trong nhà nước pháp quyền, Tòa án có vai trò
quan trọng trong việc bảo vệ quyền con người. Nói cách khác, bảo vệ quyền con

người bằng tòa án là một trong những cơ chế hữu hiệu. Thậm chí có quan điểm cho
rằng: Tòa án là nơi đầu tiên và trước nhất mà người dân trông cậy để gìn giữ quyền
con người. Việt Nam đang chủ trương xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN của
dân, do dân, vì dân, một nhà nước mà quyền con người được tôn trọng và bảo vệ thì
việc xây dựng hoàn thiện các cơ chế bảo vệ quyền con người trong đó có cơ chế bảo
vệ quyền con người bằng tòa án cần được quan tâm.
1.2.1. Quan niệm về hoạt động xét xử
Xét xử là hoạt động xem xét, đánh giá bản chất pháp lí của vụ việc nhằm đưa
ra một phán xét về tính chất, mức độ pháp lí của vụ việc, từ đó nhân danh Nhà nước
đưa ra một phán quyết tương ứng với bản chất, mức độ trái hay không trái pháp luật
của vụ việc (xét xử vụ án hình sự, dân sự, kinh doanh, thương mại, ...).
Là hoạt động đặc trưng, là chức năng, nhiệm vụ của các Tòa án. Các Tòa án là
những cơ quan duy nhất của một nước được đảm nhiệm chức năng xét xử. Mọi bản
4


án do các Tòa án tuyên đều phải qua xét xử. Không một ai có thể bị buộc tội mà
không qua xét xử của các tòa án và kết quả xét xử phải được công bố bằng bản án.
Phân theo nội dung xét xử có: xét xử tội phạm hình sự, xét xử tranh chấp dân sự, xét
xử khiếu kiện hành chính, xét xử tranh chấp lao động. Phân theo cấp độ xét xử có:
xét xử sơ thẩm, xét xử phúc thẩm, xét xử sơ thẩm đồng thời chung thẩm, xét xử
giám đốc thẩm, xét xử tái thẩm. Khi xét xử các Tòa án phải tuân theo các nguyên
tắc: khi xét xử thẩm phán và hội thẩm độc lập và chỉ tuân theo pháp luật; Tòa án
nhân dân xét xử công khai, trừ trường hợp do luật định; Tòa án nhân dân xét xử tập
thể và quyết định theo đa số.
Tóm lại, hoạt động xét xử phải tuân thủ nghiêm ngặt những quy định của pháp
luật, phải đảm bảo tính nghiêm minh của pháp luật cũng đồng thời qua đó vẫn đảm
bảo quyền con người đã được ghi nhận bởi luật pháp quốc tế và luật pháp quốc gia.
1.2.2. Cơ chế bảo vệ quyền con người bằng tòa án
Thực hiện quyền con người trong thực tế bao gồm cả việc bảo đảm và bảo vệ nó.

Nếu bảo đảm quyền con người là việc tạo ra các điều kiện thuận lợi về chính trị, kinh
tế, xã hội, pháp luật văn hóa giáo dục để quyền con người được thực hiện thì bảo vệ
quyền con người là việc nhà nước, xã hội thông qua pháp luật hành động chống lại
những hành vi xâm hại đến quyền con người. Sự xâm phạm đến quyền con người có
thể từ phía cá nhân trong xã hội cũng có thể là sự xâm phạm từ chính cơ quan công
quyền. Sự xâm phạm này thể hiện ở mức độ khác nhau, cao nhất là hành vi tội phạm.
Trong nhà nước pháp quyền, trách nhiệm bảo vệ quyền con người trước hết thuộc về
nhà nước với các cơ quan trong bộ máy của mình trong đó có cơ quan tòa án. Bảo vệ
quyền con người bằng tòa án là việc tòa án trên cơ sở chức năng, nhiệm vụ và hoạt
động của mình và các quy định của pháp luật, xử lý những hành vi xâm phạm đến
quyền con người hoặc giải quyết các tranh chấp trong xã hội nhằm bảo vệ quyền con
người. Quyền được bảo vệ quyền con người là một trong những quyền cơ bản của
con người. Theo Điều 8 Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền (UDHR) thì mọi người đều
có quyền được bảo vệ bởi một phương thức khắc phục hữu hiệu (right to an effective
remedy). Theo đó: “Mọi người đều có quyền được các toà án quốc gia có thẩm
quyền bảo vệ bằng các biện pháp hữu hiệu để chống lại những hành vi vi phạm các
5


