Tải bản đầy đủ (.pdf) (11 trang)

Quan niệm về tự do của con người trong triết lý giáo dục của chủ nghĩa hiện sinh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (471.36 KB, 11 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SÀI GÒN
SAIGON UNIVERSITY
TẠP CHÍ KHOA HỌC
SCIENTIFIC JOURNAL
ĐẠI HỌC SÀI GÒN
OF SAIGON UNIVERSITY
Số 64 (4/2019)
No. 64 (4/2019)
Email: ; Website:

QUAN NIỆM VỀ TỰ DO CỦA CON NGƯỜI
TRONG TRIẾT LÝ GIÁO DỤC CỦA CHỦ NGHĨA HIỆN SINH
The notion of human freedom in educational philosophy of existentialism
ThS. Trần Thị Thảo
Trường Đại học Sư phạm Kỹ thuật TP.HCM
Tóm tắt
Là triết học phi duy lý, chủ nghĩa hiện sinh nhấn mạnh tính độc đáo của nhân vị và tự do của cá nhân đối
lập với đoàn nhóm, với sự đồng dạng phổ biến và xã hội đại chúng đề cao duy lý. Triết thuyết này dựa
trên quan điểm cho rằng tất cả mọi người phải chịu trách nhiệm hoàn toàn về ý nghĩa và khái niệm cuộc
sống của mình, phải tạo ra được một bản sắc riêng cho mình. Giáo dục là phương thức hữu hiệu nhất để
đào tạo ra những con người có bản sắc riêng. Theo các nhà hiện sinh, giáo dục mang sứ mệnh khai phóng
ý thức và trách nhiệm của con người về chính nhân vị và sự tự do của họ. Với những nhận định đó, bài
báo nhằm mục đích làm rõ quan niệm về tự do trong triết lý giáo dục của chủ nghĩa hiện sinh.
Từ khóa: chủ nghĩa hiện sinh, tự do, giáo dục
Abstract
Existentialism can be considered a type of irrationalism which emphasizes the individual’s uniqueness
and freedom, in opposition to a group, common unity or mass society appreciating rationalism. This
school of philosophy relies on the notion that all people are thoroughly responsible for the meaning and
concept of their own life. Education is the most effective way to train people with their own identity.
Existentialists believe that education has the mission to launch people’s consciousness and
responsibility for humanity and their freedom. This paper is an attempt to clarify the notion of freedom


in existentialist educational philosophy.
Keywords: existentialism, freedom, education

Xuất phát từ việc đề cao tự do của con
người, các triết gia hiện sinh đem lại nhiều
gợi ý về mặt giáo dục cho nền giáo dục
hiện đại. Vào những năm 50 của thế kỷ
XX, một số nhà giáo dục học phương Tây
đã vận dụng những tư tưởng triết lý giáo
dục hiện sinh vào việc xây dựng triết học
giáo dục, đánh dấu sự ra đời của một
trường phái mới trong giáo dục - Giáo dục

Đặt vấn đề
Chủ nghĩa hiện sinh là một trong
những trào lưu có ảnh hưởng nhất định của
triết học phương Tây thế kỷ XX, đặc biệt là
trong và sau Thế chiến thứ hai. Đây là triết
thuyết chống lại triết lý truyền thống, đặc
biệt là chống lại những nỗ lực đã được thực
hiện để tạo ra các hệ thống tư duy trật tự và
trừu tượng.
Email:

102


TRẦN THỊ THẢO

TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GÒN


động, không còn huyền bí, thần thánh nữa.
Hơn nữa, con người với tư cách là chủ thể
còn có thể thấy rằng sự vật không có khả
năng cưỡng bức con người phải công nhận
nó như thế này hay thế kia. Thậm chí, tính
chủ thể còn giúp con người không bị áp
bức, thôn tính bởi tha nhân, giúp con người
dám nhìn thẳng vào thực tế cuộc sống, bỏ
vào ngoặc những ý tưởng trừu tượng phi
thực tế.
Về sự tự do lựa chọn và trách nhiệm
đối với sự lựa chọn: Theo các nhà hiện
sinh, nếu cần định nghĩa người thì người
đầu tiên không là gì cả, về sau có thành cái
gì thì là do sự lựa chọn của tự do. Tự do là
hữu, là bản thể của hiện hữu nhân loại, của
cá nhân. Con người không thể chối bỏ
được điều đó bởi lẽ như vậy là từ chối vị trí
căn bản của đời mình. Tự do là cái được
phán quyết cho con người. Do đó, con
người không phải được tự do mà bị tự do.
Trong tác phẩm kinh điển của mình, Hữu
thể và vô thể, Sartre đã tuyên bố: “Thực ra,
chúng ta là một tự do để lựa chọn, nhưng
chúng ta không chọn được tự do: chúng ta
bị lên án phải tự do (Sartre, 2014, tr. 530).
Sự kết án ấy bắt nguồn từ thực tế rằng
con người bị ném vào tự do. Vì vậy con
người hoàn toàn có quyền tự do lựa chọn,

lựa chọn hành vi, lựa chọn thái độ sống và
ý nghĩa cuộc đời của mình, bởi vì “Tôi là
người, và mỗi người phải sáng tạo nên
đường đi của chính mình” (Sartre, 1967, tr.
127).
Nhà hiện sinh đích thực không cho
phép họ đi theo một khuôn phép nhất định
nào. Mỗi một cá nhân đều có quyền lựa
chọn cho mình một cách sống, một thái độ
sống, một bản chất sống không giống bất
kỳ ai, tức có ý thức để trở thành hiện sinh tôi phải tự định đoạt số phận của tôi. Mọi

