Tải bản đầy đủ (.pdf) (5 trang)

Sự vận động của tiểu thuyết có tính chất tự truyện trong văn học Việt Nam nửa đầu thế kỉ XX

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (423.06 KB, 5 trang )

Số 31 (56) - Tháng 8/2017

TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GÒN

Sự vận động của tiểu thuyết có tính chất tự truyện trong
văn học Việt Nam nửa đầu thế kỉ XX
Locomotion of autobiographical novels in Vietnamese literature in the first half of
the 20th century
ThS.NCS. Nguyễn Văn Tổng,
Trường THPT Nguyễn Trường Tộ, Phú n
Nguyen Van Tong, M.A. Ph.D. student,
Nguyen Truong To High School, Phu Yen Province
Tóm tắt
Sự hình thành và phát triển của tiểu thuyết có tính chất tự truyện ở Việt Nam gắn liền với q trình hiện
đại hóa văn học những thập niên đầu thế kỷ XX. So với một số thể loại khác, thể tiểu thuyết này xuất
hiện hơi muộn và chiếm vị trí khá khiêm tốn trong sự lớn mạnh của tiểu thuyết. Tuy nhiên sự ra đời của
nó đã cắm một cột mốc quan trọng, đánh dấu bước trưởng thành của thể loại tiểu thuyết trên con đường
hội nhập vào nền văn học hiện đại.
Từ khóa: tiểu thuyết, sự vận động của tiểu thuyết, tính chất tự truyện.
Abstract
The formation and development of the autobiographical novels in Vietnam is associated with the
process of literary modernization in decades of the first half of the twentieth century. Compared to a
number of other literary genres, this novel genre has appeared in Vietnam slightly later and has
occupied a relatively humble position in the novel’s growth. However, the birth of autobiographical
novels has planted a milestone, marking the maturity of the novel genre on the road of integration into
the modern literature.
Keywords: novel, locomotion of novels, autobiographical nature.

Q trình hiện đại hóa văn học Việt
Nam những thập niên đầu thế kỷ XX đã tạo
điều kiện cho nhiều thể loại văn học phát


triển và đạt được những thành tựu đáng kể.
Trong thành tựu chung ấy, mặc dù thể tiểu
thuyết mang tính chất tự truyện xuất hiện
hơi muộn và chỉ chiếm một vị trí khá
khiêm tốn so với sự lớn mạnh của thể tiểu
thuyết nhưng sự hiện diện thể tiểu thuyết
này đã đánh dấu bước tiến mới trong tư
duy nghệ thuật tiểu thuyết, góp phần đưa
thể loại tiểu thuyết tiến nhanh trên con
đường hiện đại.

1. Trước khi có khái niệm về hệ thống
thể loại nghệ thuật tự sự có nguồn gốc từ
phương Tây như: tiểu thuyết, tự truyện,
tiểu thuyết tự truyện, truyện ngắn…ra đời,
văn học Việt Nam cũng đã có cả một hệ
thống thể loại tự sự được định hình trong
suốt chiều dài của nền văn học trung đại.
Trong khoảng thời gian ấy, các loại hình
thơ gần như chiếm thế đứng thượng phong
với danh xưng thể loại trung tâm, còn các
thể loại văn tự sự ít có điều kiện để phát
triển. Chưa bao giờ thể tự sự được xếp
đứng ở vị trí ngang hàng với thơ, thậm chí
111


