Tải bản đầy đủ (.doc) (223 trang)

Quản lý nhà nước về đào tạo đại học theo hình thức vừa làm vừa học trong các học viện thuộc bộ công an

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2 MB, 223 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ NỘI VỤ

HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA

NGUYỄN ĐỨC THUẬN

QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ ĐÀO TẠO ĐẠI HỌC
THEO HÌNH THỨC VỪA LÀM VỪA HỌC TRONG
CÁC HỌC VIỆN THUỘC BỘ CÔNG AN

LUẬN ÁN TIẾN SĨ QUẢN LÝ CÔNG

HÀ NỘI - NĂM 2019


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ NỘI VỤ

HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA

NGUYỄN ĐỨC THUẬN

QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ ĐÀO TẠO ĐẠI
HỌC THEO HÌNH THỨC VỪA LÀM VỪA
HỌC TRONG CÁC HỌC VIỆN THUỘC BỘ
CÔNG AN

Chuyên ngành: Quản lý công


Mã số: 9 34 04 03

LUẬN ÁN TIẾN SĨ QUẢN LÝ CÔNG

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
1. PGS.TS. Ngô Thành Can
2. Thiếu tướng, GS.TS. Lê Minh Hùng

HÀ NỘI - NĂM 2019


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi, tư
liệu nêu trong luận án là trung thực và có nguồn gốc, xuất xứ rõ ràng.

Các kết quả nghiên cứu của luận án chưa được công bố
trong bất cứ công trình khoa học nào.
Hà Nội, ngày

tháng năm 2019

Tác giả luận án


LỜI CÁM ƠN
Để hoàn thành luận án “Quản lý nhà nước về đào tạo đại học theo hình
thức vừa làm vừa học trong các học viện thuộc Bộ Công an” , tác giả xin chân
thành cảm ơn hai nhà khoa học, hai thầy giáo hướng dẫn khoa học là PGS. TS
Ngô Thành Can, Thiếu tướng, GS. TS Lê Minh Hùng đã luôn quan tâm, tận tình,
gợi mở, chỉ dẫn, giúp đỡ về nội dung và phương pháp nghiên cứu, làm việc.


Tác giả xin chân thành cảm ơn các thầy, cô giáo ở Học viện
Hành chính Quốc gia, đặc biệt là các thầy, cô, cán bộ, giảng viên của
Khoa Quản lý nhà nước về Xã hội, Khoa Đào tạo Sau Đại học đã tận
tình giúp đỡ và tạo điều kiện cho tác giả hoàn thành bản luận án này.
Tác giả xin chân thành cảm ơn Cục Đào tạo, Bộ Công an, các thầy,
cô giáo, giảng viên, cán bộ của Học viện An ninh nhân dân, Học viện Cảnh
sát nhân dân đã quan tâm, giúp đỡ, tạo mọi điều kiện về thời gian, kiến
thức, tinh thần, thông tin, số liệu, tài liệu và những góp ý định hướng, sửa
chữa trong quá trình nghiên cứu và hoàn thiện bản luận án này.

Tác giả xin chân thành cảm ơn bạn bè, đồng nghiệp và gia
đình đã giúp đỡ, chia sẻ, động viên tác giả trong cả quá trình học
tập, nghiên cứu, hoàn thành luận án.
Xin chân thành cảm ơn.


MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU

Trang

1. Tính cấp thiết của đề tài

1

2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

3


3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu

4

4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu

5

5. Những đóng góp mới của luận án

7

6. Câu hỏi nghiên cứu và giả thuyết khoa học của luận án

8

7. Kết cấu luận án

8

CHƯƠNG 1:

10

TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
1.1. Các công trình nghiên cứu liên quan đến đào tạo đại học theo hình

10

thức vừa làm vừa học

1.2. Những công trình liên quan đến Quản lý nhà nước về đào tạo đại học

20

theo hình thức vừa làm vừa học nói chung và trong các học viện thuộc
Bộ Công an nói riêng
1.3. Đánh giá chung về tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án

28

Kết luận chương 1

33

CHƯƠNG 2: CƠ SỞ KHOA HỌC QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ ĐÀO

34

TẠO ĐẠI HỌC THEO HÌNH THỨC VỪA LÀM VỪA HỌC
2.1. Lý luận về đào tạo đại học theo hình thức vừa làm vừa học

34

2.2. Lý luận về quản lý nhà nước về đào tạo đại học theo hình thức vừa

42

làm vừa học
2.3. Nội dung quản lý nhà nước về đào tạo đại học theo hình thức vừa


51

làm vừa học
2.4. Các yếu tố ảnh hưởng đến quản lý nhà nước về đào tạo đại học theo

63

hình thức vừa làm vừa học
2.5. Kinh nghiệm quản lý nhà nước về đào tạo đại học theo hình thức vừa

69


làm vừa học tại một số nước trên thế giới
Kết luận chương 2

81

CHƯƠNG 3: THỰC TRẠNG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ ĐÀO

83

TẠO ĐẠI HỌC THEO HÌNH THỨC VỪA LÀM VỪA HỌC
TRONG CÁC HỌC VIỆN THUỘC BỘ CÔNG AN
3.1. Giới thiệu tổng quan về đào tạo đại học theo hình thức vừa làm vừa

83

học trong các Học viện thuộc Bộ Công an
3.2. Phân tích thực trạng quản lý nhà nước về đào tạo đại học theo hình 93

thức vừa làm vừa học trong các Học viện thuộc Bộ Công an
3.3. Đánh giá quản lý nhà nước về đào tạo đại học theo hình thức vừa 118
làm vừa học trong các Học viện thuộc Bộ Công an
Kết luận chương 3

125

CHƯƠNG 4: PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG
QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ ĐÀO TẠO ĐẠI HỌC THEO HÌNH

126

THỨC VỪA LÀM VỪA HỌC TRONG CÁC HỌC VIỆN THUỘC
BỘ CÔNG AN
4.1. Phương hướng tăng cường quản lý nhà nước về đào tạo đại học theo 126
hình thức vừa làm vừa học trong các học viện thuộc Bộ Công an
4.2. Giải pháp tăng cường Quản lý nhà nước về đào tạo đại học theo hình