hiện sinh (Existentialist Education).
Nội dung
1. Từ quan điểm tự do đến triết lý
giáo dục của chủ nghĩa hiện sinh
Các nhà hiện sinh không viết về giáo
dục chính thức và toàn diện. Người ta có
thể chỉ suy luận quan niệm của giáo dục
thông qua triết học của họ. Đặc biệt, thông
qua cái nhìn của họ về tính chủ thể và sự
tự do lựa chọn và trách nhiệm, họ nhấn
mạnh đến tính tích cực của cá nhân, của sự
khác biệt về phương pháp giáo dục.
Về tính chủ thể, dù khác nhau về lập
trường bản thể luận nhưng các nhà hiện
sinh đều gặp nhau ở chỗ đề cao chủ thể
tính của con người và xem đó là nền tảng
của tự do. Theo Jean – Paul Sartre: “Điều
rắc rối là có hai loại hiện sinh […] Điểm

chung giữa họ chỉ là ở chỗ họ cho rằng
hiện hữu đi trước bản chất hay nói cách
khác, họ xuất phát từ tính chủ thể” (Sartre,
2015, tr. 27 – 28).
Để giải thích về chủ thể tính, Sartre
khẳng định: “Con người không chỉ tồn tại
như nó được quan niệm, mà còn tồn tại
như nó muốn thể hiện; và vì nó được quan
niệm sau khi có sự hiện hữu, và nó muốn
tỏ ra sau khi có cái đà ấy hướng tới sự hiện
hữu, nên con người không là gì khác ngoài
những gì mà nó tự tạo nên. Đó là nguyên
tắc đầu tiên của thuyết hiện sinh. Đó cũng
là điều người ta gọi là tính chủ thể” (Sartre,
2015, tr. 33).
Tính chủ thể là điểm xuất phát cho sự
tự do của con người. Con người như một
tồn tại giữa vũ trụ, nhưng xét ở khía cạnh
văn hóa, nó có thể vươn vượt lên trên vũ
trụ. Con người vừa gán cho vũ trụ những
giá trị như mình muốn, vừa tự quy định
một cách tự do. Khi con người ý thức được
chủ thể của mình, thì vũ trụ trở thành thụ
103


SCIENTIFIC JOURNAL OF SAIGON UNIVERSITY

No. 64 (4/2019)


thứ luân lý đối với nhà hiện sinh đều là vô
nghĩa nếu như nó bị khước từ tự do. Tự do
là động lực của mọi thay đổi khi con người
đã nhận ra tự do của họ. Bản chất của con
người sẽ được khai lộ trong chính lựa chọn
của họ. Trong từng hoàn cảnh, từng điều
kiện, từng giai đoạn sống con người sẽ có
những lựa chọn để tạo tác nên chính bản
thân mình.
Tự do trong quan niệm của chủ nghĩa
hiện sinh là tự do lựa chọn, nhưng không
tùy tiện mà gắn liền với trách nhiệm. Trách
nhiệm đối với sự lựa chọn tự do được xem
xét từ những giác độ sau:
Một là, con người khi đã hiện hữu, đã
lựa chọn thái độ hiện sinh của mình thì phải
chịu trách nhiệm về sự lựa chọn bản chất
hiện sinh của mình. Người hiện sinh dùng
tự do để lựa chọn, định đoạt cuộc đời mình.
Mỗi quyết định là mỗi giá trị hiện sinh vì
mỗi một quyết định đó đều đòi hỏi một tinh
thần trách nhiệm cao cả. Người hiện sinh là
con người tự do siêu việt mà không một thế
lực nào có thể đe dọa, vây hãm. Họ là
những con người tự do đích thực khi đã tự
đảm nhiệm hành động của mình.
Hai là, khi đưa ra lựa chọn thì con
người không chỉ có trách nhiệm trước bản
thân, mà còn trước người khác và trước
toàn xã hội về sự lựa chọn đó. Khi chúng

ta lựa chọn hành động như thế này hay như
thế khác, thì chúng ta đã khẳng định giá trị
của điều mà chúng ta đã chọn.
Ba là, con người phải chịu trách
nhiệm đến cùng về sự lựa chọn của mình
cho dù kết quả của nó có như thế nào, là
thành hay bại. Trách nhiệm đeo bám con
người suốt cả cuộc hành trình của cõi nhân
sinh, không vì cái gì mà từ bỏ nó, không vì
một sự thỏa hiệp nào mà chối bỏ nó, nó là
định mệnh của con người, gắn với tự do

của con người.
Như vậy, có thể nói, trong tư tưởng tự
do của chủ nghĩa hiện sinh lựa chọn và
trách nhiệm (đối với tự do) là yếu tố quan
trọng nhất. Trách nhiệm không phải là sự
sao chép lại tự do. Tự do là cái vốn có của
mỗi người, hoàn toàn không nhất thiết phải
được cấy ghép vào mỗi cá nhân riêng biệt
để rồi qua đó, cá nhân này bỗng dưng lại bị
cô lập khỏi những người khác. Sartre đã
lập luận: “Khi nói rằng con người tự mình
lựa chọn, thì chúng tôi hiểu rằng mỗi người
trong chúng ta tự mình lựa chọn, nhưng
qua đó, chúng tôi cũng muốn nói rằng,
trong khi tự mình lựa chọn ta lựa chọn tất
cả mọi người” (Sartre, 2015,tr.35). Với
nghĩa đó, mỗi người đều phải chịu trách
nhiệm về mọi người, đều phải lựa chọn con

người nói chung, lựa chọn mô hình con
người. Theo chúng tôi, điều quan trọng là,
khi tiến hành sự lựa chọn của mình, con
người không hành động một cách mù
quáng, mà tuân thủ kết quả triết lý của
mình. Con người lựa chọn hình ảnh không
những của bản thân mình, mà còn của
những người khác nhờ chính kết quả triết
lý đó.
Để con người có được tự do, Theo các
nhà hiện sinh, giáo dục đóng vai trò quan
trọng trong việc làm cho con người nhận
thức được tự do của mình và tự thiết kế
mình thành con người tự do. Theo
Kierkegaard, giáo dục hiện sinh tập trung
vào mục đích làm cho người trở thành
chính bản thân nó, tự do, độc lập. Muốn
vậy các cá nhân chỉ có thể lấy sự lựa chọn
tồn tại của riêng mình và sau đó ghi lại sự
thật tồn tại hoặc chủ quan trong cuộc sống
riêng của họ. Vấn đề là cá nhân không thể
sống bằng trải nghiệm của người khác. Vì
vậy chủ nghĩa hiện sinh đề cập một quan
104