quyền cơ bản của họ mà đã được hiến pháp hay luật pháp quy định.”. Như vậy, việc
bảo vệ quyền con người bằng hệ thống cơ quan tòa án quốc gia (hay cơ quan tài phán
quốc gia) là nghĩa vụ của nhà nước và là quyền của người dân.
Quyền con người được ghi nhận trong Hiến pháp và pháp luật. Nhưng để nó
được bảo vệ trong thực tế cần có những cơ chế cụ thể, vận hành tốt không chỉ nhằm
tạo điều kiện thuận lợi cho tòa án thực hiện nhiệm vụ bảo vệ quyền con người mà còn
tạo điều kiện cho người dân tham gia tích cực vào quá trình bảo vệ đó. Mục đích cuối
cùng là xử lý nghiêm minh mọi hành vi xâm phạm đến quyền con người và giải quyết
các tranh chấp trong xã hội đạt được chuẩn công lý. Cơ chế bảo vệ quyền con người
là khái niệm có ý nghĩa quan trọng trên nhiều phương diện. Cơ chế “được hiểu là
tổng thể các đảm bảo vật chất, chính trị, tư tưởng, pháp lý, tổ chức nghiệp vụ cho

việc thực hiện một quyền nào đó hoặc một việc nào đó” . Từ điển Tiếng Việt của Viện
Ngôn ngữ định nghĩa: cơ chế là cách thức mà theo đó một quá trình thực hiện. Như
vậy, nói đến cơ chế là nói đến cơ cấu tổ chức, quá trình vận hành của một hệ thống
nào đó. Dưới góc độ pháp lý, quyền con người là tổng thể các quy định của Hiến
pháp, pháp luật ghi nhận và bảo vệ nó và ở trong trạng thái tĩnh. Quá trình vật chất
hóa, đưa các quy định đó vào trong thực tiễn bằng các cách thức, các bảo đảm khác
nhau như vật chất, chính trị, tư tưởng, pháp lý, tổ chức chính là cơ chế bảo vệ quyền
con người. Trên lĩnh vực quyền con người, cụm từ “cơ chế của Liên hợp quốc về
quyền con người” (United Nations human rights mechanism) hay được sử dụng trong
các tài liệu chuyên môn để chỉ bộ máy các cơ quan chuyên trách và hệ thống các quy
tắc, thủ tục có liên quan do Liên hợp quốc thiết lập để thúc đẩy và bảo vệ các quyền
con người. Cơ chế bảo vệ quyền con người bằng tòa án chính là cách thức, phương
thức mà tòa án căn cứ vào quy định của pháp luật thực hiện việc xử lý các hành vi
xâm phạm đến quyền con người và giải quyết các tranh chấp trong các lĩnh vực của
đời sống xã hội. Điều này khác với cơ chế bảo vệ quyền con người bằng con đường
hành chính, hay cơ chế bảo vệ xã hội.
Cơ chế bảo vệ quyền con người bằng tòa án có những đặc điểm riêng phân biệt
với các cơ chế bảo vệ khác. Những đặc điểm riêng này do bản chất, chức năng,
nhiệm vụ, vai trò và vị trí của tòa án quy định. Những đặc điểm đó là:
6


- Cơ chế bảo vệ quyền con người của tòa án được được các tòa án áp dụng đối
với mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Điều này xuất phát từ tính đa dạng và phức tạp
của quyền con người khi nó hiện diện trong tất cả các lĩnh vực của cuộc sống mà
không thể có sự phân biệt đối xử các quyền con người với nhau, không thể nói quyền
nào quan trọng hơn quyền nào. Bên cạnh đó, chức năng của tòa án trong nhà nước
pháp quyền là giải quyết mọi các tranh chấp tranh chấp trong xã hội (tội phạm xét cho
cùng cũng là việc tranh chấp giữa nhà nước và người phạm tội). Đây là điểm khác
biệt giữa cơ chế bảo vệ quyền con người bằng con đường hành chính. Từ góc độ này

