Tải bản đầy đủ (.pdf) (86 trang)

Từ ngữ xưng hô trong một số tác phẩm của nhà văn phan tứ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (991.96 KB, 86 trang )

`

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM

HÀ THỊ KIM OANH

TỪ NGỮ XƯNG HÔ TRONG MỘT SỐ TÁC PHẨM
CỦA NHÀ VĂN PHAN TỨ

LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ,
VĂN HỌC VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM

THÁI NGUYÊN - 2019
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN




ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM

HÀ THỊ KIM OANH

TỪ NGỮ XƯNG HÔ TRONG MỘT SỐ TÁC PHẨM
CỦA NHÀ VĂN PHAN TỨ
Ngành: Ngôn ngữ Việt Nam
Mã số: 8.22.01.02

LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ,
VĂN HỌC VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM



Cán bộ hướng dẫn khoa học: PGS. TS PHẠM VĂN HẢO

THÁI NGUYÊN - 2019
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN




`

LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Kết quả
nghiên cứu nêu trong luận văn là trung thực và chưa từng được công bố trong
bất kỳ công trình nào khác. Các thông tin trích dẫn đều được chỉ rõ nguồn gốc.
Nếu phát hiện có sự gian lận, tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm về nội dung
luận văn của mình.
Tác giả luận văn

Hà Thị Kim Oanh

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN




`

LỜI CẢM ƠN
Tác giả xin bày tỏ lòng biết ơn đến PGS. Phạm Văn Hảo, người đã

hướng dẫn luận văn.
Xin cảm ơn Thầy, Cô giáo giảng dạy Ngôn ngữ học, Khoa Ngữ Văn,
Phòng đào tạo (Bộ phận Sau đại học) đã tạo điều kiện tốt nhất cho tác giả
trong quá trình học tập và nghiên cứu tại trường Đại học Sư phạm - Đại học
Thái Nguyên.
Xin chân thành cảm ơn gia đình, các anh chị em, bạn bè lớp Ngôn ngữ
Việt Nam K25 đã nhiệt tình giúp đỡ và động viên tác giả trong suốt thời gian
học tập và thực hiện luận văn.
Tác giả luận văn

Hà Thị Kim Oanh

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN




`

MỤC LỤC
Trang
LỜI CAM ĐOAN ................................................................................................. i
LỜI CẢM ƠN ...................................................................................................... ii
MỤC LỤC ..........................................................................................................iii
DANH MỤC CÁC BẢNG ................................................................................. iv
MỞ ĐẦU ............................................................................................................. 1
1. Lí do chọn đề tài .............................................................................................. 1
2. Lịch sử nghiên cứu .......................................................................................... 2
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ................................................................... 3
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu .................................................................. 3

5. Phương pháp nghiên cứu ................................................................................. 4
6. Đóng góp của luận văn .................................................................................... 4
7. Cấu trúc của luận văn ...................................................................................... 4
Chương 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN ............................................ 5
1.1. Một số vấn đề chung về từ ngữ xưng hô trong tiếng Việt............................ 5
1.1.1. Khái niệm................................................................................................... 5
1.1.2. Phân loại .................................................................................................... 6
1.1.3. Chức năng .................................................................................................. 9
1.2. Những vấn đề ngữ dụng chủ yếu khi xem xét từ xưng hô ......................... 10
1.2.1. Giao tiếp và các nhân tố giao tiếp ........................................................... 10
1.2.2. Các nhân tố chi phối việc xưng hô .......................................................... 16
1.3. Vài nét về Phan Tứ và tác phẩm của ông ................................................... 17
1.4. Tiểu kết ....................................................................................................... 19
Chương 2. NHỮNG NHÓM TỪ NGỮ DÙNG ĐỂ XƯNG HÔ
TRONG MỘT SỐ TÁC PHẨM CỦA PHAN TỨ ........................................ 20
2.1. Các phương tiện ngôn ngữ dùng để xưng hô trong một số tác phẩm
của Phan Tứ ....................................................................................................... 20
2.1.1. Xưng hô bằng các đại từ nhân xưng ........................................................ 20
2.1.2. Xưng hô bằng các từ chỉ quan hệ thân tộc .............................................. 32
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN




`

2.1.3. Xưng hô bằng tên riêng ........................................................................... 40
2.1.4. Xưng hô bằng các từ chỉ chức danh, nghề nghiệp .................................. 42
2.1.5. Xưng hô bằng các kết hợp khác .............................................................. 43
2.2. Các từ ngữ xưng hô trong một số tác phẩm của Phan Tứ xét về

phương diện cấu tạo ........................................................................................... 44
2.2.1. Từ xưng hô là từ đơn ............................................................................... 44
2.2.2. Từ xưng hô là từ phức ............................................................................. 45
2.3. Tiểu kết ....................................................................................................... 46
Chương 3. CÁCH DÙNG TỪ NGỮ XƯNG HÔ TRONG MỘT SỐ
TÁC PHẨM CỦA PHAN TỨ ......................................................................... 48
3.1. Sử dụng từ ngữ xưng hô thể hiện cảm xúc, thái độ của nhân vật .............. 48
3.1.1. Dùng từ ngữ xưng hô thể hiện cảm xúc .................................................. 48
3.1.2. Dùng từ ngữ xưng hô thể hiện thái độ ..................................................... 55
3.1.3. Dùng từ ngữ xưng hô thể hiện sự thay đổi tình cảm, thái độ .................. 60
3.2. Nét riêng của Phan Tứ trong cách sử dụng từ ngữ xưng hô ....................... 63
3.2.1. Từ ngữ xưng hô mang dấu ấn Nam Trung Bộ ....................................... 63
3.2.2. Nghệ thuật sử dụng từ ngữ xưng hô ....................................................... 64
3.3. Tiểu kết ....................................................................................................... 71
KẾT LUẬN....................................................................................................... 73
TÀI LIỆU THAM KHẢO............................................................................... 75

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN




`

DANH MỤC CÁC BẢNG
Trang
Bảng 2.1.

Hệ thống từ ngữ xưng hô trong một số tác phẩm của Phan Tứ ....... 20


Bảng 2.2:

Các đại từ nhân xưng ngôi thứ nhất (số ít) trong một số tác
phẩm của Phan Tứ ....................................................................... 20

Bảng 2.3.

Các đại từ nhân xưng ngôi thứ nhất (số nhiều) trong một số
tác phẩm của Phan Tứ ................................................................. 24

Bảng 2.4.

Các đại từ nhân xưng ngôi thứ hai (số ít) trong một số tác
phẩm của Phan Tứ ....................................................................... 26

Bảng 2.5.