TRẦN THỊ THẢO

TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GÒN


điểm giáo dục hướng tới sự khai phóng tự
do con người cá nhân cụ thể.
a. Về mục đích giáo dục
Đối với các nhà hiện sinh, mục đích
của giáo dục là cung cấp trải nghiệm sâu
rộng và toàn diện với cuộc sống dưới mọi
hình thức, là cho phép mỗi cá nhân tự phát
triển tiềm năng đầy đủ nhất của mình để tự
hoàn thành. Do đó, mục đích giáo dục hiện
sinh bao gồm những vấn đề sau:
Phát triển bản thân đích thực của
người học
Các nhà hiện sinh cho rằng con người
không chỉ là trí tuệ, mà còn là cảm giác và
cảm xúc. Do đó, người học phải học cách
cảm nhận, để trở thành một “cá nhân được
chứng thực”. Mối quan tâm chính của chủ
nghĩa hiện sinh là sự tồn tại của “bản thân”.
Sartre giải thích hai dạng của tồn tại đó là
tồn tại tự thân và tồn tại vị thân. Tồn tại tự
thân là dạng tồn tại trong chính hiện trạng
thực tế của nó còn tồn tại vị thân là dạng
tồn tại mà con người sẽ kiến tạo nên bản
thân mình bằng những nỗ lực. Giáo dục sẽ
giúp người học phát triển bản thân mình
theo hướng tồn tại vị thân. Do đó, mục tiêu
của giáo dục là phải giúp người học phát
triển một quy mô nhất quán các giá trị, xác
thực sự tồn tại của chúng bằng cách cam
kết với các giá trị này và hành động để đạt

được các giá trị đó.
Hỗ trợ khả năng tự nhận thức ở người học
Giáo dục giúp người học đạt được sự
tự giác. Theo quan điểm của các nhà hiện
sinh, một nền giáo dục tốt là một nền giáo
dục giúp mỗi chúng ta nhìn thấy chính
mình với những nỗi sợ hãi, thất vọng và hy
vọng, cũng như những cách chúng ta sử
dụng tri thức và đạo đức. Bước đầu tiên
trong bất kỳ nền giáo dục nào đó là làm
cho con người phải hiểu được chính bản

thân con người. Sartre đã tuyên bố rằng:
“Con người không là gì khác ngoài dự
phóng của mình, nó chỉ tồn tại trong giới
hạn nó hiện thực hóa bản thân, vì vậy con
người không là gì khác ngoài toàn bộ các
hành vi của mình, không có gì khác ngoài
đời sống của nó” (Sartre, 2015, tr.58).
Do đó, giáo dục hiện sinh đảm nhận
trách nhiệm đánh thức mỗi cá nhân về sức
mạnh của bản thân mình (xác định bản thân
là hiện tượng của nhận thức về tính chủ
thể). Hiện sinh đề cao phương pháp học tập
trong đó đặc điểm và giá trị của bản thân
được truyền đạt một cách có ý nghĩa.
Chuẩn bị cho con người đối mặt với bi
kịch của cuộc sống
Mỗi cá nhân phải đối mặt với nhiều
tình huống bi thảm trong cuộc sống của

mình. Sự kiện bi thảm quan trọng nhất và
không thể tránh khỏi là cái chết. Theo
Heidegger con người là một tồn tại hướng
đến cái chết. Một trong những mục tiêu
chính của giáo dục chủ nghĩa hiện sinh là
thái độ đúng đắn đối với cái chết.
Giáo dục cho cái chết có thể được đưa
vào để hiểu rõ hơn về cuộc sống tốt đẹp và
nghĩa vụ của một người trong cuộc sống.
Con người nên nhận thức được cái chết của
mình trong từng khoảnh khắc của cuộc
sống. Việc nhận ra cái chết này sẽ giúp ích
trong việc tận hưởng từng khoảnh khắc
trong cuộc sống của con người do thực tế
là họ đã chuẩn bị cho cái chết. Thomas
Flynn đã nhận xét rằng: “Đối với
Heidegger, chính sự cương quyết chấp
nhận tồn – tại – hướng – đến – cái – chết
của mình mới đưa những mối bận tâm rải
rắc khác vào trong việc nhận biết ý nghĩa
của tồn tại. Đây là một cách trải nghiệm
khác về sự bất tất của ta. Một khi nhận ra
rằng vào lúc nào đó tại nơi nào ta sẽ không
105