có thể nói, thẩm quyền của tòa án càng rộng, càng bao trùm tất cả các lĩnh vực khác
nhau thì quyền con người càng được bảo vệ tốt nhất bằng con đường tòa án.
- Cơ chế bảo vệ quyền con người bằng tòa án được thực hiện thông qua con
đường tố tụng. Tố tụng là toàn bộ trình tự, thủ tục giải quyết một vụ án tại tòa án. Tố
tụng bao gồm tố tụng hình sự và tố tụng phi hình sự khác như dân sự, hành chính.
Quá trình bảo vệ quyền con người bằng tòa án có thể bắt đầu ngay từ tòa án như
việc giải quyết các tranh chấp dân sự, hành chính, cũng có thể là quy trình có sự
tham gia của nhiều cơ quan qua nhiều giai đoạn khác nhau như việc giải quyết các
vụ án hình sự. Chính vì vậy, cũng có thể nói bảo vệ quyền con người bằng con
đường tòa án hay bảo vệ quyền con người bằng con đường tư pháp. Tuy nhiên, điểm
cuối cùng của cơ chế bảo vệ quyền con người bằng con đường tòa án (hay tư pháp)
vẫn là phán quyết của tòa án và đảm bảo thi hành phán quyết đó.
- Cơ chế bảo vệ quyền con người bằng tòa án là cơ chế pháp lý. Việc quy định
tổ chức, thẩm quyền, quy tắc vận hành của hệ thống tòa án, cách hành xử của nhân
viên tư pháp và thẩm phán; quyền, nghĩa vụ của các chủ thể tham gia vào cơ chế này
đều do pháp luật quy định và đảm bảo thực hiện.
- Cơ chế bảo vệ quyền con người bằng tòa án chính là cơ chế hoạt động của
hệ thống tòa án. Nói cách khác, bảo vệ quyền con người bằng tòa án - từ quy định
của pháp luật đến thực tiễn vận hành xoay quanh trục chính là hoạt động của các tòa
án và được quy định bằng chính những yếu tố bản chất, đặc thù của cơ quan này và
làm nên sự khác biệt với các cơ chế bảo vệ quyền con người bằng con đường hành
chính hay bằng hoạt động của các tổ chức xã hội. Đó chính là vấn đề độc lập xét xử
7


của tòa án. Đặc điểm này được giải thích: “Nếu nhánh quyền lực lập pháp và hành
pháp thường được tổ chức và vận hành theo mục tiêu công quyền thì tòa án được tổ
chức vận hành theo mục tiêu vì công lý. Vì vậy, tư pháp độc lập sẽ là công cụ hữu
hiệu để ngăn ngừa sự xâm hại trái pháp luật vào các quyền con người”. Bảo vệ
quyền con người được đặt ra khi có sự xâm phạm từ cá nhân trong xã hội và từ phía

công quyền. Mục đích xử lý tội phạm, giải quyết tranh chấp chỉ đạt đến công lý và
bảo vệ được quyền con người chỉ được thực hiện bằng cơ chế tòa án khi vấn đề độc
lập xét xử của tòa án được đảm bảo. Hệ thống tòa án được tổ chức và hoạt động
nhằm bảo vệ công quyền hay bảo vệ quyền con người cũng là câu hỏi cần được giải
đáp khi nghiên cứu cơ chế bảo vệ quyền con người bằng tòa án.
2. Thực trạng việc đảm bảo quyền con người trong lĩnh vực xét xử ở Việt Nam
thời gian qua
2.1. Ưu điểm
2.1.1. Về hệ thống pháp luật và thực hiện pháp luật
Hệ thống pháp luật đã được đổi mới, sửa đổi, bổ sung, xây dựng ngày càng đầy
đủ và phù hợp hơn, nhất là về thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa,
tạo cơ sở pháp lý cho việc quản lý xã hội bằng pháp luật, bảo đảm phát huy dân chủ,
thực hiện, bảo vệ quyền con người, thúc đẩy sự phát triển nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa, đáp ứng yêu cầu chủ động và tích cực hội nhập quốc tế.
Tổ chức thực hiện pháp luật đã có những tiến bộ, về cơ bản bảo đảm pháp luật
được thực thi đầy đủ, nghiêm minh trong tổ chức, hoạt động của nhà nước và đời
sống xã hội.
2.1.2. Về phát huy dân chủ, báo đảm quyền làm chủ của nhân dân, mọi quyền
lực nhà nước thuộc về nhân dân; thực hiện bảo vệ, bảo đảm quyền con người,
quyền công dân
Đảng ta nhận thức ngày càng sâu sắc hơn tầm quan trọng và vai trò của việc
phát huy dân chủ, bảo đảm quyền làm chủ của nhân dân, mọi quyền lực nhà nước
thuộc về nhân dân, khẳng định dân chủ là bản chất của chế độ, của Nhà nước, vừa là
mục tiêu, vừa là động lực của công cuộc đổi mới. Nền dân chủ XHCN ở Việt Nam
vừa thể hiện các giá trị dân chủ phổ quát của nhân loại, vừa thể hiện những giá trị
8