136

thức vừa làm vừa học trong các học viện thuộc Bộ Công an
Kết luận chương 4

163

KẾT LUẬN
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC ĐÃ CÔNG BỐ

164


TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
ANQG

An ninh quốc gia

CAND

Công an nhân dân

CSGD

Cơ sở giáo dục

CSGDĐH

Cơ sở giáo dục đại học

GD&ĐT

Giáo dục và đào tạo

HL&BDNV

Huấn luyện và bồi dưỡng nghiệp vụ

HVTBCA


Học viện thuộc Bộ Công an

QLĐT

Quản lý đào tạo

QLNN

Quản lý nhà nước

THPT

Trung học phổ thông

TTATXH

Trật tự an toàn xã hội

VLVH

Vừa làm vừa học


DANH MỤC SƠ ĐỒ, BIỂU ĐỒ
STT
1
2
3
4

5
6
7
8
9
10
11
12
13
14
15
16

Sơ đồ/Biểu đồ
Sơ đồ 2.1: Các hình thức đào tạo đại học
Sơ đồ 2.2: Sơ đồ quản lý nhà nước về đào tạo đại học của
nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa
Sơ đồ 3.1: Sơ đồ tổ chức bộ máy quản lý giáo dục đại
học theo hình thức VLVH trong các Học viện thuộc
Bộ Công an
Biểu đồ 2.1: So sánh đào tạo đại học VLVH với tổng quy
mô đào tạo đại học tại Liên Bang Nga
Biểu đồ 3.1: Biến động chỉ tiêu đào tạo đại học VLVH
trong CAND
Biểu đồ 3.2: Đánh giá về công tác phục vụ tài liệu học tập
Biểu đồ 3.3: Chỉ tiêu đào tạo đại học VLVH hàng năm
dành cho các HVTBCA
Biểu đồ 3.4: Đánh giá công tác xây dựng kế hoạch, chính
sách phát triển đào tạo đại học VLVH trong các
HVTBCA

Biểu đồ 3.5: Đánh giá công tác tổ chức thực hiện các văn
bản quy phạm pháp luật
Biểu đồ 3.6: Cơ cấu trình độ đội ngũ giáo viên, cán bộ
quản lý giáo dục
Biểu đồ 3.7: Đánh giá công tác tổ chức cán bộ
Biểu đồ 3.8: Trình độ đội ngũ giáo viên
Biểu đồ 3.9: Trình độ đội ngũ cán bộ quản lý giáo dục
Biểu đồ 3.10: Cơ cấu đào tạo giáo viên, cán bộ quản lý
giáo dục
Biểu đồ 3.11: Đánh giá công tác quản lý, đào tạo, bồi
dưỡng giảng viên, cán bộ quản lý giáo dục
Biểu đồ 3.12: Đánh giá công tác Thanh tra, kiểm tra

Trang
37
76

105
73
85
92
97
98
104
106
110
111
111
113
114

118


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong quá trình phát triển của đời sống kinh tế, xã hội và khoa học
công nghệ của mỗi quốc gia, dân tộc, vị trí và vai trò của giáo dục đào tạo nói
chung và giáo dục đại học nói riêng ngày càng trở nên quan trọng. Khác với
giáo dục phổ thông, giáo dục đại học cung cấp nguồn nhân lực có chất lượng
cho nền sản xuất để tạo ra của cải vật chất và tinh thần của xã hội. Trong thời
đại ngày nay, nền giáo dục đại học ở các nước phát triển đang chuyển mạnh
từ nền giáo dục tinh hoa với quy mô nhỏ sang nền giáo dục đại chúng với quy
mô ngày càng lớn. Ở Việt Nam, song hành với sự phát triển, hội nhập quốc tế
với tư tưởng phát triển giáo dục đại chúng là chính sách “hoàn thiện hệ thống
giáo dục quốc dân theo hướng hệ thống giáo dục mở, học tập suốt đời và xây
dựng xã hội học tập” [145] của Đảng và Nhà nước ta. Theo đó, giáo dục đại
học nước ta những năm gần đây cũng phát triển rất nhanh về cả số lượng cơ
sở đào tạo, quy mô đào tạo và hình thức đào tạo, trong đó đáng chú ý là sự
gia tăng của hình thức đào tạo VLVH trong hệ thống giáo dục quốc dân.

Đối với các trường đại học, học viện trong ngành Công an, với nhu
cầu đào tạo, nâng cao trình độ cho cán bộ, chiến sĩ đáp ứng nhiệm vụ bảo
vệ ANQG và giữ gìn TTATXH trong tình hình mới không nằm ngoài xu thế
đó. Lực lượng CAND luôn được chú trọng xây dựng, phát triển nhanh và
mạnh về cả số lượng và chất lượng đội ngũ cán bộ, chiến sĩ. Hàng năm,
chỉ tiêu tuyển sinh của các trường đại học, cao đẳng, trung cấp chuyên
nghiệp CAND tăng lên đáng kể, cùng với đó là chỉ tiêu tuyển dụng công
dân ngoài ngành, chiến sĩ thực hiện nghĩa vụ ở lại công tác lâu năm rất
nhiều. Điều đó cho thấy nhu cầu đào tạo, bồi dưỡng trong CAND là rất lớn,
trong đó có nhu cầu đào tạo đại học hình thức VLVH trong các HVTBCA.

Chỉ tiêu tuyển sinh đại học VLVH trong các HVTBCA năm học 2015-2016
cao nhất với 17.824 chỉ tiêu, cao gấp 2,8 lần so với hai năm trước đó.

1


Có thể thấy, đào tạo đại học theo hình thức VLVH trong các HVTBCA trong
những năm qua đã gặt hái được nhiều thành công đáng ghi nhận qua việc tăng
nhanh về quy mô đào tạo; không ngừng hoàn thiện và cập nhật chương trình đào
tạo mới, hiện đại; cơ sở vật chất được đầu tư, trang bị; đội ngũ giảng viên tham
gia giảng dạy có trình độ, kinh nghiệm và phương pháp giảng dạy tích cực; chất
lượng đào tạo từng bước được nâng lên, đã và đang đáp ứng được nhu cầu đào
tạo, bồi dưỡng trong CAND. Tuy nhiên, trên thực tế hình thức đào tạo này vẫn còn
nhiều hạn chế như chất lượng đội ngũ giảng viên chưa đồng đều; cơ sở vật chất
kỹ thuật và trang thiết bị dạy học chưa thật sự đồng bộ; chất lượng đào tạo (đầu
vào, đầu ra) chưa thật sự thuyết phục... [41].