SCIENTIFIC JOURNAL OF SAIGON UNIVERSITY

No. 64 (4/2019)


còn nữa, ta có thực nhận nào đó về ý nghĩa
của sự hiện hữu” (T. Flynn, 2018, tr.134).
Hiểu được tầm quan trọng của sự lựa
chọn làm nên sức mạnh của bản thân
Giáo dục nên đào tạo con người để
đưa ra lựa chọn tốt hơn và nhận thức được
rằng vì sự lựa chọn không bao giờ hoàn
hảo, nên hậu quả không thể dự đoán được.
Cuộc sống là một quá trình liên tục đưa ra
lựa chọn và tất cả các lựa chọn là riêng tư
và cá nhân.
Phát triển năng lực cho sự lựa chọn tự
do bao gồm hai bước cơ bản: (1) trau dồi
khả năng đưa ra quyết định tự do và hợp lý
và (2) phát triển thiên hướng để đưa ra
quyết định như vậy ngay từ đầu. Trong đó
bước thứ 2 là quan trọng hơn. Mục đích cơ
bản của giáo dục theo chủ nghĩa hiện sinh
là phát triển ý thức cam kết lựa chọn tự do.
Chuẩn bị cho người học thích nghi với
xã hội
Nhờ giáo dục nên con người có thể
nhìn xa hơn lợi ích và mục tiêu cá nhân.
Chủ nghĩa hiện sinh cho rằng giáo dục xã
hội nên dạy cách tôn trọng tự do của tất cả
mọi người. Tôn trọng sự tự do của mình
cũng như những người khác là cần thiết
như nhau. Giáo dục tốt sẽ chuẩn bị cho con
người ý chí tự do của mình, đồng thời đưa
đến tự do cho tất cả những người khác. Khi

con người khẳng định giá trị của bất kỳ
hành động nào cũng là đang khẳng định
một giá trị với lời kêu gọi phổ quát “Tôi
chịu trách nhiệm cho bản thân và cho tất cả
mọi người”. Sartre cho rằng:
Nếu chúng ta muốn hiện hữu cùng một
lúc với việc chúng ta nhào nặn nên hình
ảnh của mình, thì hình ảnh ấy có giá trị đối
với tất cả mọi người và đối với toàn bộ thời
đại chúng ta. Như vậy trách nhiệm của
chúng ta lớn lao hơn nhiều so với những gì

mà chúng ta có thể nghĩ đến, vì nó liên
quan đến toàn thể nhân loại […] Như vậy
tôi chịu trách nhiệm với chính mình và với
mọi người, và tôi đã sáng tạo ra một hình
ảnh nào đó về con người mà tôi đã lựa
chọn; khi chọn lấy chính tôi, tôi chọn con
người (Sartre, 2015, tr.36 – 37).
Chính vì con người luôn sống cùng với
những sinh mệnh khác cho nên giáo dục có
trách nhiệm làm cho con người hội nhập
vào các hình thức và cấu trúc, nhóm và thể
chế của xã hội.
Phát triển ý thức trách nhiệm của
người học
Giáo dục hiện sinh nhấn mạnh đến tầm
quan trọng của trách nhiệm cá nhân, và cho
rằng không có lối nào thoát khỏi trách
nhiệm cá nhân. Nhiệm vụ của giáo viên là

hỗ trợ học sinh tự chịu trách nhiệm, đối
mặt với thế giới một cách có trách nhiệm.
Chủ nghĩa hiện sinh cho rằng đối với tất cả
các lựa chọn của mình, con người không
thể đổ lỗi cho người khác, cho dù đó là cha
mẹ hay xã hội và họ thậm chí không thể đổ
lỗi hoàn cảnh sống của mình. Hơn nữa,
không có gì để hướng dẫn họ trong lựa
chọn của họ; không có nguyên tắc hay quy
tắc nào có thể đảm bảo rằng bất kỳ sự lựa
chọn nào là đúng. Mọi người chỉ cần lựa
chọn và chấp nhận hậu quả mặc dù hậu quả
có thể không lường trước được.
b. Về chương trình giảng dạy
Theo chủ nghĩa hiện sinh, chương
trình giảng dạy biểu tượng cho một thế giới
tri thức để khám phá. Kiến thức sẽ cung
cấp nội dung cụ thể để thực hiện phân tích
và phê bình tự do và thiết lập một nền tảng
vững chắc cho nỗ lực sáng tạo cá nhân.
Chủ nghĩa hiện sinh thừa nhận “sự
khác biệt cá nhân” hay còn gọi là nhân vị.
“Nhân vị của con người chính là hiện sinh
106


TRẦN THỊ THẢO

TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GÒN


của nó mang bộ mặt riêng biệt, đặc thù xa
lạ với mọi tính cách phổ quát” (Nguyễn
Tiến Dũng, 2006, tr.78) và nhấn mạnh vào
sự đa dạng chương trình giảng dạy phù hợp
với nhu cầu, khả năng và năng khiếu của cá
nhân. Chương trình giảng dạy cần đáp ứng
nhu cầu trước mắt cũng như lâu dài. Nó
nên được thiết kế để người học có mọi trải
nghiệm tạo nên cuộc sống của mình.
Chương trình giảng dạy nên được lựa
chọn, sắp xếp và sở hữu bởi người học vì
mỗi cá nhân có nhu cầu và sở thích cụ thể
liên quan đến sự tự hoàn thành của mình.
Triết học hiện sinh có thể trang bị cho
người học cơ sở để lựa chọn tính chủ thể,
vì nó cung cấp cho họ cơ hội lớn hơn cho
sự phát triển và thể hiện cá nhân.
Chủ nghĩa hiện sinh nhấn mạnh giáo
dục là để làm cho người học nhận ra những
đặc ân mà cuộc sống dành cho họ để thực
thi quyền tự do. Triết thuyết này cũng đồng
thời phản đối bất kỳ loại hình đào tạo nghề
nào ở giai đoạn sớm vì nó không giúp
người học trở thành một cá nhân tự do, mà
ngược lại đào tạo họ trở thành một dạng
người cụ thể, mặc định nào đó.
Về giáo dục đạo đức, giáo dục đạo đức
phải dựa trên những nguyên tắc đạo đức
mà người ta đã chọn một cách có ý thức
hoặc sắp chọn cho “chính bản thân mình”