dân chủ trong bản sắc văn hóa, truyền thống đựng nước, giữ nước trong lịch sử dân
tộc Việt Nam, có nội dung cốt lõi là tôn trọng, bảo đảm quyền con người, quyền

công dân, quyền làm chủ của nhân dân, gắn với trách nhiệm, nghĩa vụ của công dân.
2.1.3. Hoạt động tố tụng nói chung và hoạt động xét xử nói riêng chỉ có thể
bảo đảm được sự vô tư, khách quan, công bằng, bình đẳng, đúng pháp luật khi hoạt
động đó được dẫn đắt, quán triệt bởi hệ thống các nguyên tắc tiến bộ đã được thừa
nhận của văn minh pháp lý nhân loại. Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, bên cạnh
việc tiếp tục khẳng định các nguyên tắc như: chế độ xét xử sơ thẩm, phúc thẩm được
bảo đảm; tòa án xét xử tập thể, tòa án xét xử công bằng, công khai; thẩm phán và
hội thẩm xéí xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật; bảo đảm quyền bào chữa của
người bị buộc tội, bảo vệ quyền và lọi ích hợp pháp của bị hại, đương sự; tôn trọng
và bảo vệ quyền con người; bảo đảm quyền bình đẳng trước pháp luật... thì đã bổ
sung thêm hai nguyên tắc quan trọng là suy đoán vô tội (Điều 13) và tranh tụng
trong xét xử được bảo đảm (Điều 26), phù hợp với chủ trương: “Nâng cao chất
lượng tranh tụng tại các phiên tòa xét xử, coi đây là khâu đột phá của hoạt động tư
pháp” (Nghị quyết số 49- NQ/TW ngày 2/6/2005 của Bộ Chính trị) và phù hợp với
thông lệ quốc tế. Để bảo đảm sự bình đẳng (về mặt hình thức) giữa các chủ thể
trong tố tụng hình sự, Tòa án nhân đân tối cao đã ban hành Thông tư số 02/2017/TTTANDTC ngày 28/7/2017 về quy chế tổ chức phiên tòa, Theo đó, bên buộc tội (Viện
Kiểm sát) ngồi đối diện với bên gỡ tội (luật sư). Bị cáo không phải đứng trước vành
móng ngựa nữa mà thay thế bằng bàn khai báo. Quy định như vậy góp phần khẳng
định nguyên tắc: Người bị buộc tội được coi là không có tội cho đến khi được chứng
minh theo trình tự, thủ tục do pháp luật quy định và có bản án kết tội của tòa án đã
có hiệu lực pháp luật.
2.1.4. Các quy định pháp luật hiện hành cũng đã kịp thời thể chế hóa chủ
trương của Đảng về chính sách hình sự mới theo yêu cầu cải cách tư pháp cũng
như đảm bảo quyền con người. Bộ luật Hình sự năm 2015 đã có nhiều quy định thể
hiện tinh thần trên như: giảm hỉnh phạt tù, mở rộng áp đụng hình phạt tiền trong quy
định cũng như tổ chức thực hiện; hạn chế quy định và áp dụng hình phạt tử hình.
Tội có khung hình phạt cao nhất là tử hình được giảm từ 25 tội (Bộ luật Hình sự
9