Các đại từ nhân xưng ngôi thứ hai (số nhiều) trong một số
tác phẩm của Phan Tứ ................................................................. 28

Bảng 2.6.

Các đại từ nhân xưng ngôi thứ ba (số ít) trong một số tác
phẩm của Phan Tứ ....................................................................... 29

Bảng 2.7.

Các đại từ nhân xưng ngôi thứ ba (số nhiều) trong một số
tác phẩm của Phan Tứ ................................................................. 30


Bảng 2.8.

Các từ thân tộc dùng xưng hô ngôi thứ nhất (số ít) của các
nhân vật trong một số tác phẩm của Phan Tứ ............................. 32

Bảng 2.9.

Các từ ngữ thân tộc dùng xưng hô ngôi thứ nhất (số nhiều)
của các nhân vật trong một số tác phẩm của Phan Tứ ................ 35

Bảng 2.10.

Các từ thân tộc dùng xưng hô ngôi thứ hai (số ít) của các
nhân vật trong một số tác phẩm của Phan Tứ ............................. 36

Bảng 2.11.

Các từ thân tộc dùng xưng hô ngôi thứ hai (số nhiều) của
các nhân vật trong một số tác phẩm của Phan Tứ ....................... 38

Bảng 2.12.

Các từ thân tộc dùng xưng hô ngôi thứ ba (số ít) của các
nhân vật trong một số tác phẩm của Phan Tứ ............................. 39

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN





`

Bảng 2.13.

Các từ thân tộc dùng xưng hô ngôi thứ ba (số nhiều) của các
nhân vật trong một số tác phẩm của Phan Tứ ............................. 40

Bảng 2.14.

Các từ xưng hô bằng tên riêng của các nhân vật trong một
số tác phẩm của Phan Tứ............................................................. 41

Bảng 2.15.

Các từ ngữ xưng hô trong một số tác phẩm của Phan Tứ xét
về phương diện cấu tạo ............................................................... 46

Bảng 3.1.

Từ ngữ xưng hô trong phương ngữ Nam Trung Bộ 63được
sử dụng trong một số tác phẩm của Phan Tứ .............................. 63

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN




`

MỞ ĐẦU

1. Lí do chọn đề tài
1.1. Xưng hô là yếu tố không thể thiếu trong giao tiếp. Nói cách khác,
có giao tiếp là có xưng hô. Giao tiếp là nhu cầu tất yếu của con người, việc
vận dụng từ ngữ xưng hô trực tiếp ảnh hưởng đến kết quả giao tiếp. Các đối
tượng giao tiếp nếu biết xưng hô linh hoạt, khéo léo có thể sẽ mang lại hiệu
quả giao tiếp cao, và ngược lại. Nhóm từ ngữ xưng hô, bởi vậy mà giữ vai trò
quan trọng trong hệ thống từ vựng nói riêng và trong hệ thống ngôn ngữ (của
bất kì quốc gia nào) nói chung.
Kế thừa thành quả nghiên cứu của những người đi trước kết hợp với
quan sát thực tế có thể thấy rằng: Từ ngữ xưng hô trong tiếng Việt phong phú,
ấn tượng hơn so với từ ngữ xưng hô ở nhiều ngôn ngữ khác (như ngôn ngữ
Anh, ngôn ngữ Trung...). Thông qua hoạt động của nhóm từ này, một vài đặc
trưng về ngôn ngữ và văn hóa giao tiếp của Việt Nam được thể hiện. Tìm hiểu
những vấn đề liên quan đến từ ngữ xưng hô trong tiếng Việt là một cách để
biểu hiện văn hóa dân tộc.
Trong các tác phẩm văn chương, từ ngữ xưng hô ngoài việc cho thấy
dấu ấn văn hóa vùng miền và phong cách sáng tác của người viết thì còn là
phương tiện để người đọc tiếp cận các nhân vật về các mặt tính cách, tình
cảm, thái độ... Những vai trò này cho thấy từ ngữ xưng hô là yếu tố đáng để
khai thác khi nghiên cứu một tác phẩm văn chương.
Phan Tứ là tác giả tiêu biểu của mảnh đất Nam Trung Bộ (Quảng
Nam). Ngay từ những ngày văn học cách mạng khu vực Nam Trung Bộ còn
non nớt, Phan Tứ đã ghi dấu ấn trên văn đàn bằng bút pháp hiện thực sắc sảo
qua những tác phẩm như: Về Làng, Gia đình má Bảy. Bằng những trải nghiệm
xương máu của người cầm súng cùng vốn sống thu nhận được từ mảnh đất
Quảng Nam, Phan Tứ đã cho ra đời những trang viết mang đầy hơi thở thời
đại nhưng vẫn đậm chất hiện thực. Ở mỗi tác phẩm, Phan Tứ đều kì công xây
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN





`

dựng bức tranh đa dạng về thế giới nhân vật nói chung và sự phong phú trong
tính cách của từng nhân vật nói riêng. Qua xưng hô trong lời thoại của nhân
vật, người đọc có thể thấy được một phần tính cách nhân vật cũng như tình
cảm - thái độ của nhân vật dành cho đối phương hoặc người được nhắc tới
trong diễn ngôn.
Từ những lí do trên, luận văn lựa chọn “Từ xưng hô trong một số tác
phẩm của nhà văn Phan Tứ” làm đề tài nghiên cứu.
2. Lịch sử nghiên cứu
Từ xưng hô trong tiếng Việt là vấn đề đã được đầu tư nghiên cứu. Có thể
kể tên một vài tác giả với những công trình nghiên cứu về từ xưng hô như sau:
Nghiên cứu về từ xưng hô từ góc độ ngữ pháp, có thể quan tâm đến
những công trình nghiên cứu của các tác giả Trần Trọng Kim, Bùi Kỷ, Phạm
Duy Khiêm (1940), Phan Khôi (1955), Nguyễn Kim Thản (1963),...
Nghiên cứu về từ xưng hô từ phương diện cấu trúc luận như: Nguyễn
Tài Cẩn (1962), Đái Xuân Ninh (1978)...
Nghiên cứu theo quan điểm ngữ dụng học, ngôn ngữ học xã hội về từ
xưng hô với các tác giả tên tuổi như: Đỗ Hữu Châu (1993), Nguyễn Đức Dân
(1989), Hoàng Thị Châu (1995), Nguyễn Văn Tu (1996),...
Các luận văn Tiến sĩ, Thạc sĩ cũng đã đem đến một cái nhìn toàn diện
hơn về xưng hô với đặc điểm, cấu trúc, chức năng và cả những yếu tố văn hóa
dân tộc như: Cách xưng hô trong tiếng Tày - Nùng (Phạm Ngọc Thưởng 1998); Từ xưng hô và cách xưng hô trong các phương ngữ tiếng Việt dưới góc
nhìn của lý thuyết ngôn ngữ học xã hội (Lê Thanh Kim - 2000); Từ xưng hô
trong gia đình đến ngoài xã hội của người Việt (Bùi Thị Minh Yến 2001)...
Bên cạnh đó, cũng có một số công trình nghiên cứu về từ xưng hô trong
các tác phẩm văn học như: Từ xưng hô trong một số tác phẩm của Nguyễn
Quang Sáng (Nguyễn Thị Thảo Ly - 2011); Từ xưng hô trong một số tác