vì sự phán xét đạo đức và tính cách cá nhân
có nguồn gốc từ bản thân chủ quan. Điều
này có nghĩa là cá nhân phải được tự do lựa
chọn đạo đức và giá trị của chính mình
trong cuộc sống. Do đó, trong chương trình
giảng dạy của chủ nghĩa hiện sinh cần bao
gồm tất cả những gì hỗ trợ cho sự xác lập
tự do cá nhân đích thực.
c. Về phương pháp giảng dạy
Theo chủ nghĩa hiện sinh, phương
pháp giảng dạy phải phát huy được khả

năng sáng tạo của người học. Trong
phương pháp dạy học, chủ nghĩa hiện sinh
nhấn mạnh vào việc áp dụng các kỹ thuật
hướng dẫn thu hút cảm giác, cảm xúc, sáng
tạo và ý nghĩa sâu sắc hơn của cuộc sống.
Chủ nghĩa hiện sinh ủng hộ phương
pháp giảng dạy Socrates. Đây là phương
pháp đặt câu hỏi, lọc chỉnh câu trả lời, đặt
nhiều câu hỏi hơn và đẩy vấn đề cho đến
khi đạt được kết luận chấp nhận được.
Giáo viên tìm cách thu thập thông tin
từ học sinh bằng các câu hỏi được định
hướng khéo léo. Sinh viên tư duy bằng
cách tìm kiếm câu trả lời cho câu hỏi của
giáo viên. Phương pháp này dựa trên giả
định rằng kiến thức là bẩm sinh nhưng
chúng ta khó có thể rút ra được nếu không
có sự trợ giúp của chuyên gia. Sở dĩ chủ

nghĩa hiện sinh ủng hộ cách tiếp cận
Socratic trong giảng dạy là vì phương pháp
Socrates là cá nhân, dễ gần và người học
đạt được kiến thức và trí tuệ thông qua sự
tương tác lẫn nhau giữa người dạy và
người học. Theo các nhà hiện sinh, bất kỳ
phương pháp nào có khả năng kiểm tra đời
sống nội tâm mà không can thiệp vào tính
chủ quan của cả giáo viên và người dạy
đều được chấp nhận. Phương pháp
Socrates bao gồm “phương pháp nêu vấn
đề”. Mặc dù ủng hộ phương pháp Socrates
nhưng chủ nghĩa hiện sinh không khuyến
khích phương pháp nêu vấn đề vì nó không
mang tính cá nhân, không hiệu quả và
thường có định hướng xã hội. Tuy nhiên,
họ thừa nhận phương pháp vấn đề nếu vấn
đề bắt nguồn từ cuộc sống của người phải
tìm ra giải pháp chứ không chấp nhận nếu
vấn đề xuất phát từ nhu cầu của xã hội.
Chủ nghĩa hiện sinh không ủng hộ
giáo dục đại chúng vì nó dẫn đến việc học
vẹt nghĩa là người học lặp lại những gì
107


SCIENTIFIC JOURNAL OF SAIGON UNIVERSITY

No. 64 (4/2019)


mình đã được dạy trong lớp. Họ cũng từ
chối phương pháp nhóm vì trong hoạt động
nhóm, tính ưu việt của quyết định nhóm
nổi bật hơn so với quyết định cá nhân nên
cơ hội thể hiện sư độc đáo của cá nhân và
sự lựa chọn tự do bị mất. Các nhà hiện sinh
cho rằng trước tiên giáo viên xem học sinh
như những cá nhân và cho phép họ có một
vai trò tích cực trong việc định hình giáo
dục và cuộc sống của chính họ, sống động
trong từng khoảnh khắc, theo Sartre: “Mỗi
khoảnh khắc chỉ xuất hiện để đưa dẫn
những khoảnh khoảnh khắc tiếp theo. Tôi
đem hết lòng mình ra nâng niu từng
khoảnh khắc: tôi biết rằng mỗi khoảnh
khắc là độc nhất, không thể thay thế
được… Tôi cúi mình trên mỗi phút giây,
tôi cố tâm sống cho cùng kiệt nó, chẳng có
gì xảy ra mà tôi không nắm bắt lấy”
(Sartre, 1967, tr. 74)
Đúng là nếu học sinh mang nền tảng
kinh nghiệm đến trường sẽ ảnh hưởng đến
quyết định cá nhân, nhưng nhìn chung, các
nhà hiện sinh cho rằng trường học và tổ
chức của họ là nơi tự do, nơi học sinh được
khuyến khích làm việc vì sự đa dạng trong
giáo dục, không chỉ trong chương trình
giảng dạy, mà trong cả cách dạy học.
Khi người học được khuyến khích theo
đuổi các dự án họ sẽ phát triển các kỹ năng

cần thiết và có được kiến thức cần thiết.
Phương pháp hiện sinh tập trung vào cá
nhân riêng biệt. Học là tự học, tự học chỉ
đạo và bao gồm rất nhiều liên hệ của cá
nhân người học với giáo viên, người liên
quan đến mỗi học sinh một cách cởi mở và
trung thực.
d. Về trường học
Trong giáo dục, chủ nghĩa hiện sinh
tập trung vào cá nhân riêng biệt, tìm kiếm
sự hiểu biết cá nhân về thế giới. Thông qua

cách giải thích này, mỗi cá nhân đặc trưng
cho mình bằng các khái niệm về thực tế,
sự thật, lòng tốt và kết quả là các trường
học tồn tại để giúp người học nhận thức
được bản thân và vị trí của mình trong xã
hội. Trong trường phái hiện sinh thì con
người phi lý trí, tức là bản thân thẩm mỹ,
đạo đức và cảm xúc của con người thể
hiện rõ hơn bản thân lý trí, khoa học.
Những người theo chủ nghĩa hiện sinh
quan tâm nhiều hơn đến phát triển khía
cạnh hiệu quả của con người - khả năng
yêu thương, đánh giá cao và đáp ứng tình
cảm với thế giới xung quanh.
Mục đích của trường học là để nuôi
dưỡng sự tự lập và trau dồi sự tự đánh giá.
Chủ nghĩa hiện sinh cho rằng việc tiếp tục
thử nghiệm sư phạm và tâm lý sẽ chẳng ích