Trước thực trạng đó, một vấn đề được đề cập nhiều trong phát triển đào
tạo đại học theo hình thức VLVH là quản lý nhà nước về đào tạo đại học theo
hình thức VLVH. Thông qua quản lý nhà nước mới thực hiện được các chủ
trương, chính sách của quốc gia về phát triển đào tạo đại học theo hình thức
VLVH nhằm góp phần phát triển sự nghiệp giáo dục, đào tạo nói chung, đáp
ứng nhu cầu giáo dục và đào tạo của nhân dân, thực hiện được các mục tiêu
xây dựng xã hội học tập của nhà nước… Quản lý nhà nước nói chung và quản
lý nhà nước về đào tạo đại học theo hình thức VLVH được coi là khâu then
chốt để thực hiện thắng lợi mọi hoạt động giáo dục, đào tạo, trong đó có đào
tạo đại học theo hình thức VLVH. Chính vì vậy, một trong những nguyên nhân
chính dẫn đến những hạn chế về đào tạo đại học theo hình thức VLVH trong
các HVTBCA là do QLNN đối với loại hình đào tạo này vẫn còn nhiều bất cập
và khoảng trống, ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng đào tạo cũng như hiệu

lực, hiệu quả của hoạt động QLNN: Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật, văn
bản hành chính của các cơ quan QLNN về đào tạo đại học giữa Bộ GD&ĐT, Bộ
Công an còn chồng chéo, chưa có sự thống nhất; bộ máy QLNN, quản lý giáo
dục đại học VLVH trong ngành Công an vẫn còn chưa

2


được đầu tư, tuyển chọn kỹ lưỡng; cơ chế và phương pháp quản lý
chưa theo kịp quy mô và tốc độ phát triển của hình thức đào tạo
VLVH; nguồn lực tài chính và cơ sở vật chất phục vụ QLNN đối với
loại hình đào tạo này trong CAND còn chưa được đầu tư thích đáng;
công tác thanh tra, kiểm tra chưa được thực hiện thường xuyên, đi
vào chiều sâu và chưa có sự liên kết, liên thông giữa các cấp…
Trong khi đó, những vấn đề lý luận về QLNN về đào tạo đại học VLVH
hiện nay còn tản mạn và chưa được chuyên sâu. Chưa có công trình nghiên
cứu nào chỉ ra sự khác nhau giữa đào tạo đại học theo hình thức VLVH với
đào tạo đại học theo hình thức chính quy, giữa đào tạo đại học theo hình thức
VLVH trong và ngoài lực lượng Công an; chưa có công trình nào phân tích rõ
nội dung và đặc điểm QLNN về đào tạo đại học theo hình thức VLVH; những
bất cập trong QLNN về đào tạo đại học theo hình thức VLVH trong các
HVTBCA; chưa đề xuất được hệ thống các giải pháp nhằm tăng cường QLNN
về đào tạo đại học theo hình thức VLVH trong các HVTBCA.

Vì những lý do trên, nghiên cứu sinh lựa chọn đề tài “Quản lý
nhà nước về đào tạo đại học theo hình thức vừa làm vừa học trong các
học viện thuộc Bộ Công an” cho luận án tiến sĩ quản lý hành chính
công của mình. Qua đó, nghiên cứu sinh mong muốn tìm ra những giải
pháp tăng cường QLNN về đào tạo đại học theo hình thức VLVH trong
các HVTBCA, góp phần đổi mới chất lượng đào tạo, xây dựng lực

lượng Công an ngày càng chính quy, tinh nhuệ, đáp ứng được yêu cầu
ngày càng cao của thực tiễn bảo vệ ANQG và giữ gìn TTATXH.

2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu lý luận về QLNN đối với đào tạo đại học hình thức VLVH để

có cơ sở đánh giá thực trạng và đề xuất các giải pháp tăng cường
QLNN về đào tạo đại học hình thức VLVH trong các HVTBCA.
3


2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để thực hiện mục đích nghiên cứu trên, đề tài có nhiệm vụ:
- Nghiên cứu tổng quan về tình hình nghiên cứu của các tác
giả trong và ngoài nước về những vấn đề liên quan đến luận án.
- Làm rõ lý luận đào tạo đại học theo hình thức VLVH trong ngành
Công an và QLNN về hình thức đào tạo này thông qua nghiên cứu nội
dung các khái niệm: đào tạo đại học theo hình thức VLVH, đào tạo đại
học theo hình thức VLVH trong ngành Công an, QLNN về đào tạo đại
học theo hình thức VLVH trong ngành Công an, phân tích vai trò, mục
đích và xác định cụ thể các yếu tố tác động và yếu tố cấu thành QLNN
về đào tạo đại học theo hình thức VLVH trong các HVTBCA.

- Phân tích, đánh giá thực trạng QLNN về đào tạo đại học theo
hình thức VLVH trong các HVTBCA; chỉ ra những thành tựu, hạn
chế, nguyên nhân của những hạn chế đó để làm cơ sở cho việc đề
xuất các giải pháp khắc phục hiệu quả.
- Nghiên cứu, hệ thống hóa những quan điểm, chủ trương,
phương hướng của Đảng, Nhà nước, của Ngành Công an, dự báo

phương hướng phát triển của đào tạo đại học theo hình thức VLVH
trong CAND những năm tới. Đề xuất các giải pháp tăng cường QLNN
về đào tạo đại học theo hình thức VLVH trong các HVTBCA.

3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài luận án là các hoạt động QLNN về đào

tạo đại học theo hình thức VLVH trong các HVTBCA.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi nội dung nghiên cứu: Luận án nghiên cứu QLNN về đào tạo đại
học theo hình thức VLVH trong các HVTBCA, tập trung ở một số nội dung:

4


Công tác xây dựng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chính sách phát triển
đào tạo đại học theo hình thức VLVH trong các HVTBCA; hệ thống văn bản
QLNN về đào tạo đại học theo hình thức VLVH ở Việt Nam nói chung và ở
trong các HVTBCA nói riêng; hệ thống tổ chức bộ máy QLNN về đào tạo đại
học theo hình thức VLVH ở Việt Nam và ở trong các HVTBCA; đào tạo, bồi
dưỡng, quản lý giảng viên và cán bộ quản lý giáo dục đại học theo hình thức
VLVH; thanh tra, kiểm tra về giáo dục đại học theo hình thức VLVH.

- Phạm vi không gian: Nghiên cứu trong hai HVTBCA: Học
viện An ninh nhân dân, Học viện Cảnh sát nhân dân.
- Phạm vi thời gian: đề tài tập trung nghiên cứu công tác QLNN về đào
tạo đại học theo hình thức VLVH trong các HVTBCA từ năm 2010 đến nay.