năm 2009) xuống còn 18 tội (Bộ luật Hình sự năm 2015). Không áp dụng hình phạt
tử hình đối với người chưa thành niên phạm tội; phụ nữ có thai hoặc nuôi con dưới
36 tháng tuổi; người đủ 75 tuổi.
2.2. Khuyết điểm, hạn chế
2.2.1. Sự độc lập của Tòa án còn hạn chế
Theo quy định của pháp luật, chức năng xét xử thuộc duy nhất về Tòa án. Tuy
nhiên, sự xét xử đó có được độc lập không lại là vấn đề khác. Độc lập xét xử nghĩa
là Tòa án sẽ quyết định những vấn đề của vụ án phù hợp với sự đánh giá khách quan
của mình và sự hiểu biết của mình về pháp luật mà không chịu sự tác động trực tiếp
hay gián tiếp, bởi bất kỳ ai, cơ quan hay tổ chức nào. Độc lập là yếu tố quan trọng
nhất giúp cho Tòa án xét xử một cách khách quan và công bằng. Tuy vậy, trên thực
tế, sự độc lập không phải khi nào cũng được đảm bảo triệt để, làm ảnh hưởng đến
việc xét xử, ảnh hưởng đến các quyền con người trong thực hiện quyền được bình
đẳng trong xét xử.
2.2.2. Quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo chưa được bảo
đảm triệt để
Đó là việc người bị tạm giữ, bị can, bị cáo không được thực hiện, thực hiện
không kịp thời, không đầy đủ quyền bào chữa. Vẫn còn những vụ xét xử không có
sự tham gia của người bào chữa; trong đó có những vụ phải do các cơ quan tiến
hành tố tụng chỉ định bắt buộc. Một số luật sư non kém tay nghề, thiếu nhiệt tình,
làm ảnh hưởng đến chất lượng của việc bào chữa. Với những vụ án mà Luật sư tham
gia do chỉ định thì phần lớn các Luật sư đều tham gia phiên tòa một cách chiếu cố,
lấy lệ, chưa thực sự nhiệt tình để bảo chữa cho thân chủ.
2.2.3. Thủ tục tố tụng đối với người chưa thành niên phạm tội còn nhiều bất cập
Các phiên tòa xét xử người chưa thành niên cũng giống như với xét xử người
đã thành niên, không hề có sự khác biệt nào dù rằng người chưa thành niên cần phải
có môi trường xét xử thân thiện hơn. Không những thế, với những vụ án có đồng
phạm là người đã thành niên thì các bị cáo cũng bị đưa ra xét xử trong cùng một vụ
án và đều cùng tuân thủ một trình tự tố tụng như nhau, không có sự phân biệt nào.


10


2.2.4. Tình trạng tồn đọng án, án quá hạn luật định
Hàng năm, số lượng án lưu hạ do các cơ quan tiến hành tố tụng chưa giải quyết
kịp thời vẫn còn nhiều, đặc biệt, nhiều vụ án kéo dài nhiều năm, vi phạm thời hạn
theo quy định.
Ngoài ra, do quy định căn cứ giám đốc thẩm chưa rõ ràng, bao gồm cả pháp
luật và sự việc, nên nhiều vụ án được xét xử nhiều lần, thậm chí hàng chục lần, kéo
dài quá trình xử lý vụ án, gây thiệt thòi cho quyền lợi cũng như tâm lý của người
phạm tội, thậm chí có một số trường hợp chết trong thời gian bị tạm giam; việc tạm
giam bị kéo dài...
2.2.5. Tình trạng bắt, giam giữ người tùy tiện còn tồn tại
Vẫn còn không ít các trường hợp áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giam
không có hoặc không đủ căn cứ theo quy định của luật pháp, xâm phạm đến quyền
tự do của công dân.
2.2.6. Xét xử oan sai
Trong lịch sử tố tụng Việt Nam đã xảy ra rất nhiều vụ án oan sai khiến nhiều
người đã phải ngồi tù rất nhiều năm dù cho họ không phạm tội. Những công dân đó
phải kể đến như ông Huỳnh Văn Nén, Hàn Đức Long, Nguyễn Thanh Chấn, Trần văn
Thêm;…Điển hình cho việc xét xử oan sai không thể không nhắc đến “Kỳ án vườn
điều”. Với hai lần bị kết án tử, ông Huỳnh Văn Nén được xem là người duy nhất
trong lịch sử tố tụng Việt Nam mang 2 án oan, được gọi là "Người tù xuyên thế kỷ".
Tháng 4/1998, ông Nén bị cho là dùng đoạn dây thừng làm hung khí giết bà Lê
Thị Bông cướp chiếc nhẫn. Hơn 2 năm sau, TAND tỉnh Bình Thuận xử sơ thẩm,
tuyên phạt ông tù chung thân về tội Giết người, 3 năm tội Cướp tài sản và 2 năm về
tội Cố ý hủy hoại tài sản, tổng hợp hình phạt là tù chung thân.
Trong thời gian bị điều tra vụ án này, ông Nén và 9 người bên vợ bị cáo buộc
giết bà Dương Thị Mỹ trong "kỳ án vườn điều" xảy ra 5 năm trước. Sau 12 năm cơ
quan điều tra không buộc tội được các bị can, không tìm ra hung thủ, gia đình ông