gì nếu đứa trẻ không được nuôi dưỡng trong
một trường học nhân hóa. Nhà trường cần
cung cấp môi trường nơi các cá nhân phát
triển một cách lành mạnh. Trường học chủ
yếu là một nơi để có kinh nghiệm với cuộc
sống từ đó chủ nghĩa hiện sinh, cũng như
chủ nghĩa thực dụng bác bỏ lý thuyết học
giả. Vì vậy, các trường học nên hòa mình
trong cuộc sống của học sinh. Nhà trường
phải là một diễn đàn nơi sinh viên có thể
tham gia đối thoại với các sinh viên và giáo
viên khác để giúp họ làm rõ tiến trình
hướng tới sự hoàn thiện bản thân.
Tư tưởng dân chủ được thực thi trong
trường học. Nó phải là nền dân chủ của
những cá nhân độc đáo coi trọng sự khác biệt
và tôn trọng lẫn nhau. Người học được tham
gia lập kế hoạch và khuyến khích một bầu
không khí tự do đặc trưng cho trường học.
Tuy nhiên, yếu tố môi trường gia đình
được chủ nghĩa hiện sinh đề cao. Các nhà
hiện sinh khẳng định rằng phát triển giáo
dục không thể diễn ra mà không có sự hỗ
108


TRẦN THỊ THẢO

TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GÒN


trợ từ cuộc sống gia đình. Ở trường, trẻ có
ý tưởng trở thành một đối tượng như trong
số nhiều người trong khi ở nhà, nó tự định
hình bản thân mình. Trong gia đình, trẻ tìm
thấy điều kiện thích hợp để bồi dưỡng bản
thân đích thực. Cũng Chính trong gia đình,
trẻ em trải qua tình yêu của cha mẹ và mối
quan tâm thường xuyên đối với lợi ích của
chúng mà nhân loại giúp chúng làm chủ
những khó khăn của cuộc sống hàng ngày.
e. Về vai trò của người thầy
Chủ nghĩa hiện sinh được xem là một
trường phái triết học xem giáo dục là sự
đánh thức lại sự quan tâm của con người
đối với bản thân, nhiệm vụ của giáo viên
là đánh thức sự tự do và trách nhiệm của
học sinh.
Chủ nghĩa hiện sinh là một triết lý dựa
trên quan niệm rằng sự tồn tại của con
người là một kinh nghiệm nội tại, chủ
quan. Nó cho rằng con người có thể vượt ra
ngoài sự tồn tại đơn thuần là bản chất, bằng
cách tích cực tìm cách khám phá tính mục
đích trong sự tồn tại của họ và gán cho ý
nghĩa cá nhân của nó. Họ làm điều này
bằng cách xác thực, lựa chọn độc lập và
bằng cách nhận trách nhiệm về hậu quả của
những lựa chọn trong suốt cuộc đời của họ.
Do đó, các giáo viên phải nhận ra rằng
thực tế được trải nghiệm một cách chủ

quan và sau đó họ phải tôn trọng và nuôi
dưỡng thực tế chủ quan của học sinh. Họ
có thể làm điều này bằng cách áp dụng hai
nguyên tắc hiện sinh trong lớp học của họ.
Đầu tiên, giáo viên phải hứng thú thay
vì ngăn cản sự trải nghiệm xác thực của
học sinh. Thứ hai, họ có thể khuyến khích
học sinh của mình “can đảm để trở thành”
bằng cách nhận ra thực tế chủ quan của học
sinh, bằng cách tôn vinh sự chân thực và
bằng cách khuyến khích học sinh với cơ

hội để trở thành tốt nhất họ có thể.
Giáo viên phải đảm bảo nguyên tắc tự
thực hiện. Đối với điều này, giáo viên phải
thấy rằng cá nhân học sinh liên quan đến
các vấn đề của họ bởi vì người ta không
thể nhận ra chính mình mà không hoàn
thành công việc theo cách riêng của mình.
Vai trò của giáo viên là hỗ trợ để họ sinh
trở thành “bản gốc” và “xác thực”. Giáo
viên cần nỗ lực để thấy năng lực tự quản trị
của học sinh để giúp họ trở nên tự do và
linh hoạt.
Giáo viên phải chủ động trong vai trò
giảng dạy của mình. Tác dụng của thầy đối
với trò phải có “tính sản xuất” chứ không
nên có tính “sao chép” hàng loạt tạo ra một
mẫu người theo mô thức của thầy. Dạy học
trò “làm người là dạy phải vượt qua và vượt

trên ông thầy. Ông thầy nào biết dạy môn
sinh như thế thực đáng gọi là ông thầy cao
cả, ông thầy dạy ta làm người, chớ không
dạy ta làm môn sinh suốt đời” (Trần Thái
Đỉnh, 2015, tr.149). Nietzsche viết: “Giờ
đây ta ra lệnh cho các ngươi hãy đánh mất
ta và tìm chính bản lại diện mục của các
ngươi; chỉ khi nào tất cả các ngươi đều chối
bỏ phủ nhận ta, lúc đó ta mới trở lại cùng
các ngươi” (F.Niezsche, 2003, tr.159).
Giáo viên phải khuyến khích sự sáng
tạo, khám phá của người học, nhưng không
nên cố gắng hướng sinh viên hoặc áp đặt ý
chí của mình lên họ. Trách nhiệm và nghĩa
vụ của giáo viên hiện sinh là rất khó khăn
vì trong cách đối xử với “tha nhân”, người
giáo viên phải giữ sự chủ quan của chính
mình đồng thời nhận ra sự chủ quan của
người khác. Theo Jaspers, nhà giáo dục
thực thụ là người suốt đời tham gia vào quá
trình tự giáo dục thông qua giao tiếp. Giáo
dục chỉ có thể trở nên đúng đắn nếu người
tiếp nhận nó có được khả năng giáo dục
109