4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu

4.1. Phương pháp luận
Việc nghiên cứu luận án dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ
nghĩa Mác-Lênin về duy vật biện chứng, nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa
Mác-Lênin; những tư tưởng, lời dạy của chủ tịch Hồ Chí Minh đối với
CAND; tư tưởng Hồ Chí Minh, các quan điểm của Đảng và Nhà nước về
giáo dục đào tạo nói chung và giáo dục đại học nói riêng; những quan
điểm, chủ trương, chính sách của Đảng ủy Công an Trung ương về giáo
dục đại học trong CAND, đào tạo đại học theo hình thức VLVH trong các
HVTBCA và công tác QLNN về giáo dục đại học trong CAND hiện nay.

4.2. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện mục tiêu, nhiệm vụ nghiên cứu của luận án,
nghiên cứu sinh đã sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau:
- Phương pháp phân tích và tổng hợp: là phương pháp phân tích tài liệu
được sử dụng xuyên suốt trong quá trình nghiên cứu và hoàn thiện luận án để
giải quyết các vấn đề mang tính lý luận, cơ sở khoa học như: các quan niệm,

5


khái niệm, đặc điểm, nguyên tắc của QLNN về đào tạo đại học theo hình thức
VLVH, đặc trưng, đặc điểm riêng của đào tạo đại học VLVH, đào tạo đại học
VLVH trong CAND và công tác QLNN về đào tạo đại học VLVH trong CAND;
đánh giá thực trạng của công tác đào tạo đại học theo hình thức VLVH trong
các HVTBCA, thực trạng QLNN về đào tạo đại học theo hình thức VLVH trong
các HVTBCA; chỉ ra ưu điểm, hạn chế và nguyên nhân.

- Phương pháp so sánh được sử dụng để có sự so sánh, đối
chiếu lý luận của Việt Nam và thế giới về các thuật ngữ được nghiên
cứu trong luận án như: khái niệm về đào tạo đại học, đào tạo đại học

theo hình thức VLVH, khái niệm QLNN về đào tạo đại học theo hình
thức VLVH; so sánh kết quả đạt được trong QLNN qua các năm.

- Phương pháp hệ thống, thống kê, khảo sát để đưa ra các số
liệu thực tế, các kết quả nghiên cứu phản ánh thực trạng QLNN về
đào tạo đại học VLVH trong các HVTBCA.
- Phương pháp dự báo được sử dụng để đưa ra những dự báo về
phương hướng phát triển của đào tạo đại học theo hình thức VLVH trong
CAND trong tương lai sau khi đã nghiên cứu cơ sở khoa học và thực trạng
công tác QLNN về đào tạo đại học theo hình thức VLVH trong các HVTBCA.
Phương pháp này góp phần làm cơ sở để đề xuất các giải pháp tăng cường
công tác QLNN về đào tạo đại học theo hình thức VLVH trong các HVTBCA.

- Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi: Trong quá trình khảo
sát thực tế, tác giả đã sử dụng phiếu khảo sát được diễn đạt trong
phần Phụ lục của luận án. Trong đó có:
* Phiếu khảo sát sinh viên đại học theo hình thức VLVH của Học viện
An ninh nhân dân và Học viện Cảnh sát nhân dân liên kết mở tại Công an
các tỉnh Sơn La, Hưng Yên, Nam Định, Bắc Kạn, Công an thành phố Hà Nội
trong thời gian tháng 10/2017 - tháng 9/2018 với tổng số 211 phiếu.

6


* Phiếu khảo sát cán bộ quản lý giáo dục, giảng viên của Học
viện An ninh nhân dân và Học viện Cảnh sát nhân dân từ tháng
10/2017 - tháng 9/2018 với tổng số 107 phiếu.
- Phương pháp chuyên gia: được sử dụng để tranh thủ ý kiến của
các nhà khoa học và các chuyên gia thực tiễn công tác tại các cơ quan
như: Học viện An ninh nhân dân và Học viện Cảnh sát nhân dân, Cục

Đào tạo - Bộ Công an để xác định các nhiệm vụ nghiên cứu, đề xuất các
giải pháp, kiến nghị. Sử dụng phương pháp này, tác giả đã trực tiếp
phỏng vấn một số lãnh đạo, cán bộ các đơn vị quản lý giáo dục tại Học
viện An ninh nhân dân, Học viện Cảnh sát nhân dân, Cục Đào tạo - Bộ
Công an trong thời gian từ tháng 10/2017 - tháng 3/2019.

5. Những đóng góp mới của
luận án 5.1. Về lý luận
Luận án đã hệ thống hóa lý luận và thực tiễn QLNN về đào tạo đại học
theo hình thức VLVH. Đặc biệt, luận án đã chỉ ra được các đặc điểm khác biệt
giữa đào tạo đại học theo hình thức chính quy với đào tạo đại học theo hình
thức VLVH; đào tạo đại học VLVH trong ngành Công an với đào tạo đại học
VLVH ngoài ngành Công an; phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến QLNN về đào
tạo đại học theo hình thức VLVH trong các HVTBCA. Từ đó làm cơ sở cơ sở
nghiên cứu thực trạng và xây dựng các giải pháp tăng cường hoạt động
QLNN về đào tạo đại học theo hình thức VLVH trong các HVTBCA.

5.2. Về thực tiễn
Luận án đã đánh giá một cách khách quan và toàn diện về thực
trạng QLNN về đào tạo đại học theo hình thức VLVH trong các
HVTBCA. Xác định được các rào cản, bất cập, khó khăn khi triển khai
các hoạt động QLNN về đào tạo đại học theo hình thức VLVH và
phân tích được các nguyên nhân của khó khăn đó tại các HVTBCA.
Luận án xây dựng được hệ thống các biện pháp tăng cường hoạt động
QLNN thích ứng với đặc điểm của đào tạo hình thức VLVH, có khả năng ứng

7


dụng trong các CSGDĐH trong lực lượng vũ trang nói chung và

các HVTBCA nói riêng.
Kết quả nghiên cứu của luận án sẽ góp phần thay đổi nhận thức và hành
động trong hoạt động thực tiễn của các nhà quản lý, các cán bộ công chức,
viên chức và các đối tượng khác tham gia hoặc có liên quan vào công tác
QLNN về đào tạo đại học theo hình thức VLVH trong các HVTBCA.