SỰ VẬN Đ NG CỦA TIỂU THUYẾT CÓ TÍNH CHẤT TỰ TRUY N TRONG VĂN HỌC VI T NAM…

đôi khi nó tồn tại trong tình trạng “nguyên

hợp đặc thù”, mang tính “hỗn dung” lẫn
xen giữa tự sự và thơ, giữa tự sự và kí hay
lịch sử… Có lẽ vì mang thân phận kẻ đứng
vùng ngoại biên nên thể tự sự, đặc biệt là
tự sự nghệ thuật trong văn học trung đại đã
nhanh chóng tách mình ra khỏi sự chi phối
của dòng văn học chính thống, khuôn trong
hệ thống thi pháp trung đại. Cho nên, trong
bối cảnh chung, khi mà thể văn tự sự vẫn
còn mang đậm tính ”ghi việc”, “chép sử”,
hình bóng tác giả chỉ tồn tại như một kiểu
vô nhân xưng, với vai trò thấu suốt tất cả.
Nhưng vẫn có một số tác phẩm được viết
ra dựa ngay vào chính kinh nghiệm sống
của bản thân tác giả, hoặc lấy từ chính bản
thân tác giả làm chủ đề như: Nam ông
mộng lục, Thánh Tông di thảo, Trần Khiêm
đường niên phả lục và Thượng kinh kí sự.
Tuy nhiên, cái tôi tác giả trong các tác
phẩm này vẫn chỉ là “một thực thể ẩn”,
mang tiếng nói của người ghi việc, chép
sự. Sự tự biểu hiện của tác giả vẫn còn bị
giới hạn bởi những đặc tính khách quan
của thể loại ký lục, ghi chép, chưa thể vượt
thoát nổi để trở thành một cái tôi cá nhân.
Đây cũng là điều hoàn toàn dễ hiểu, vì
trong bầu không khí chung của thời đại,
phần lớn con người cá nhân gần như bị mờ
nhòe trước con người chức năng, phận vị.
Thế nên, để thực hiện được chức năng “tải

đạo”, tác giả chỉ còn có thể khẳng định
mình qua việc “đồ chiếu” vào các chuẩn
mực luân lý xã hội để phát ngôn. Nhưng kể
từ khi xã hội Việt Nam bắt đầu xuất hiện
những yếu tố của một nền kinh tế đô thị
cùng với sự hình thành mẫu hình nhà nho
tài tử (TK XVII – XVIII) thì thực tế ấy đã
bắt đầu có những thay đổi đáng kể. Cái tôi
cá nhân đã bắt đầu hiện diện ngày một rõ
nét qua các tác phẩm của Nguyễn Du, Hồ
Xuân Hương, Nguyễn Công Trứ… Đặc
biệt là khi Sơ kính tân trang của Phạm Thái
ra đời mang theo bóng dáng cái tôi tự thuật

đã đánh dấu bước tiến đáng kể cho thể loại
tự sự trung đại. Kể từ đây thể văn tự sự
bước sang một trang mới khi có một người
như Phạm Thái dám lấy chính câu chuyện
đời tư của mình để kết thành tác phẩm.
Những dấu vết tự truyện trong tác phẩm
hiện rõ ngay trong cách đặt tên nhân vật
(Phạm Kim - Quỳnh Như) và cả những vần
thơ đối đáp giữa tác giả cùng nàng Trương
Quỳnh Như cũng được đưa hẳn vào tác
phẩm mà không cần bất cứ lớp màn tinh
lọc nào của hư cấu. Tuy nhiên, nếu xét trên
phương diện tự truyện thì Sơ kính tân trang
vẫn chỉ là một tác phẩm mang tính tự
truyện buổi sơ kỳ, nhưng sự hiện diện của
Sơ kính tân trang cũng đủ để minh chứng