SCIENTIFIC JOURNAL OF SAIGON UNIVERSITY

No. 64 (4/2019)


hiện sinh. Các nhà hiện sinh khẳng định
rằng một nền giáo dục tốt sẽ khuyến khích
con người nhận thức được rằng cá nhân
con người là một sinh vật tình cảm và phi
lý hơn là một sinh vật vô cảm và duy lý.
Quan điểm tự do của chủ nghĩa hiện
sinh đề cao tính chủ thể. Đó là những trải
nghiệm độc đáo của riêng cá nhân đến từ
nhận thức của chính bản thân. Nhận thức
này không chỉ giới hạn ở lý trí hoặc trực
giác mà bao gồm các trải nghiệm về cảm
giác, đức tin, hành động có ý thức phản xạ
trước các mối quan hệ. Con người tách
mình ra khỏi tập thể và bắt đầu quá trình
thực hiện những khả năng do chính mình
đề xuất. Cá nhân ý thức được rằng họ phải
chịu trách nhiệm cho những gì đã làm.
Điều này có những đóng góp cho giáo dục,
nó giúp học sinh và giáo viên tạo ra ý
nghĩa trong cuộc sống của họ, khám phá
những ý tưởng về bản thân và thế giới của
họ. Quan niệm này có thể làm sáng tỏ và
mang lại nhiều yếu tố dân chủ hơn cho
giáo dục Việt Nam, đặc biệt là mang đến
cho giáo viên phương pháp giáo dục mới
để đào tạo nên những học sinh có tư chất
độc lập, sẵn sàng thích nghi và ứng phó với
tình huống bất trắc của cuộc sống.
Xã hội hiện đại làm cho con người trở
nên khách quan đến mức mối quan hệ của

con người với bản thân bị phá vỡ. Con
người bị quy đồng trong những mẫu số
chung của những định chế, quy ước của xã
hội, luôn lo lắng và thất vọng. Cá nhân trở
thành con người phiến diện, con người một
chiều kích. Marcuse cho rằng: “khi sự phát
triển của công nghệ hiện đại tạo ra những
“false needs” (những nhu cầu giả tạo), ví dụ
như chủ nghĩa tiêu thụ, và là cái bóng khổng
lồ chế ngự sự đa dạng, tính sáng tạo, cái
nhìn khai phóng trong đời sống con người”.

bản thân thông qua việc học tập nghiêm
ngặt và bền bỉ.
f. Về mối quan hệ giữa giáo viên và
học sinh
Chủ nghĩa hiện sinh nhấn mạnh rằng
mối quan hệ giữa giáo viên với học sinh
của mình phải thân mật, gần gũi, sống
động và cá nhân hơn so với mối quan hệ
hiện có giữa hai người trong trường học
truyền thống. Học sinh trước hết được xem
như một cá nhân, biết tự chịu trách nhiệm
về những suy nghĩ, niềm tin và cách cư xử
của chính mình. Vai trò của giáo viên là
cung cấp các con đường để thăm dò học
sinh, tạo ra một môi trường mà họ có thể tự
do lựa chọn cách ưa thích của riêng mình.
Tất cả các nhà hiện sinh lên án các mối
quan hệ mang tính hình thức. Họ khẳng

định rằng mối quan hệ giữa giáo viên và
học sinh phải rất chặt chẽ liên quan đến sự
thân mật trong việc thông giao. Giáo viên
cũng như học sinh trong mọi trường hợp
phải là một nhân cách tự do của riêng họ.
Giáo viên phải giao thoa hài hòa, người
giáo viên hiện sinh là phải chia tâm hồn
mình thành hai thái cực: ngoan ngoãn và
nổi loạn nhưng giáo viên phải có sự chính
trực, hòa nhập với học sinh thông qua hành
động và thái độ của mình.
2. Ảnh hưởng quan điểm tự do trong
triết lý giáo dục của chủ nghĩa hiện sinh
đối với giáo dục hiện nay
Tuy không trình bày một cách rõ ràng
và có hệ thống về giáo dục nhưng chủ
nghĩa hiện sinh là một triết lý mang tính
giáo dục. Nó thể hiện sự tiếp nối một số
truyền thống của châu Âu và giải quyết các
vấn đề quan trọng của thời điểm đương đại
cho cả triết học và cuộc sống. Việc đánh
thức sự quan tâm của con người đối với
chính mình là đặc điểm chính của giáo dục
110


TRẦN THỊ THẢO

TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GÒN


(H. Marcuse, 2007, tr.7). Hình tượng “một
chiều” ở đây ám chỉ việc con người đang bị
kẹt trong một kiểu sống mòn, khi các
phương tiện truyền thông cùng nhau truyền
tải lặp đi lặp lại một vài thông điệp và
quảng bá một vài giá trị nhất định trong khi
kiến thức ngày nay là đa chiều. Bản chất
con người có nhiều mặt, phức tạp và liên
quan đến sự khác biệt cá nhân. Do đó, quan
điểm tự do trong triết lý giáo dục hiện sinh
góp phần đáp ứng nhu cầu của thời đại mới,
dần dần đưa người học đến tính chủ thể. Sự
quan tâm của chủ nghĩa hiện sinh hướng
đến “con người” - con người chân chính và
đích thực, những lựa chọn của con người
được thực hiện với toàn bộ trách nhiệm về
kết quả của sự lựa chọn để tự do. Hay nói
cách khác tự do của chủ nghĩa hiện sinh
nhấn mạnh đến sự tồn tại của con người,
phẩm chất của từng cá nhân hơn là con
người trong trừu tượng của tự nhiên và thế
giới nói chung. Cho nên, quan điểm giáo
dục của chủ nghĩa hiện sinh hướng đến làm
phong phú trí tuệ của con người để họ có
thể được tôn trọng trong mắt của chính
mình và của những người khác. Chính điều
này thúc đẩy sự sáng tạo của người học, tạo
sự khai phóng trong giáo dục, không rập
khuôn, máy móc.
Tuy nhiên, bên cạnh đó, quan niệm về