* Triển vọng ứng dụng kết quả nghiên cứu
- Luận án sẽ góp phần bổ sung lý luận QLNN về đào tạo đại
học theo hình thức VLVH.
- Luận án có thể làm tài liệu tham khảo cho việc học tập và nghiên
cứu khoa học, là nguồn tư liệu có giá trị để xây dựng và ban hành các
chính sách, chiến lược và hoàn thiện bộ máy QLNN về giáo dục và đào
tạo nói chung cũng như giáo dục đại học thuộc Bộ Công an nói riêng.

6. Câu hỏi nghiên cứu và giả thuyết khoa học của luận án
6.1. Câu hỏi nghiên cứu của luận án
Để nghiên cứu đề tài luận án cần giải quyết được những câu
hỏi nghiên cứu sau:
- QLNN về đào tạo đại học theo hình thức VLVH trong các HVTBCA
được nghiên cứu trên cơ sở lý luận nào? Nó có tính đặc trưng như thế nào?

- Có những nội dung QLNN nào về đào tạo đại học theo hình
thức VLVH? Những yếu tố nào ảnh hưởng đến công tác QLNN về
đào tạo đại học theo hình thức VLVH?
- Thực trạng QLNN về đào tạo đại học VLVH trong các
HVTBCA hiện nay như thế nào? Có ưu điểm, hạn chế nào?
Nguyên nhân của những hạn chế là gì?
- Những phương hướng và giải pháp nhằm tăng cường
QLNN về đào tạo đại học VLVH trong các HVTBCA là gì?
6.2. Giả thuyết khoa học của luận án

Hiện nay, quá trình triển khai hoạt động QLNN về đào tạo đại học theo

8


hình thức VLVH trong các HVTBCA đang gặp phải nhiều khó khăn, bất
cập. Nếu nghiên cứu đề xuất được giải pháp khả thi, có tính thực tiễn
cao, phù hợp với các điều kiện giáo dục đào tạo trong CAND thì có thể
giúp tăng cường QLNN về đào tạo đại học VLVH trong các HVTBCA.
Đồng thời, đó sẽ là tiền đề và điều kiện đảm bảo cho chất lượng đào tạo
đại học nói chung, đào tạo đại học VLVH nói riêng trong CAND, góp
phần nâng cao chất lượng nguồn nhân lực của ngành Công an.
Nếu các nội dung xây dựng chính sách, kế hoạch phát triển ổn
định, lâu dài; hệ thống văn bản quy phạm pháp luật được hoàn thiện,
thống nhất từ trung ương đến cơ sở; tổ chức bộ máy QLNN được kiện
toàn, thống nhất; xây dựng được đội ngũ cán bộ quản lý giáo dục,
giảng viên có trình độ cao, khả năng chuyên môn tốt, nhiệt huyết; công
tác thanh tra, kiểm tra được chú trọng, thường xuyên, công bằng thì
công tác QLNN về đào tạo đại học theo hình thức VLVH trong các
HVTBCA sẽ góp phần vào việc đa dạng hóa các hướng phát triển giáo
dục đại học của Chính phủ nói chung và của ngành Công an nói riêng.

7. Kết cấu luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo,
phụ lục, luận án kết cấu thành 4 chương, bao gồm:
Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án

Chương 2: Cơ sở khoa học quản lý nhà nước về đào tạo đại
học theo hình thức vừa làm vừa học
Chương 3: Thực trạng quản lý nhà nước về đào tạo đại học theo

hình thức vừa làm vừa học trong các học viện thuộc Bộ Công an

Chương 4: Phương hướng và giải pháp tăng cường quản lý
nhà nước về đào tạo đại học theo hình thức vừa làm vừa học
trong các Học viện thuộc Bộ Công an

9


CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
1.1. Các công trình nghiên cứu liên quan đến đào tạo đại học
theo hình thức vừa làm vừa học
1.1.1. Các công trình trên thế giới
Luận án Педагогические условия повышения качества учебной
деятельности слушателей факультета заочного обучения вуза МВД
России (dịch là: Điều kiện sư phạm để nâng cao chất lượng giáo dục đại
học không chính quy của trường đại học thuộc Bộ Nội vụ, Liên bang Nga)
của tiến sĩ Дремов Федор Петрович bảo vệ năm 2003 tại Барнаульский
юридический институт МВД России - Đại học Luật Barnaul của Bộ Nội
vụ, Liên bang Nga đã chỉ ra rằng: thời điểm năm 2000 - 2002, số lượng sinh
viên theo học đại học hình thức VLVH trong trường đại học Bộ Nội vụ, Liên
Bang Nga lớn hơn 20% so với số sinh viên theo học đại học chính quy, đại
học toàn thời gian. Trong đó khẳng định rõ chất lượng của quá trình đào
tạo là tỉ lệ giữa mục tiêu đào tạo và kết quả đào tạo. Một chỉ số về chất
lượng của hoạt động giáo dục là việc tạo ra một thế hệ mới với các chuyên
gia có kỹ năng hoạt động sáng tạo độc lập [146].
Luận án Профессиональная подготовка слушателей заочной формы
обучения в вузах МВД России (dịch là: Đào tạo đại học không chính quy tại
các trường đại học của Bộ Nội vụ, Liên bang Nga) của tiến sĩ Алексеев

Евгений

Владимирович

bảo

vệ

năm

2007

tại

trường

Волженский

государственный инженерно-педагогический университет - Đại học Sư
phạm kỹ thuật quốc gia Volzhensky khẳng định hệ thống đào tạo của Bộ Nội
vụ Liên bang Nga là lớn nhất trong các Bộ, Ngành của nước này. Trong 23
trường đại học của Bộ Nội vụ Liên bang với 03 văn phòng đại diện và 38 phân
hiệu tại các địa phương đang đào tạo tổng số 57.000 sinh viên hệ đào tạo
VLVH, chiếm 60% toàn bộ số sinh viên của các trường. Đào tạo đại học hệ
VLVH dành cho cảnh sát Liên bang của các trường Bộ Nội vụ bao gồm các