phẩm của Ngô Tất Tố (Đoàn Lăng Em - 2011); Từ xưng hô trong một số tác
phẩm của Nam Cao (Trần Ngọc Mi - 2009),...
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN




`

Về phía nhà văn Phan Tứ, bởi là cây bút có nhiều đóng góp cho nền
văn học cách mạng nước nhà nên giới phê bình khá quan tâm đến những sáng
tác của ông, đặc biệt là ba tác phẩm được coi là đỉnh cao trong sự nghiệp sáng
tác của Phan Tứ bao gồm: Bên kia biên giới, Gia đình má Bảy, Mẫn và tôi.
Có thể kể đến một vài công trình như: Mấy vấn đề trong văn học hiện đại Việt
Nam của tác giả Nguyễn Thị Đức Hạnh; Lối kể chuyện của nhà văn Phan Tứ
(Đặng Tiến - báo Văn Hóa Nghệ An); Tiểu thuyết Mẫn và tôi nhìn từ góc độ
thể loại (Võ Trường Giang - 2012)... Tuy nhiên, chưa có công trình nào
nghiên cứu về từ xưng hô trong tác phẩm của Phan Tứ.
Những công trình nghiên cứu kể trên là nguồn tài liệu quý cho luận
văn. Đồng thời, cũng xin khẳng định rằng: Từ xưng hô trong một số tác phẩm
của Phan Tứ là đề tài mới, chưa từng được nghiên cứu.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Nghiên cứu từ ngữ xưng hô trong hai tiểu thuyết Bên kia biên giới và
Gia đình má Bảy của tác giả Phan Tứ.
3.1.2. Phạm vi nghiên cứu
Khảo sát hệ thống từ ngữ dùng để xưng hô trong hai tiểu thuyết Bên kia
biên giới và Gia đình má Bảy, đồng thời so sánh, đối chiếu đối tượng khác trong
những chừng mực thích hợp để có thể làm rõ hơn đối tượng đang nghiên cứu.
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

4.1. Mục đích nghiên cứu: Làm rõ đặc điểm cấu tạo và vai trò của từ ngữ
xưng hô trong một số tác phẩm của Phan Tứ.
4.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Hệ thống cơ sở lí luận về từ ngữ xưng hô.
- Khảo sát, thống kê, phân loại các từ ngữ dùng để xưng hô trong một
số tác phẩm của Phan Tứ.
- Mô tả và phân tích cách dùng các từ ngữ xưng hô trong một số tác
phẩm của Phan Tứ.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN




`

5. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện được những nội dung trên, luận văn sử dụng các phương
pháp nghiên cứu sau:
- Phương pháp miêu tả: dùng để miêu tả các dạng, các mô hình của các
kiểu xưng hô, từ đó phân tích các phương diện của xưng hô từ góc độ ngữ
pháp và ngữ dụng.
- Phương pháp phân tích diễn ngôn: Được sử dụng trong quá trình phân
tích các ngữ liệu (cuộc thoại, đoạn thoại...) có chứa các từ ngữ xưng hô trong
mối tương quan với bối cảnh giao tiếp
- Phương pháp phân tích, tổng hợp: Trên cơ sở lí thuyết về xưng hô, lí
thuyết giao tiếp, lí thuyết hội thoại... luận văn sẽ phân tích và lí giải xưng hô với
các ngôi giao tiếp. Từ sự miêu tả và phân tích, luận văn cũng sẽ đi đến những
kiến giải cụ thể trong từng phương diện nghiên cứu về xưng hô cũng như đưa ra
những nhận định, đánh giá một cách toàn diện các vấn đề nghiên cứu.
- Các thủ pháp nghiên cứu: Khảo sát, thống kê, phân loại, so sánh...

- Phương pháp nghiên cứu liên ngành: Lý giải sắc thái văn hóa trong xưng hô.
6. Đóng góp của luận văn
Từ những khảo sát, phân tích, phân loại từ xưng hô, đồng thời tìm hiểu
vai trò, chức năng, giá trị của từ xưng hô trong một số tác phẩm của Phan Tứ,
luận văn hy vọng sẽ mang lại những đóng góp tích cực cho việc nghiên cứu từ
ngữ xưng hô của người Việt và có thể trở thành tài liệu tham khảo cho đối
tượng học của các ngành như: ngữ văn, tâm lí học, văn hóa học...
7. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, nội dung luận văn
gồm 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lí luận và thực tiễn
Chương 2: Những nhóm từ ngữ dùng để xưng hô trong một số tác
phẩm của Phan Tứ
Chương 3: Chức năng của từ ngữ xưng hô trong một số tác phẩm của
Phan Tứ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN




`

Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
1.1. Một số vấn đề chung về từ ngữ xưng hô trong tiếng Việt
1.1.1. Khái niệm
Xưng hô trước hết là một hành vi giao tiếp xã hội thể hiện lối ứng xử
văn hóa của con người trong những cộng đồng nói năng nhất định. Hành vi
giao tiếp ấy được hiện thực hóa qua các dạng thức ngôn ngữ xưng hô
(address form) [17].