tự do trong triết lý giáo dục của chủ nghĩa
hiện sinh cũng có những hạn chế.
Các mục tiêu, chương trình giảng dạy
và phương pháp theo chủ nghĩa hiện sinh là
phụ thuộc vào sự lựa chọn và tự do của cá
nhân. Một chương trình giáo dục như vậy
rất khó để thực thi đại chúng; Mối quan hệ
cá nhân của giáo viên yêu cầu giáo viên
phải có sự hiểu biết sâu sắc về mọi tính
cách của học sinh sẽ đòi hỏi rất nhiều thời
gian và công sức.

Các khái niệm về “tồn tại”, “nhân vị”
vốn dĩ không được chủ nghĩa hiện sinh làm
rõ với tư cách là hệ thống phạm trù, bỡi lẽ
chủ nghĩa hiện sinh luôn từ chối tính hệ
thống. Do đó, không dễ để xây dựng một
chương trình giáo dục khi thuật ngữ cho
các mục tiêu của quá trình giáo dục không
rõ ràng.
Tư tưởng giáo dục hiện sinh hướng tới
phát triển cá nhân quá nhấn mạnh tính cá
nhân đến mực cực đoan cho nên con người
khó đạt được sự hài hòa giữa cá nhân và
cộng đồng. Tuy nhiên, tự do chỉ thực sự
đạt được trong bối cảnh xã hội của cộng
đồng. Giáo dục phải làm cho cá nhân có
trách nhiệm tập thể. Giáo dục là một quá
trình tương tác và con người chỉ có thể có
kinh nghiệm khi làm việc cùng nhau trong

xã hội thông qua đối thoại, tương tác.
3. Kết luận
Trái ngược với thế giới quan có trật tự
đã được trình bày bởi các triết lý truyền
thống, chủ nghĩa hiện sinh cố gắng giải
phóng con người khỏi thế giới các mô
phỏng. Chủ nghĩa hiện sinh làm nổi bật
tâm lý con người, tự do cá nhân và trách
nhiệm cá nhân, mạnh dạn định nghĩa con
người là một cá nhân chịu trách nhiệm tự
nhận mình trong lĩnh vực của đời mình.
Trong nỗ lực tiếp cận ban đầu, mọi người
phải thấy được kết quả rằng họ tạo ra bản
chất và giá trị của mình mà không sử dụng
các tiêu chí bên ngoài. Giáo dục hiện sinh
coi tự do của con người là nhiệm vụ quan
trọng nhất của nó. Giáo viên hiện sinh
nhấn mạnh tâm lý của cá nhân và cố gắng
thúc đẩy sự tự nhận thức và ý thức trách
nhiệm trong học sinh. Thông qua các lựa
chọn có ý nghĩa cá nhân, người học có thể
tự tạo cá tính cho riêng mình. Mục tiêu của
loại hình giáo dục này không thể được xác
111


SCIENTIFIC JOURNAL OF SAIGON UNIVERSITY

No. 64 (4/2019)


định trước, giáo viên và hệ thống giáo dục
không thể áp đặt nó cho học sinh. Mỗi
người chịu trách nhiệm về giáo dục của
riêng mình. Tuy còn nhiều hạn chế như đã
được vạch ra ở trên, tư tưởng tự do của

chủ nghĩa hiện sinh đã tác động đến giáo
dục truyền thống và góp phần từng bước
đưa đến một quan điểm triết học giáo dục
mới, phát huy tối đa vai trò chủ thể của
người học.

TÀI LIỆU THAM KHẢO
E. Muonier. (1970). Những chủ đề triết học hiện sinh. Sài Gòn: Nhị Nùng.
F.Niezsche. (2003). Zarathustra đã nói như thế, (Trần Xuân Kiểm dịch). Hà Nội: Văn hóa
thông tin .
Herbert Marcuse. (2007). One-Dimensional Man. London and New York.
Jean - Paul – Sartre. (1967). Buồn nôn. Sài Gòn: An Tiêm.
Jean - Paul – Sartre. (2014). L'Etre Et Le Neant. France: Tel Gallimard.
Jean Paul Sartre. (2015). Thuyết hiện sinh là một thuyết nhân bản. (Đinh Hồng Phúc dịch).
Hà Nội: Tri Thức.
Nguyễn Tiến Dũng. (2006). Chủ nghĩa hiện sinh Lịch sử và sự hiện diện ở Việt Nam.
Thành phố Hồ Chí Minh: TH TP HCM.
Richard Tarnas. (2008). Qúa trình chuyển biến tư tưởng phương Tây. (Lưu Văn Hy dịch).
Hà Nội: Văn hóa thông tin.
Thomas Flynn. (2018). Chủ nghĩa hiện sinh dẫn luận ngắn. (Đinh Hồng Phúc dịch).
TP.HCM: Tổng Hợp.
Trần Thái Đỉnh. (2015). Triết học hiện sinh. Hà Nội: Văn học.
Ngày nhận bài: 07/3/2019


Biên tập xong: 15/4/2019

112

Duyệt đăng: 20/4/2019



×