10


chuyên ngành: Luật học, Thực thi pháp luật, Chuyên môn pháp lý, An toàn thông

tin, Kỹ thuật truyền thanh Radio, QLNN và quản lý đô thị. Trong đó phổ biến nhất
là chuyên ngành Luật học và Thực thi pháp luật. Sinh viên của hệ đào tạo hình
thức VLVH đều là các cán bộ, chiến sĩ của cảnh sát Liên bang Nga bao gồm
những người hoàn thành thực hiện nghĩa vụ được giữ lại có kinh nghiệm công
tác từ 03 đến 10 năm, trong độ tuổi từ 22 đến 30, giữ vị trí chỉ huy trung và cơ sở;
những cán bộ đã tốt nghiệp đại học các chuyên ngành không phải luật, có kinh
nghiệm công tác từ 5 đến 15 năm, độ tuổi từ 25 đến 35, giữ vị trí chỉ huy trung và
cao cấp; khoảng từ 10 đến 15% là những cán bộ đã tốt nghiệp các trường trung
học Cảnh sát có kinh nghiệm làm việc trong các cơ quan của Bộ Nội vụ từ 02 đến
05 năm, độ tuổi từ 22 đến 25. Cấu trúc của hệ thống đào tạo đại học hình thức
VLVH bao gồm: mục tiêu đào tạo, người học/sinh viên, hình thức tổ chức đào tạo,
nội dung đào tạo, môi trường đào tạo và giảng viên, cán bộ quản lý. Chương trình
đào tạo đại học hình thức VLVH ở các chuyên ngành có thành phần các môn học
giống như chương trình đào tạo đại học chính quy, chỉ khác ở thời lượng giờ lên
lớp, giờ lý thuyết [144].

Trong báo cáo “VietNamese Higher Education: Crisis And Response”
Giáo dục đại học tại Việt Nam của hai tác giả Thomas J. Vallely, Ben Wilkinson
thuộc Harvard Kennedy School năm 2008 đã đánh giá Việt Nam không có một
trường đại học nào có chất lượng được công nhận trên thế giới hay được ghi
nhận trên bất kỳ bảng xếp hạng các đại học hàng đầu tại Châu
Á Về mặt này, Việt Nam thua kém ngay cả so với các quốc gia khác ở Đông
Nam Á như Thái Lan, Indonesia, Philipines,… Các trường đại học Việt Nam
chưa đào tạo được một lực lượng lao động có đủ trình độ đáp ứng cho nhu
cầu kinh tế và xã hội Việt Nam. Các cuộc khảo sát do các cơ quan có liên hệ
với nhà nước cho thấy có tới 50% sinh viên Việt Nam tốt nghiệp đại học xong
đã không thể tìm được việc làm phù hợp với chuyên môn của họ, chứng tỏ có
một khoảng cách to lớn giữa giảng đường và thị trường lao động.

Sau đó, báo cáo đưa ra một trong những nguyên nhân của sự khủng


11


hoảng về chất lượng đào tạo đại học tại Việt Nam là do sự hạn chế về quyền
tự chủ của CSGDĐH thống quản lý tập trung cao độ. Chính nhà nước quyết
định con số sinh viên được tuyển nhận, và mức lương của các giảng viên (đối
với các trường công lập). Ngay cả những quyết định về điều hành cũng như
phát triển CSGD đều lệ thuộc vào sự kiểm soát trung ương [136].
Trong báo cáo Hệ thống giáo dục đại học Việt Nam tại diễn đàn Các nhà
lãnh đạo châu Á năm 2010 tại trường đại học giáo dục Hong Kong của tiến sĩ
Hồ Thanh Mỹ Phương, giáo sư Dennis Berg đã chỉ ra rằng, tại Việt Nam, toàn
bộ hệ thống giáo dục, bao gồm cả giáo dục bậc cao, đã được chính phủ trung
ương kiểm soát ở cấp độ vi mô, đặc biệt là Bộ Giáo dục và Đào tạo (MOET) và
các bộ liên quan khác. Đã và đang có nhiều thách thức lãnh đạo giáo dục ở
Việt Nam; nhưng thách thức lớn nhất có thể được xác định là hệ thống kiểm
soát tập trung dẫn đến tình trạng thiếu tự chủ thể chế, chống lại sự thay đổi ở
tất cả các cấp tổ chức và thiếu nhân lực có trình độ cao [60].

Báo cáo “Vietnam: Higher Education and Skills for Growth - Việt
Nam: Giáo dục đại học và kỹ năng để phát triển” của Vụ phát triển con người

khu vực Đông Á Thái Bình Dương, Ngân Hàng thế giới năm 2008 đã nêu ra
sáu yếu tố then chốt trong khung quản lý một hệ thống giáo dục đại học là:
Phân cấp và tự chủ; Trách nhiệm giải trình và chất lượng đảm bảo; khuôn khổ

quy định cho khu vực tư nhân; Khung R & D (nghiên cứu và phát triển
research & development); Khung liên kết đại học - doanh nghiệp; Thông tin.
Qua đó báo cáo đánh giá một trong những thách thức đối với giáo dục đại
học Việt Nam là mở rộng hệ thống đào tạo để đáp ứng nhu cầu học tập ngày càng

tăng của xã hội. Vẫn còn tồn tại thực tế là người dân tộc thiểu số, người sống tại
những vùng sâu, vùng xa, vùng khó khăn vẫn chưa có nhiều cơ hội để được tiếp
cận với nền giáo dục đại học tiên tiến nhằm nâng cao trình độ, khả năng lao động.
Hiện nay, tính tự chủ trong hoạt động đào tạo của các trường đại học Việt Nam
vẫn chưa cao, Bộ Giáo dục và Đào tạo, các Bộ vẫn làm thay công việc của các
trường là ban hành các quy chế, quy định, quyết

12


định trong quản lý nhà nước về đào tạo đại học, ví dụ như quyết định về chỉ
tiêu tuyển sinh của mỗi trường hàng năm, các quy chế đào tạo, tuyển sinh,
quy định về quản lý ngân sách, chi tiêu, nhân sự, pháp lệnh công chức [134].
Báo cáo tổng quan “Việt Nam 2035: Hướng tới Thịnh vượng, Sáng tạo,
Công bằng và Dân chủ” của nhóm Ngân hàng thế giới kết hợp với Bộ Kế
hoạch và đầu tư đánh giá giáo dục đại học của Việt Nam chưa đáp ứng nhu
cầu học tập và tiếp cận các chương trình đào tạo chất lượng cao của người
học. Hệ thống còn chậm thay đổi và thiếu tính sáng tạo. Các trường đại học
công lập gặp nhiều khó khăn do chưa được tự chủ trên thực tế về thiết kế hay
điều chỉnh chương trình giảng dạy, huy động nguồn thu hoặc phát triển đội
ngũ giảng viên chuyên trách và thực sự có chất lượng cao. Lương giảng viên
(bị quy định chặt chẽ đối với các cơ sở công lập) còn bất hợp lý, gây khó khăn
cho việc thu hút nhân tài của các cơ sở đào tạo và buộc giảng viên thường
phải giảng dạy thêm bên ngoài, kể cả các lĩnh vực ngoài chuyên môn chính.
Đại học tư thục được tự chủ hơn trong việc xây dựng chương trình giảng dạy
và học phí nhưng lại không có khả năng tăng chỉ tiêu tuyển sinh [58].
Đề tài khoa học “Comparative Study of Part-Time and Full-Time
Students’Emotional