Nén được minh oan, bồi thường gần một tỷ đồng. Riêng ông Nén không được giải
quyết vì đang thi hành bản án chung thân vì bị cho là giết bà Bông, cướp nhẫn vàng.

11


Gần 17 năm ngồi tù, cuối năm 2015, Công an tỉnh Bình Thuận đình chỉ điều tra
đối với ông Nén sau khi tìm ra hung thủ giết bà Bông. Không lâu sau ông được
TAND tỉnh công khai xin lỗi tại địa phương.
Ngay khi được minh oan, ông viết đơn gửi VKSND Tối cao đề nghị xử lý hình
sự 14 cán bộ trong ngành công an, VKS, TAND tỉnh Bình Thuận gây oan sai cho
ông và 9 thành viên trong gia đình vợ.
Tháng 4/2016, ông Nén đến TAND tỉnh Bình Thuận nộp đơn yêu cầu bồi
thường thiệt hại 18 tỷ đồng vì phải mang 2 án oan về tội Giết người.
“Kỳ án Vườn điều” mãi được nhắc đến trong lịch sử tư pháp Việt Nam với
những nỗi đau không bao giờ nguôi.
3. Một số đề xuất góp phần đảm bảo quyền con người trong lĩnh vực xét xử ở
Việt Nam hiện nay
3.1. Tăng cường giáo dục về quyền con người cho cán bộ hoạt động tư pháp
Muốn bảo đảm quyền con người thì trước hết phải hiểu như thế nào là quyền
con người rồi từ đó mới có thể áp dụng vào thực tiễn. Quyền con người ở khía cạnh
giáo dục là một ngành học khá mới mẻ. Trong các trường Luật, ngành học này mới
chỉ được bắt đầu giảng dạy từ năm 2007. Ngay cả tại thời điểm hiện nay, với một số
người, khái niệm quyền con người vẫn còn khá mới mẻ, xa lạ và chủ yếu mang màu
sắc chính trị. Do đó, yêu cầu các cán bộ hoạt động tư pháp hiểu rõ về nhân quyền là
một đòi hỏi khá cao. Với những ai ham học hỏi, tự nghiên cứu tìm hiểu thì có thể
tham khảo qua sách báo, mạng internet. Tuy nhiên, sự học hỏi đó không được toàn
diện và đầy đủ. Vì vậy, cần phải trang bị kiến thức về quyền con người cho các cán
bộ hoạt động trong ngành tư pháp. Để sự tiếp thu thực sự có hiệu quả thì trước hết
cần phải tạo điều kiện cho các cán bộ hoạt động trong lĩnh vực tư pháp được đào tạo

một cách bài bản có hệ thống tại các trường có giảng dạy về nhân quyền, sau nữa là
truyền đạt thông qua các chương trình tập huấn, hội thảo… Có như vậy, quyền con
người mới được hiểu đúng, hiểu đủ, từ đó mới dễ thực thi trong thực tế.
3.2. Hoàn thiện tư pháp theo hướng bảo đảm nguyên tắc tranh tụng khi xét xử
Khoản 5, Điều 103, Hiến pháp năm 2013 quy định: “Nguyên tắc tranh tụng
trong xét xử được bảo đảm”. Trong thời gian tới, đổi mới thủ tục tranh tụng tại
12