Theo cách hiểu của những người thực hiện luận văn, “xưng” là việc sử
dụng một biểu thức ngôn ngữ để tự quy chiếu mình, “hô” là việc sử dụng một
biểu thức ngôn ngữ để quy chiếu đối tượng trực tiếp tham gia giao tiếp và cả
đối tượng mà hành vi giao tiếp hướng tới.
Hiện nay, có nhiều quan niệm khác nhau về “từ xưng hô” trong tiếng
Việt. Những quan niệm khác nhau này đã được cụ thể qua việc đưa ra những
khái niệm và các cách lý giải không giống nhau về từ xưng hô, đồng thời gọi
tên từ xưng hô bằng những thuật ngữ khác nhau như: đại từ nhân xưng, đại từ
xưng hô, đại danh từ nhân xưng, từ xưng gọi [4].
Tác giả Đỗ Hữu Châu cho rằng: “Xưng hô là một hành vi chiếu vật, ở
đây là quy chiếu các đối ngôn trong ngữ cảnh, nó sẽ gắn diễn ngôn với người
nói, người tiếp thoại. Xưng hô thể hiện quan niệm vai giao tiếp.”[4].
Tác giả Nguyễn Minh Chiến đã quan niệm: “Đó là những từ được rút ra
trong hệ thống ngôn ngữ dùng để xưng hô (biểu thị các phạm trù xưng hô
nhất định) giao tiếp xã hội”.
Các tác giả Lên Biên, Nguyễn Minh Thuyết cho rằng, đại từ nhân xưng
(xưng hô) được chia làm hai nhóm:
a. Đại từ nhân xưng (xưng hô) đích thực: tôi, tao, tớ, hắn, họ...
b. Đại từ nhân xưng lâm thời: nguyên là những danh từ chỉ người trong
quan hệ thân thuộc được lâm thời dùng làm đại từ nhân xưng (xưng hô): ông,
bà, bố, mẹ, anh, em, con, cháu, cô, dì, chú, bác, cậu...
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN




`

Từ cách quan niệm trên, các tác giả đưa ra khái niệm rằng: “Đại từ
nhân xưng (xưng hô) là những từ ngữ dùng để trỏ hay thay thế cho một chủ

thể giao tiếp với mục đích xưng hô [33].
Tác giả Trương Thị Diễm [7] trong công trình nghiên cứu của mình đã
đưa ra quan điểm rằng: “một khi chúng ta xem đại từ là những từ không có nghĩa
biểu vật thì cũng khó chấp nhận đưa tất cả các từ dùng để trỏ hay thay thế cho
một chủ thể trong giao tiếp với mục đích xưng hô vào loại đại từ. Bởi vì, ngoài
những từ mà các tác giả gọi là đại từ nhân xưng đích thực vốn không có nghĩa
biểu vật thì còn rất nhiều từ mang chức năng xưng hô nhưng nghĩa biểu vật của
nó vẫn nhận ra rất rõ. Thí dụ, các từ như anh, chị, cô, bác, kỹ sư, bác sĩ, vv...”.
Xoay quanh khái niệm về từ nhân xưng, tác giả Lê Thanh Kim [17]
cũng đã đưa ra quan điểm rằng: “Từ xưng hô bao gồm những từ dùng để xưng
(tự xưng) hoặc để hô (gọi) một người nào đó khi người đó ở một ngôi giao
tiếp nhất định. Luận văn cho rằng quan điểm này đã làm rõ được hai vấn đề
mà những quan niệm đi trước thường nhầm lẫn hoặc mập mờ trong cách hiểu,
đó là: 1. Từ xưng hô bao gồm đại từ nhân xưng/đại từ xưng hô, 2. “Xưng hô”
và “xưng gọi” không hoàn toàn giống nhau.
1.1.2. Phân loại
Có nhiều quan niệm được đưa ra xoay quanh việc phân loại từ xưng hô
trong tiếng Việt, xin được tóm tắt một số cách phân loại như sau:
Tác giả Đỗ Hữu Châu [4] cho rằng: để xưng hô, ngoài các đại từ, các
ngôn ngữ còn có thể dùng các từ loại khác nhau như: tên riêng, tên chức danh,
tên nghề nghiệp, các từ chỉ quan hệ thân tộc, các từ chỉ quan hệ không gian
(đây, đấy, ấy, đằng này...), thậm chí trống vắng từ xưng hô...; cụ thể là:
- Trước hết, phải kể đến “biểu thức ngôn ngữ ngữ pháp hóa các ngôi để
xưng hô trong các ngôn ngữ là các đại từ nhân xưng”.Các đại từ nhân xưng
trong tiếng Việt là tôi, tao, tớ, tui, qua, mày, mi, mình; choa, chúng tao, chúng
ta, chúng tôi, chúng mình, chúng tớ, bầy (bi), chúng mày; bay, hắn, nó, y, thị,...
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN





`

- Thứ hai là các từ chỉ quan hệ thân tộc. Từ chỉ quan hệ thân tộc trong
tiếng Việt là những từ chỉ người trong gia đình, họ tộc có quan hệ huyết
thống, nội ngoại gần xa với nhau. Các từ chỉ quan hệ thân tộc trong tiếng Việt
có thể chia thành hai nhóm: các từ thân tộc đơn (kị, cụ, ông, bà, bác, chú, cậu,
cô, dì, mợ, thím, cha, mẹ, bố, tía, ba, má, u, bầm, anh, chị, em, con, cháu, chồng,
vợ, dâu, rể...) và các từ thân tộc phức (kị ông, kị bà, kị nội, kị ngoại, cụ ông,
cụ bà, cụ nội, cụ ngoại, ông nội, ông ngoại, bà nội, bà ngoại, bác trai, bác
giá, anh trai, chị gái, cháu trai, cháu gái...).
- Thứ ba là dùng tên riêng. Tên riêng - tên chính (không kể tên gọi
theo tên của chồng - với phụ nữ có chồng và tên gọi theo tên con - với phụ nữ
đã có con) có thể dùng một mình để tự xưng, đối xưng và tha xưng. Khi được
dùng để tự xưng và đối xưng, các tên chính thường được dùng ở dạng một âm
tiết. Việc dùng tên chính hai âm tiết cũng có thể, nhưng không phổ biến.
- Thứ 4 là dùng từ chức danh, nghề nghiệp. “Nghề nghiệp là tính
chuyên nghiệp trong sản xuất, điều hành, quản lí xã hội, trong tôn giáo mà
một người được đảm nhiệm. Chức danh bao gồm chức và hàm. Chức hay
chức vụ là trách nhiệm và quyền lực được giao trong việc điều hành một tổ
chức kinh tế, hành chính, xã hội, quân đội, tôn giáo... Hàm là danh nghĩa được
phong tặng hay công nhận theo tài năng, đức độ, sự cống hiến”.
- Cuối cùng là các bán đại từ, đây là các từ xưng hô không phải từ thân
tộc, cũng không phải là các đại từ thực sự. Có ba nhóm bán đại từ: 1. Các từ
như ngài, ngươi, trẫm, khanh, thiếp, chàng, nàng...; 2. Những tổ hợp từ Hán
Việt như ngu đệ, hiền huynh...; 3. Các từ chỉ xuất không gian hoặc những tổ
hợp từ có chỉ xuất không gian ở sau để tự xưng như đây, thằng này (con này),
đấy, đằng ấy...
Trong cuốn Ngôn ngữ học xã hội - Những vấn đề cơ bản [16], tác giả
Nguyễn Văn Khang đã hệ thống xưng hô thành 6 cách, tương đương với 12