Intelligence,


Psychological

Well-Being

and

Life

Satisfactions in the Era of New Technology” (Nghiên cứu so sánh sự thông
minh, tâm lý tốt và sự hài lòng trong cuộc sống giữa sinh viên hệ chính quy và
vừa làm vừa học trong kỷ nguyên công nghệ mới) của các tác giả Farhana
Wan Yunus, Sharifah Muzlia Syed Mustafa, Norsidah Nordin, Melissa Malik tại
diễn đàn Châu Á về Environment-Behaviour Studies (Môi trường – Thái độ học
tập) tổ chức tại trường đại học Chung-Ang, Seoul, Hàn Quốc năm 2014 đã
khẳng định: Với sự phát triển nhanh chóng của công nghệ, môi trường giáo
dục và học tập ngày nay không còn bị giới hạn trong lớp học truyền thống
nữa. Giờ đây sinh viên có thể được giáo dục điện tử bằng phương pháp học
từ xa, điều đó có nghĩa là, họ có thể chọn đăng ký vào một chương trình học
bán thời gian (VLVH), từ xa hoặc chương trình học trực

13


tuyến nơi họ gặp các giảng viên của mình trên Internet mà không cần rời
khỏi nhà. Phương pháp giảng dạy này ngày càng phổ biến ở nhiều quốc
gia trên thế giới. Đây là điều kiện thuận lợi để đào tạo đại học theo hình
thức VLVH phát triển nhanh chóng. Các CSGDĐH cần nắm bắt xu thế phát
triển của giáo dục đại học và tận dụng sự phát triển của khoa học công
nghệ để có định hướng phát triển giáo dục đại học VLVH [110].

Trong bài viết “Formal and Non-Formal Education in the New Era” (giáo
dục chính quy và không chính quy trong kỷ nguyên mới) của tác giả Arif Shala
đăng trên tạp chí khoa học Action Researcher in Education số tháng 7/2016
nhấn mạnh rằng trong thời đại bùng nổ công nghệ thông tin, ứng dụng thành
tựu phát triển của khoa học vào giáo dục đại học càng trở nên cần thiết và là
nhu cầu tất yếu. Các công nghệ mới mang đến khả năng không giới hạn để
giúp việc học hiệu quả hơn, hấp dẫn và toàn diện hơn. Công nghệ - nếu được
kết hợp trong các môi trường giáo dục chính thức - có thể gia tăng hiệu quả
học tập bằng cách làm cho nó sáng tạo và đổi mới hơn. Sự phát triển của
khoa học công nghệ được áp dụng vào giáo dục đại học làm cho người học
có thể học mọi lúc, mọi nơi, dẫn đến sự phân biệt giữa chương trình đào tạo
chính quy và không chính quy sẽ mờ nhạt dần. Có thể thấy rằng sự chuyển
đổi từ giáo dục chính quy sang giáo dục không chính quy ngày càng rõ ràng.
Đó cũng là xu hướng phát triển của giáo dục đại học Châu Âu trong những
năm tiếp theo và đòi hỏi các CSGDĐH phải đổi mới tư duy quản lý, chương
trình, mục tiêu đào tạo, phương pháp giảng dạy của đội ngũ giảng viên [99].
Báo cáo cập nhật giáo dục đại học Vietnam Education Foundation tháng
7/2014 cho rằng việc các đơn vị giảng dạy thuộc trường đại học, các giảng viên và
cán bộ quản lý giáo dục, hay các trường đại học nói chung chưa được trao đầy
đủ quyền tự chủ được coi là một trở ngại lớn cho sự phát triển của các trường
đại học tại Việt Nam. Mặc dù đã đạt được nhiều tiến bộ đáng kể, song việc chưa
được hoàn toàn tự chủ vẫn cản trở những chuyển biến tích cực trong phương
pháp giảng dạy, chương trình học và tất cả những mặt khác [64].

14


1.1.2. Các công trình trong nước
Luận án tiến sĩ “Quản lý quá trình đào tạo đại học VLVH theo tiếp cận
đảm bảo chất lượng” do nghiên cứu sinh Vũ Duy Hiền thực hiện năm 2013 tại

Đại học Giáo dục, Đại học Quốc gia Hà Nội đã khẳng định đại chúng hóa giáo
dục đại học là xu thế phát triển tất yếu của thời đại. Bên cạnh đào tạo đại học
chính quy chỉ phát triển tới một chừng mực nhất định thì đào tạo đại học
không chính quy sẽ ngày càng mở rộng. Đào tạo đại học VLVH là giải pháp
học đại học cho người lao động. Do vậy, đào tạo đại học VLVH là tiền đề cần
thiết giúp đổi mới triết lý học một lần trong đời sang triết lý học thường
xuyên, học suốt đời trong xã hội học tập, giúp người lao động có cơ hội học
tập nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, đạt văn bằng phù hợp với yêu
cầu, đồng thời là một trong những giải pháp hữu hiệu nhằm mở rộng quy mô
đào tạo đại học trong điều kiện các nguồn lực tài chính của Nhà nước đầu tư
cho giáo dục đại học còn hạn hẹp.