phiên tòa được Tòa án nhân dân coi là khâu đột phá để nâng cao công tác xét xử,
đảm bảo những phán quyết của tòa án đúng luật, mang lại công lý, niềm tin cho
nhân dân và xã hội. Bảo đảm nguyên tắc tranh tụng cần được thực hiện không chỉ ở
các phiên tòa xét xử hình sự mà được áp dụng đối với cả các phiên tòa xét xử dân
sự, hành chính…
3.3. Nâng cao hiệu quả hoạt động của các cơ quan tiến hành tố tụng, đặc biệt
là Tòa án
- Đẩy mạnh tiến độ thành lập và đi vào hoạt động mô hình Viện kiểm sát và
Tòa án khu vực trên toàn quốc để bảo đảm độc lập xét xử.
- Xác định rõ Tòa án là cơ quan thực hiện quyền Tư pháp đồng thời đảm bảo
những điều kiện để Tòa án thực hiện quyền Tư pháp trong thực tế, đặc biệt là phải
nâng cao chế độ lương, phụ cấp, công tác phí để cán bộ công chức Tòa án có thể
đảm bảo cuộc sống cho bản thân và gia đình ở mức trung bình, yên tâm công tác mà
không phải lo về “cơm, áo, gạo, tiền”. Các chế độ của cán bộ, công chức Tòa án
hiện nay còn thấp. Trong khi đó, việc mở các phiên tòa lưu động tuy có ý nghĩa tích
cực trong việc đấu tranh phòng chống tội phạm nhưng cũng làm tiêu tốn một số kinh
phí nhất định, ảnh hưởng đến ngân sách đơn vị. Do đó cần phải có những đảm bảo
về tài chính nhất định để Tòa án thực hiện nhiệm vụ của mình.
Ngoài ra, để Thẩm phán yên tâm làm việc và làm việc có hiệu quả thì cần phải
quy định lại nhiệm kỳ của Thẩm phán. Hiện nay, nhiệm kỳ của Thẩm phán là 05
năm trong khi đó thủ tục bổ nhiệm, tái bổ nhiệm chặt chẽ, nhiều quy trình, mất

nhiều thời gian; nếu có vi phạm thì có thể bị bãi miễn bất cứ lúc nào. Do đó, nên
quy định nhiệm kỳ của Thẩm phán là 10 năm hoặc là vô thời hạn.
- Trong mối quan hệ giữa các cơ quan tiến hành tố tụng, cần xác định rõ mối
quan hệ chặt chẽ và có ảnh hưởng tác động đến nhiều cơ quan, cá nhân, mặt khác
nhằm để tránh sự bao che lẫn nhau, dẫn đến sai lệch hoặc lạm dụng quyền lực trong
hoạt động xét xử.

13


C. KẾT LUẬN
Công lý và quyền con người là hai vấn đề có mối quan hệ biện chứng với nhau.
Cả hai phạm trù này đều thuộc về con người, là những quyền lợi mà con người có
quyền yêu cầu, đòi hỏi được bảo đảm, và sự bảo đảm đó được thực hiện thông qua
các quy phạm pháp luật do Nhà nước ban hành. Khi công lý được thực hiện thì đồng
thời quyền con người cũng từ đó mà được bảo đảm, ngược lại, khi quyền con người
được bảo đảm bởi các quy phạm pháp luật thì từ đó công lý cũng được thực thi.
Chính vì vậy, việc có đảm bảo quyền con người hay không trước tiên phải gắn liền
với hoạt động tư pháp và đặc biệt là lĩnh vực xét xử.
Nhà nước Việt Nam luôn tôn trọng, bảo vệ và thúc đẩy quyền con người bằng
các quy định, chính sách và các hoạt động thực tiễn. Mọi chủ trương, đường lối,
chính sách của Việt Nam đều hướng đến mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội
công bằng, dân chủ, văn minh”, tất cả vì con người và cho con người. Con người
vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự nghiệp xây dựng đất nước. Chúng ta đã đạt
được một số thành tích đáng tự hào về nhân quyền nói chung và nhân quyền trong
hoạt động tư pháp nói chung và lĩnh vực xét xử nói riêng.
Tuy nhiên, bên cạnh những mặt tích cực trong lĩnh vực xét xử thì vẫn còn tồn
tại một số bất cập trong pháp luật và hạn chế trong thực tiễn cần được nghiên cứu
hoàn thiện đáp ứng yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và phù
hợp hơn nữa với luật nhân quyền quốc tế./.


14



×