kiểu như sau:
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN




`

A. Xưng hô bằng họ và tên, gồm:
(1) Xưng hô bằng tên.
(2) Xưng hô bằng họ.
(3) Xưng hô bằng tên đệm + tên.
(4) Xưng hô bằng họ + tên.
(5) Xưng hô bằng họ + tên đệm + tên.
B. Xưng hô bằng tất cả các từ dùng để xưng hô, gồm:
(6) Các đại từ nhân xưng.
(7) Các từ thân tộc dùng làm từ xưng hô.
(8) Các từ khác được dùng làm từ xưng hô.
C. Xưng hô bằng chức danh, gồm:
(9) Gọi bằng một trong các chức danh.
(10) Gọi bằng nhiều hoặc tất cả các chức danh.
D. Xưng gọi bằng tên của người thân thuộc (chồng, vợ, con).
(11) Gọi bằng tên của người thân thuộc như tên của chồng, vợ, con
E. Xưng hô bằng sự kết hợp (1), (2), (3), (4):
(12) Gọi bằng các kết hợp khác nhau (thí dụ chức danh + tên; chức
danh + họ tên; từ xưng hô + tên/họ tên...)
F. Xưng hô bằng sự khuyết vắng từ xưng hô (12) không xuất hiện từ
xưng hô trong giao tiếp (khuyết vắng từ xưng hô).
Công trình nghiên cứu về “Từ xưng hô và cách xưng hô trong các phương
ngữ tiếng Việt” cũng bàn đến vấn đề phân loại từ xưng hô. Theo tác giả, những

từ dùng để xưng hô rất phong phú và đa dạng, bao gồm hai nhóm lớn:
a. Đại từ nhân xưng chuyên dùng: tôi, tao, tớ, mày, bay, mi, ngài, mình,
nó, hắn, vị, gã, thị, nàng, chàng, thiếp...
b. Từ xưng hô lâm thời bao gồm:
- Các danh từ chỉ quan hệ thân tộc: ông, bà, cha, mẹ, anh, chị, cô, dì,
chú, bác, cậu, mợ, con, cháu...
- Các danh từ chỉ chức danh, nghề nghiệp: giáo sư, bác sĩ, chủ tịch,
giám đốc, kĩ sư...
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN




`

- Các danh từ chỉ quan hệ xã hội: bạn, đồng chí, đồng hương...
- Các từ chỉ nơi chốn: đằng ấy, đây, đấy, đó,ấy...
- Họ tên riêng của người: Lâm, Vân, Thành, Hải, Nguyễn Văn A, Hoàng
Thị B...
- Thậm chí là các động từ, tính từ chuyển hóa như: cưng, bé, nhỏ, út, bồi...
Luận văn cho rằng cách phân loại của tác giả Nguyễn Văn Khang là
khoa học, phù hợp hơn cả. Luận văn sẽ áp dụng cách phân loại này vào việc
phân loại từ ngữ xưng hô trong một số tác phẩm của Phan Tứ.
1.1.3. Chức năng
Mặc dù tên gọi, khái niệm và cách phân loại từ xưng hô chưa hoàn toàn
thống nhất; nhưng từ sự hành chức có thể thấy sự thống nhất về chức năng của
từ xưng hô trong giao tiếp ngôn ngữ. Có thể kể đến hai chức năng cơ bản của từ
xưng hô là chức năng chiếu vật và chức năng thể hiện quan hệ liên nhân.
1.1.3.1. Chức năng chiếu vật
Đỗ Hữu Châu cho rằng, xưng hô là một hành động chiếu vật. Vì vậy,

xưng hô trước hết để qui chiếu một người nào đó trong một vai giao tiếp cụ
thể bằng một từ xưng hô nào đấy. Sự chiếu vật chính là sự định vị, sự quy
chiếu của người nói và người nghe về vai giao tiếp của mình với các đối
tượng trong một hoàn cảnh giao tiếp cụ thể. “Định vị được hiểu là sự xác định
và sự đồng nhất người, quá trình, sự kiện mà người ta nói đến và quy chúng
với một ngữ cảnh không gian nào đó được tạo nên và được duy trì bởi hành
động phát ngôn và bởi sự tham gia của một người nói duy nhất và ít ra là đối
với một người nghe” [35].
Từ sự cắt nghĩa về chức năng định vị (chức năng chiếu vật) của từ xưng
hô như trên, có thể hiểu là từ xưng hô chỉ bộc lộ chức năng định vị (chiếu vật)
trong sự hành chức của từ xưng hô. Nhưng trong quá trình hành chức, một phát
ngôn nói chung và sự hành chức của từ xưng hô nói riêng bị chi phối bởi nhiều
yếu tố khác nhau như ngữ cảnh giao tiếp (quy thức hay phi quy thức), vị thế của
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN




`

đối tượng giao tiếp (cao hơn hay thấp hơn người phát ngôn)...vv... Bởi vậy, nhân
vật tham thoại phải hiểu được tính chất của ngữ cảnh giao tiếp và xác định được
vị thế của bản thân mình để lựa chọn từ xưng hô sao cho phù hợp.
1.1.3.2. Chức năng liên nhân
“Sự tương tác là một hoạt động làm tổn hại hay duy trì những mối quan
hệ giữa mình với người trong sự giao tiếp mặt đối mặt. Quan hệ giữa các
nhân vật hội thoại là quan hệ liên cá nhân” [50].
Theo C. K. Orecchioni, nói tới quan hệ liên cá nhân trước hết là nói tới
quan hệ ngang và dọc giữa các nhân vật. Trục quan hệ ngang biểu thị quan hệ
gần gũi hay xa cách giữa những nhân vật giao tiếp với nhau. Ở trục này, quan