Quản lý quá trình đào tạo đại học VLVH theo tiếp cận đảm bảo
chất lượng chính là sự chuyển giao trách nhiệm về chất lượng từ cơ
quan quản lý cấp trên hay bên ngoài cho CSGDĐH có đào tạo đại học.
Nhưng thực tế các CSGDĐH đang buông lỏng quản lý quá trình đào tạo,
chạy theo số lượng, chú trọng nhiều đến việc mở rộng quy mô, duy trì
quản lý quá trình đào tạo theo cách truyền thống, dựa trên tiếp cận
kiểm soát chất lượng dẫn đến kết quả đào tạo không cao [30].
Nghiên cứu sinh Phạm Thị Thơm trong luận án tiến sĩ chuyên ngành
Khoa học quản lý “Phân tích một số nhân tố tác động đến chất lượng giáo dục
đại học hệ vừa làm vừa học trong các khối ngành kinh tế, quản lý và quản trị
kinh doanh ở Việt Nam” bảo vệ năm 2017 tại trường Đại học Kinh tế quốc dân
đã đưa ra quan điểm riêng về khái niệm giáo dục đại học, giáo dục đại học hệ
vừa làm vừa học, chất lượng của loại hình giáo dục này trong khối ngành kinh
tế, quản lý và quản trị kinh doanh. Tác giả đánh giá thực trạng chất lượng giáo
dục đại học hệ vừa làm vừa học khối ngành kinh tế, quản lý

15



và quản trị kinh doanh đã đóng góp một phần không nhỏ và sự phát triển xã
hội, giải quyết được vấn đề thiếu cán bộ quản lý tại các vùng miền núi, trung
du, vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn nhưng chất lượng giáo dục đại
học hệ vừa làm vừa học cũng đang là vấn đề được xã hội đánh giá không cao,
còn nhiều bất cập. Đánh giá nguyên nhân, tác giả cho rằng đó là do công tác
quản lý ở một số trường còn lỏng lẻo, bộc lộ yếu kém; các hiện tượng gian
lận, tiêu cực chưa bị phát hiện, xử lý kịp thời, thiếu cương quyết; đào tạo còn
mất cân đối về cơ cấu ngành, nghề, trình độ, hình thức; các trường thành lập
mới chưa thực hiện đúng cam kết với nhà nước và xã hội về xây dựng các
yếu tố đảm bảo chất lượng; năng lực quản lý của Ban Giám hiệu còn yếu, bộc
lộ nhiều hạn chế. Từ đó tác giả đưa ra phương hướng và các giải pháp nâng
cao chất lượng giáo dục đại học hệ vừa làm vừa học trong khối ngành kinh tế,
quản lý và quản trị kinh doanh ở Việt Nam [71].

Luận án tiến sĩ Quản lý Giáo dục “Quản lý đào tạo trong các trường
đại học Việt Nam theo tiếp cận quản lý theo kết quả (RBM)” của nghiên cứu
sinh Trần Văn Tùng bảo vệ năm 2013 tại Đại học Giáo dục, Đại học quốc
gia Hà Nội đã cho thấy nhu cầu đổi mới công tác quản lý đào tạo trong các
trường Đại học Việt Nam hiện nay là nhu cầu xã hội và là nhu cầu cấp thiết
trong quá trình phát triển. Luận án chỉ ra yếu điểm cần khắc phục trong
QLĐT là quy trình đào tạo chưa đồng bộ, còn khép kín trong trường từ đầu
vào đến đầu ra và kết quả đào tạo còn chưa đáp ứng theo yêu cầu xã hội,
chưa thực sự gắn bó với lợi ích xã hội. Nhu cầu đổi mới công tác QLĐT
trong các trường đại học Việt Nam hiện nay là nhu cầu xã hội cấp thiết
trong quá trình phát triển sự nghiệp giáo dục và đào tạo. Luận án đề ra các
nguyên tắc định hướng, hành động cơ bản cho việc ứng dụng quản lý theo
kết quả trong công tác QLĐT trong các trường đại học Việt Nam, quy trình
ứng dụng phương thức quản lý theo kết quả nhằm nâng cao năng lực
quản lý, nâng cao chất lượng đào tạo trong các trường đại học Việt Nam,

áp dụng phương thức quản lý RBM và tác động thức đẩy quá trình đổi mới
nâng cao năng lực quản lý trong các trường đại học Việt Nam [84].

16


Trong luận án tiến sĩ “Quản lý chất lượng bồi dưỡng cán bộ quản lý
giáo dục đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục hiện nay” bảo vệ năm 2014
chuyên ngành Quản lý giáo dục tại Đại học Giáo dục, Đại học Quốc gia Hà
Nội, nghiên cứu sinh Nguyễn Duy Hưng đã khẳng định trong tiến trình đổi
mới giáo dục, chấn hưng đất nước hiện nay đang đòi hỏi đội ngũ cán bộ
quản lý giáo dục phải hội tụ đủ các năng lực và phẩm chất đáp ứng với
yêu cầu, nhiệm vụ mới. Công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ quản
lý giáo dục đóng vai trò cực kỳ quan trọng quyết định tới chất lượng các
Nhà trường và quyết định chất lượng nguồn nhân lực qua đào tạo [49].
Nghiên cứu sinh Phạm Văn Thuần trong luận án “Quản lý đội ngũ giảng
viên trong đại học đa ngành, đa lĩnh vực ở Việt Nam theo quan điểm tự chủ và
trách nhiệm xã hội” bảo vệ năm 2009 tại Khoa Sư phạm, Đại học Quốc gia Hà Nội
cũng chỉ rõ quản lý đội ngũ giảng viên ở các đại học đa ngành, đa lĩnh vực hiện
nay vẫn còn nhiều bất cập do ảnh hưởng của quản lý hành chính nhân sự trường
đại học đơn ngành trong thời gian dài theo cơ chế kế hoạch hóa, tập trung, chưa
đáp ứng được yêu cầu đổi mới quản lý giáo dục đại học trong hoàn cảnh đại học
đa ngành, đa lĩnh vực được trao quyền tự chủ, trách nhiệm xã hội cao. Chuyển
sang quản lý nguồn nhân lực theo quan điểm tự chủ và trách nhiệm xã hội với
việc tiến hành hệ thống các giải pháp thích hợp sẽ nâng cao được chất lượng,
hiệu quả quản lý đội ngũ giáo viên, mở rộng không gian học thuật để tăng cường
khả năng tự chủ học thuật của giảng viên.

Nâng cao hiệu quả quản lý đội ngũ giảng viên là một nhiệm vụ to lớn và
luôn mang tính thời sự, phải làm thường xuyên, liên tục của các cấp quản lý

giáo dục đại học, đồng thời đây cũng là giải pháp quan trọng để hiện thực hóa
những mục tiêu, chiến lược đổi mới của ngành trong thời kỳ công nghiệp hóa
– hiện đại hóa đất nước. Quản lý đội ngũ giảng viên phải có hệ thống các giải
pháp phù hợp để từ bỏ quản lý hành chính nhân sự do ảnh hưởng của thời
gian dài theo chế độ tập trung, bao cấp sang quản lý nguồn nhân lực với quan
điểm tăng quyền tự chủ, trách nhiệm xã hội cho phù hợp với chức năng của

17


×