cho “con đường phát triển của nhãn quan
cá nhân và tinh thần tự ý thức” trong đời
sống văn học thời trung đại [3, tr.28]. Bởi
lẽ, giữa thời buổi mà gần như những tác
phẩm tự sự vẫn còn ngổn ngang những vay
mượn từ tích xưa, từ chuyện lưu truyền
trong dân gian (Truyện Từ Thức, Truyền
kỳ mạn lục, truyện Trương Chi - Mỵ
Nương, Phạm Công - Cúc Hoa…), hoặc từ
những biến cố lịch sử đương thời (Hoàng
Lê nhất thống chí, Thượng kinh ký sự…)
hay những chuyện có nguồn gốc từ Trung
Hoa (Truyện Kiều, Truyện Phan Trần,
Truyện Hoa Tiên, Nhị Độ Mai…) thì Phạm
Thái lại lấy chính hiện thực đời mình làm
chất liệu cho truyện. Và đích hướng đến
của tác phẩm không phải là “tải đạo” mà là
nhằm phác thảo lại chuyện tình duyên đầy
trắc trở giữa tác giả và nàng Trương Quỳnh
Như. Với Sơ kính tân trang, lần đầu tiên
lịch sử tự sự nghệ thuật Việt Nam một cái
tôi tự thuật thực sự hiện diện đĩnh đạc
trong đời sống văn học. Và có thể nói, nếu
xét trên phương diện cái tôi tự thuật, Sơ
kính tân trang đã vượt qua cả Lục vân tiên
của Nguyễn Đình Chiểu để tiến gần đến
với những tự truyện ra đời trong những
năm nửa đầu thế kỉ XX.
112



NGUYỄN VĂN TỔNG

đánh giá về tác phẩm này vẫn không mấy
có thiện cảm: “Nên trách ông Hiếu đã tự
đem ông ra làm vai chính trong tiểu thuyết
của ông. Khi viết tiểu thuyết, ông lại quên
rằng ông viết cho đồng bào xem, ông cứ tự
tiện tán tụng ông, khen ông, đặt ông lên
trên mọi người”. Tuy nhiên, từ góc nhìn
thể loại Lê Thanh là người đã nhìn thấy
trước giá trị của nó: “Đọc Giấc mộng lớn
không có gì là mộng cả. Nó không khác gì
những tập ký ức, những pho tự thuật của
các văn sĩ Âu Tây” và: “Nó có thể gọi là
tập ký ức viết bằng quốc văn thứ nhất của
ta (...) sau này sẽ rất có giá trị cho ai muốn
khảo cứu về thân thế văn chương của ông”
[6, tr.25].
Tuy Phan Bội Châu và Tản Đà không
phải là những người “mở đường tinh anh”
cho cái tôi trong văn tự sự nhưng sự ra đời
của Phan Bội Châu Niên Biểu và Giấc
mộng lớn giữa lúc nền văn xuôi quốc ngữ
còn đang trong thời kì giao thoa giữa cũ mới, hai nhà nho Phan Bội Châu và Tản Đà
- Nguyễn Khắc Hiếu đã bắc hộ “nhịp cầu
nối hai thế kỉ”( chữ dùng của Hoài Thanh)
để “cái tôi” cá nhân không còn “ẩn tàng”,
khuất lấp nữa mà nó hiển hiện rõ rệt tạo
thành “thời đại chữ tôi” trong cả quãng

thời gian từ 1930-1945. Đó là cái tôi ngập
tràn cảm xúc trong Thơ mới, hay đó là cái
tôi tự nghiệm trong một số tác phẩm văn
học hiện thực và một phần nào đó là cái tôi
tự thú đầy thành thật trong những tiểu
thuyết có tính chất tự truyện như: Những
ngày thơ ấu của Nguyên Hồng, Dã tràng
của Thiết Can, Bốc đồng của Đỗ Đức Thu,
Mực mài nước mắt của Lan Khai, Sống
nhờ của Mạnh Phú Tư, Sống mòn của Nam
Cao. Và cùng với những tác phẩm ấy là
những cái tôi - tác giả tự do bộc lộ tất cả
cảm xúc, những chiêm nghiệm của mình
với tư cách là đối tượng của nghệ thuật:
một cái tôi Nguyên Hồng thấm đẫm niềm
đau và trĩu nặng nỗi yêu thương (Những

2. Bước vào những thập niên đầu thế
kỉ XX, cơ cấu xã hội Việt Nam có những
thay đổi mạnh mẽ, sâu sắc. Sự du nhập của
văn hóa cùng với ý thức dân chủ từ phương
Tây ngày một lan rộng trong đời sống thị
thành đã tác động đến đời sống tinh thần
con người Việt Nam, làm nảy sinh khát
vọng đi tìm tư tưởng thẩm mỹ mới để thay
thế cho những chuẩn mực gần như bị
“đông cứng” trong văn học cổ điển. Nhờ
thế mà cái tôi cá nhân mới có điều kiện nảy
nở và nhanh chóng trở thành yếu tố trung
tâm, làm thay đổi diện mạo nền văn học