hệ giữa các nhân vật giao tiếp về bản chất là đối xứng. Tuy nhiên cũng không
hiếm những trường hợp bất đối xứng như: người này muốn gần, người kia
muốn giữ nguyên hoặc cách xa. Trái ngược với quan hệ ngang, nguyên tắc
của quan hệ dọc về bản chất là bất đối xứng.
Thực tế giao tiếp cho thấy, ngoài những đại từ nhân xưng đích thực, người
Việt còn sử dụng vô số từ khác trong xưng hô nhằm đạt được những mục đích
giao tiếp khác nhau. Có thể nói rằng, xưng và hô trong tiếng Việt là một nghệ
thuật giao tiếp chứ không chỉ là xưng hô thuần túy như một số ngôn ngữ khác.
1.2. Những vấn đề ngữ dụng chủ yếu khi xem xét từ xưng hô
1.2.1. Giao tiếp và các nhân tố giao tiếp
1.2.1.1. Giao tiếp
Về khái niệm giao tiếp, các tác giả của cuốn Từ điển tiếng Việt cho
rằng: giao tiếp là trao đổi, tiếp xúc với nhau. Sự tiếp xúc và trao đổi có thể ở
nhiều phương diện, nhiều lĩnh vực trong đời sống con người. Con người
trong quá trình giao tiếp ấy có thể thực hiện bằng nhiều cách thức khác
nhau, nhưng phương tiện phổ biến và quan trọng nhất của con người là giao
tiếp bằng ngôn ngữ. Ngôn ngữ chính là phương tiện giao tiếp phổ biến và
quan trọng nhất của con người [35].
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN




`

Cũng cho rằng ngôn ngữ là công cụ giao tiếp quan trọng nhất, tác giả
Nguyễn Văn Khang nêu quan điểm: “Giao tiếp là một hoạt động xã hội của con
người. Hình thức giao tiếp cơ bản nhất của con người là giao tiếp bằng ngôn
ngữ. Giao tiếp bằng ngôn ngữ là hình thức giao tiếp sử dụng ngôn ngữ làm
công cụ chủ yếu để truyền cho nhau những thông tin về tự nhiên và xã hội

nhằm những mục đích khác nhau.”. Ngoài ra, tác giả đã cho thấy sự cần thiết
của hành động xưng hô trong giao tiếp, rằng trong bất kì một cuộc giao tiếp
nào cũng không thể thiếu được xưng và hô. “Ngay cả khi trong trường hợp
vắng mặt (zero) cũng có thể coi là một sự có mặt không hiện hữu mang tải một
ý nghĩa nhất định” [16]. Theo cách biện giải của tác giả, giao tiếp và xưng hô là
hai yếu tố không thể tách rời. Vì vậy, sẽ là không triệt để nếu nghiên cứu từ
xưng hô mà không dựa trên cơ sở lý luận của lý thuyết giao tiếp.
Về chức năng của giao tiếp, Đỗ Hữu Châu và Diệp Quang Ban [4] cho
rằng giao tiếp có những chức năng sau:
- Chức năng thông tin: Khi giao tiếp, nhân vật giao tiếp thu nhận được
những hiểu biết, những tri thức mới về thế giới khách quan.
- Chức năng tạo lập quan hệ: Qua giao tiếp quan hệ liên cá nhân thay
đổi. Có thể qua giao tiếp những quan hệ thân hữu giữa người với người được
xây dựng, bồi đắp hoặc mất đi.
- Chức năng biểu hiện: Giao tiếp giúp con người bày tỏ được suy nghĩ,
tình cảm, cá tính, nhân cách, thái độ, quan điểm...vv... đối với những vấn đề
được nói tới, đối với mọi người.
- Chức năng giải trí: Giao tiếp giúp con người được trao đổi, trò
chuyện với nhau, giúp mọi người tiêu khiển, giải tỏa những bức xúc, thư
giãn đầu óc vơi nhẹ tâm hồn. Giao tiếp bằng lời là một hình thức giải trí mà
ai cũng có thể sử dụng.
- Chức năng hành động: Thông qua giao tiếp chúng ta thực hiện hành
động và thúc đẩy nhau hành động.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN




`


Như vậy, giao tiếp có vai trò rất quan trọng đối với con người trong đời
sống xã hội. Giao tiếp là môi trường hành chức của từ xưng hô, giao tiếp đặt
từ xưng hô vào bối cảnh cụ thể gắn với hành loạt các yếu tố liên quan đến con
người và xã hội như văn hóa, phong tục, tâm lý...vv...
1.2.1.2. Các nhân tố giao tiếp
Trái với quan niệm của ngữ pháp truyền thống, cho rằng ngữ pháp của
câu độc lập với ngữ cảnh, Đỗ Hữu Châu cho rằng ngữ cảnh, ngôn ngữ và diễn
ngôn là các nhân tố có mặt trong một cuộc giao tiếp, “chi phối cuộc giao tiếp
đó và chi phối diễn ngôn về hình thức cũng như nội dung”. Luận văn xin
được tóm tắt lại quan điểm này như sau:
Về ngữ cảnh
Ngữ cảnh là nhân tố có mặt trong một cuộc giao tiếp nhưng nằm ngoài
dĩn ngôn. Các hợp phần của ngữ cảnh bao gồm đối ngôn và hiện thực ngoài
diễn ngôn.
a, Đối ngôn
Đối ngôn (là những người tham gia vào cuộc giao tiếp). Giữa những đối
ngôn trong một cuộc giao tiếp có những quan hệ. Những quan hệ này chi phối cả
nội dung và hình thức. Đó là quan hệ tương tác và quan hệ liên cá nhân.
Quan hệ tương tác chính là sự tác động lẫn nhau trong quá trình giao
tiếp, nên còn gọi là vai tương tác. Vai tương tác gồm vai nói và vai nghe, còn
gọi là vai phát và vai nhận. Trong một cuộc giao tiếp nói, mặt đối mặt, hai bai
nói, nghe thường luân chuyển. Nói cách khác, quan hệ tương tác là quan hệ
giữa các nhân vật giao tiếp đối với chính sự phát, nhận trong giao tiếp.
Quan hệ liên cá nhân là quan hệ so sánh xét trong tương quan xã hội,
hiểu biết, tình cảm giữa các nhân vật giao tiếp với nhau. Quan hệ này có thể
xét theo hai trục, trục tung là trục vị thế xã hội còn gọi là trục quyền uy
(power), trục hoành là trục của quan hệ khoảng cách (distance), còn gọi là
trục thân cận (solidarity). Trong xã hội, con người khác nhau về địa vị xã hội
có thể do chức quyền, tuổi tác, nghề nghiệp... mà có. Vị thế xã hội và mức độ
thân cận cũng là yếu tố thuộc hình ảnh tinh thần mà những người tham gia

giao tiếp xây dựng về nhau.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN




`

b, Hiện thực ngoài diễn ngôn
Hiện thực ngoài diễn ngôn được hiểu là “...tất cả những yếu tố vật chất, xã
hội, văn hóa... có tính cảm tính và những nội dung tinh thần tương ứng không
được nói đến trong diễn ngôn của một cuộc giao tiếp (trừ nhân vật giao tiếp).
Tuy gồm cả những yếu tố vật chất và tinh thần, nhưng hiện thực ngoài
diễn ngôn phải được nhân vật giao tiếp ý thức. Khi đã trở thành hiểu biết của
những người giao tiếp (và của những người sử dụng ngôn ngữ) thì hiện thực
ngoài diễn ngôn hợp thành tiền giả định bách khoa hay tiền giả định giao
tiếp của diễn ngôn.
Nhân tố hiện thực ngoài diễn ngôn gồm 4 bộ phận: 1. Hiện thực - đề tài
của diễn ngôn. Thế giới khả hữu và hệ quy chiếu; 2. Hoàn cảnh giao tiếp; 3.
Thoại trường; 4. Ngữ huống giao tiếp.
Hiện thực - đề tài của diễn ngôn. Thế giới khả hữu và hệ quy chiếu
được tác giả Đỗ Hữu Châu quan niệm rằng: “Khi giao tiếp, các nhân vật giao
tiếp dùng diễn ngôn của mình để “nói” về một cái gì đó. Cái được nói tới là
hiện thực - đề tài của diễn ngôn.”.
Thuộc hiện thực - đề tài của diễn ngôn trước hết là những cái tồn tại,
diễn tiến trong hiện thực ngoài ngôn ngữ và ngoài diễn ngôn. Cũng được xem
là hiện thực ngoài ngôn ngữ, ngoài diễn ngôn những cái thuộc tâm giới của
con người như một cảm xúc, một tư tưởng, một ý định, một nguyện vọng.v.v.
Hiện thực - đề tài của diễn ngôn còn là bản thân ngôn ngữ; hay chính các cuộc
giao tiếp, các diễn ngôn đã có hay đang được thực hiện

Hoàn cảnh giao tiếp (trước đây gọi là hoàn cảnh giao tiếp rộng) được
hiểu là: “Loại trừ thế giới khả hữu - hệ quy chiếu, loại trừ hiện thực - đề tài,
tất cả những cái còn lại trong hiện thực ngoài ngôn ngữ làm nên hoàn cảnh
giao tiếp rộng của cuộc giao tiếp, của diễn ngôn.”. Hoàn cảnh giao tiếp rộng
bao gồm những hiểu biết về thế giới vật lí, sinh lí, tâm lí, xã hội, văn hóa, tôn
giáo, lịch sử các ngành khoa học, nghệ thuật... ở thời điểm và ở không gian
trong đó đang diễn ra cuộc giao tiếp.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN




`

Thoại trường (settinh, site) trước đây được hiểu là hoàn cảnh giao tiếp
hẹp. Một cuộc giao tiếp phải diễn ra trong một không gian cụ thể ở một thời
gian cụ thể, Thoại trường được hiểu là cái không - thời gian cụ thể ở đó cuộc
giao tiếp diễn ra. Không nên hiểu không - thời gian thoại trường là không gian
và thời gian bất kì, thường xuyên biến đổi. Không - thời gian thoại trường là
không gian có những đặc trưng chung, đòi hỏi người ta phải xử sự, nói năng
theo những cách thức mà ít nhiều cũng chung cho nhiều lần xuất hiện. Thoại
trường được phân thành thoại trường hằng thể, điển dạng và thoại trường
biến thể, hiện dạng.
Ngữ huống giao tiếp được hiểu là “...tác động tổng hợp của các yếu tố
tạo nên ngữ cảnh ở từng thời điểm của cuộc giao tiếp”. Thông qua ngữ huống
mà ngữ cảnh chi phối diễn ngôn. Ngữ cảnh là một khái niệm động, không
phải tĩnh; bất cứ cái gì muốn trở thành ngữ cảnh của cuộc giao tiếp thì chúng
phải được nhân vật giao tiếp ý thức, phait thành hiểu biết của nhân vật giao
tiếp. Do đó, sự thay đổi của các yếu tố tạo nên ngữ cảnh phải được những
người đang giao tiếp ý thức thì mới được gọi là ngữ huống.

Về ngôn ngữ
Tất cả các cuộc giao tiếp đều phải sử dụng một tín hiệu làm công cụ.
Trong trường hợp giao tiếp bằng ngôn ngữ thì hệ thống tín hiệu là các ngôn
ngữ tự nhiên.
Có ba phương diện của ngôn ngữ tự nhiên sẽ chi phối diễn ngôn; bao
gồm 1. Đường kênh thính giác và đường kênh thị giác của ngôn ngữ, 2. Các
biến thể của ngôn ngữ và 3. Loại thể.
a. Đường kênh thính giác và đường kênh thị giác của ngôn ngữ
Ngôn ngữ tự nhiên là ngôn ngữ có đường kênh cơ bản là đường kênh
thính giác. Về sau, cùng với sự phát triển của xã hội, ngôn ngữ có đường kênh
thị giác. Từ đó, diễn ngôn có hai dạng thức: diễn ngôn nói (miệng) và diễn
ngôn viết... Tuy nhiên, vì đã ra đời và sử dụng hai thể chất cảm tính khác
nhau cho nên mỗi thứ ngôn nhữ nói và viết vẫn có tính độc lập tương đối. Sự
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN




`

sai biệt giữa chúng ngày một trở nên đáng kể. Tuy nhiên không thể tuyệt đối
hóa sự sai biệt giữa ngôn ngữ nói và ngôn ngữ viết. Những quy tắc chi phối
ngôn ngữ nói vẫn là cơ sở để lý giải những cái có trong ngôn ngữ viết mặc dù
không thể giải thích được tất cả.
b. Các biến thể của ngôn ngữ: biến thể chuẩn mực hóa, biến thể
phương ngữ địa lí và phương ngữ xã hội, ngữ vực và phong cách chức năng
Khác với tất cả các hệ thống tín hiệu giao tiếp thông thường khác mà
tính đồng chất (có nghĩa là không có các biến thể) là chủ đạo, ngôn ngữ là một
hệ thống tín hiệu tồn tại và hành chức trong những biến thể nhất định. Ngôn
ngữ chuẩn mực (tiếng Việt chuẩn mực) là một biến thể của những biến thể đó.

Ngôn ngữ chuẩn mực bao gồm những đơn vị từ vựng, kể cả các ngữ cố định,
các kết cấu cú pháp, các cách phát âm được toàn thể một cộng đồng ngôn ngữ
chấp nhận, cho là đúng, được xem là cơ sở để đánh giá ngôn ngữ của từng cá
nhân, của các cộng đồng - các tiểu xã hội - trong lòng xã hội vĩ mô.
Phương ngữ địa lý bao gồm cách phát âm, các đơn vị từ vựng và một
số những kết cấu cú pháp được sử dụng ở những địa phương nhất định
trong một quốc gia.
Phương ngữ xã hội là những biến thể chủ yếu bao gồm các đơn vị từ vựng
và một số quán ngữ, một số kiểu kết cấu được sử dụng trong một cộng đồng xã
hội theo nghề nghiệp, theo hoạt động khoa học, nghệ thuật, tôn giáo, tín ngưỡng
v.v... thậm chí trong cộng đồng của những người sinh sống ngoài vòng pháp luật.
Ngữ vực
Đỗ Hữu Châu đã bày tỏ sự đồng tình với quan niệm về ngữ vực của
Halliday. Theo đó, “Ngữ vực (register - phong cách học, xã hội ngôn ngữ học)
là một biến thể của ngôn ngữ theo các hoàn cảnh xã hội (social situation - tức
“thoại trường” theo thuật ngữ của chúng tôi - Đỗ Hữu Châu) như tư pháp, báo
chí, tự nhiên, nghi thức... (Đặc biệt, trong ngữ pháp hệ thống (systemic
grammar), ngữ vực đối lập với phương ngữ địa lý và phương ngữ xã hội - Đỗ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN




`

Hữu Châu). Phương ngữ là biến thể quan hệ với người dùng còn ngữ vực là
biến thể liên quan tới cách dùng.
c. Loại thể
Loại thể là những biến thể sử dụng của các diễn ngôn... Điều quan
trọng là các loại thể tạo nên các câu thúc - constraint đối với việc tạo ra và

thuyết giải diễn ngôn... Những dấu hiệu trong diễn ngôn sẽ đóng vai trò
những cái kích thích tác động vào các nhân vật giao tiếp, khiến cho những
người này khởi động các mã ngôn ngữ, tức khởi động biến thể ngôn ngữ, ngữ
vực, phong cách và thể loại tương ứng với kích thích tiếp nhận được.
Về diễn ngôn
Diễn ngôn là lời của từng người nói ra trong một cuộc giao tiếp. Cũng
có những diễn ngôn do hai hay hơn hai nhân vật giao tiếp xây dựng nên (như
trong trường hợp một cuộc hội thoại tay ba, hai người liên kết với nhau để
chống lại người thứ ba).
Diễn ngôn có hình thức và nội dung, cả hai đều bị chi phối của tác động
của ngữ cảnh. Hình thức diễn ngôn được tạo thành bởi các yếu tố của ngôn
ngữ, các đơn vị từ vựng, các quy tắc kết học các hành vi ngôn ngữ tạo nên
diễn ngôn. Các yếu tố kèm lời và phi lời cũng được xem là các yếu tố thuộc
hình thức của diễn ngôn. Về nội dung, diễn ngôn có hai thành tố là nội dung
thông tin và nội dung liên cá nhân.
Ý định hay mục đích giao tiếp sẽ cụ thể hóa thành đích của diễn ngôn
qua các thành tố nội dung của diễn ngôn. Nói một cách tổng quát, diễn ngôn
có đích tác động.
1.2.2. Các nhân tố chi phối việc xưng hô
Như đã nói: có giao tiếp là có xưng hô, nghĩa là: xưng hô là phần không
thể thiếu của giao tiếp và bị chi phối bởi những yếu tố cấu thành giao tiếp.
Nói về mối quan hệ giữa vai giao tiếp với vấn đề xưng hô, Lê Thanh
Kim [17] cho rằng: Trong một diễn biến giao tiếp, hình thức ngôn ngữ biểu
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN




`


hiện trực tiếp vai giao tiếp của từng cá nhân là các từ xưng hô. Từ xưng biểu
hiện vai chủ thể giao tiếp, từ hô biểu hiện khách thể hay đối tượng giao tiếp.
Trong quá trình giao tiếp sẽ có sự luân phiên thay đổi vai trò của các vai giao
tiếp. Tư cách vai của một cá nhân (từ xưng - hô) được minh định qua vị thế xã
hội của từng cá nhân và được xác lập thông qua các quan hệ cá nhân. Hay nói
cách khác, các quan hệ cá nhân là cơ sở để xác lập tư cách vai và để người
tham gia giao tiếp lựa chọn từ xưng hô thích hợp. Từ đây có thể thấy, vị thế
xã hội và của những người tham gia giao tiếp ảnh hưởng trực tiếp đến việc lựa
chọn và sử dụng từ xưng hô. Đồng thời, tác giả cũng cho rằng có ba quan hệ
ảnh hưởng đến xưng hô là: 1. Quan hệ tôn ti trong gia tộc, 2. Quan hệ quyền
thế hay vị thế trong xã hội, 3. Quan hệ liên kết trong xã hội.
Theo Đỗ Hữu Châu [4], việc sử dụng các từ xưng hô khi giao tiếp bị
chi phối bởi 5 yếu tố: 1. Vai giao tiếp (vai nói, vai tiếp thoại), 2. Quan hệ liên
cá nhân (quyền uy và thân cận, trong nhóm và ngoài nhóm), 3. Ngữ vực, 4.
Thoại trường, 5. Tình cảm, thái độ đánh giá của các vai với nhau và vai trò
của các vai với sự vật được thưa xưng...
Trong thực tế, yếu tố “vai giao tiếp” được cho rằng có ảnh hưởng nhiều
nhất tới cách xưng hô. Việc xưng hô sẽ trở nên khó khăn nếu không xác định
được vai giao tiếp.
1.3. Vài nét về Phan Tứ và tác phẩm của ông
Phan Tứ (1930 - 1995) tên thật là Lê Khâm, ông là một trong những
cây bút xuất sắc của thế hệ nhà văn trưởng thành trong kháng chiến chống
Pháp và chống Mỹ. Phan Tứ được sinh ra ở Bình Định nhưng suốt thời niên
thiếu ông sống ở quê cha là Quế Phong - Quế Sơn - Quảng Nam. Vốn là cháu
ngoại nhà chí sĩ yêu nước Phan Châu Trinh, được sinh trưởng trong một gia
đình giàu truyền thống Cách mạng, Phan Tứ sớm được giác ngộ và có ý thức
đấu tranh cho nền độc lập dân tộc.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN





×