Việt Nam trong chặng đường nửa đầu thế
kỷ XX. Hiện thực này cũng đã tạo đà cho
tiểu thuyết có tính chất tự truyện ra đời.
Nhìn lại những ngày đầu buổi giao
thời, khi văn học Việt Nam trở mình,
chuẩn bị làm cuộc cách tân để đưa văn học
phát triển theo hướng hiện đại đã có một
Phan Bội Châu niên biểu (1928) của Phan
Bội Châu rất giàu chất tự thuật. Và khi mà
tiểu thuyết đang sửa soạn những bước cuối
cùng để định hình thể loại, đó cũng là
quãng thời gian Tản Đà cho ra đời Giấc
mộng lớn (1929) cùng với cái tôi hữu thể,
con người thực của mình in bóng vào trang
văn tự sự. Có thể nói, vào thời điểm ra đời
Giấc mộng lớn, việc một nhà văn đem
chuyện riêng tư chính cuộc đời mình phơi
bày ra trang văn như Tản Đà vẫn còn là
điều quá lạ lẫm. Vì dễ chừng mấy ai có thể
chấp nhận được lối viết “thành thật” đến
từng chân tơ kẽ tóc này, hơn nữa người
viết ấy là là một nhà Nho! Trong khi đời
sống văn học Việt Nam hàng bao thế kỷ
qua vẫn quen với quan niệm “thi ngôn chí”
- “văn dĩ tải đạo”. Bởi vậy, tác phẩm cũng
có một số phận khá thăng trầm: “từ khi nó
ra đời, người ta đã bắt đầu mạt sát nó…”.
Và thậm chí người ta phải “bán rao” nó
trên xe lửa. Ngay cả Lê Thanh, nhà nghiên
cứu có rất nhiều đóng góp trong việc nhận

diện thể loại văn học đầu thế kỉ XX khi
113


SỰ VẬN Đ NG CỦA TIỂU THUYẾT CÓ TÍNH CHẤT TỰ TRUY N TRONG VĂN HỌC VI T NAM…

ngày thơ ấu); một cái tôi Đỗ Đức Thu đầy
phóng túng (Bốc đồng); một cái tôi Mạnh
Phú Tư đắng cay, thua thiệt trong kiếp
sống mồ côi, ăn nhờ ở đậu (Sống nhờ); một
cái tôi Lan Khai nếm trải, vật vã trong cuộc
mưu sinh (Mực mài nước mắt); hay đó là
một cái tôi đầy dằn vặt, mòn mõi, bế tắc
của Nam Cao khi đối diện cảnh “đời tàn
trong ngõ hẹp” (Sống mòn)…
Có thể nói, sự bùng nổ về ý thức cá
nhân này được thai nghén trong suốt chiều
dài của văn học trung đại và đến đầu thế kỷ
XX, nhờ sự du nhập của văn hóa phương
Tây đã tiếp sức cho nó để thoát thai trở
thành cái tôi tự thuật đầy tươi trẻ. Nếu như
trước đây, những tác giả trong văn học
trung đại thường khẳng định cái tôi của
mình trong mối quan hệ với chứa năng,
phận vị, hay đó là cái tôi thị tài, bất đắc
chí, đầy ngông nghênh, muốn phá bỏ
những định chế của xã hội phong kiến thì
các tác giả của tiểu thuyết có tính chất tự
truyện giai đoạn 1930-1945 khẳng định cái
tôi “với cái nghĩa tuyệt đối của nó” dưới

ánh sáng sự thật từ chính cuộc đời tác giả.
Trong văn học trung đại người đọc khó có
thể tìm thấy khát vọng tự khẳng định mình
một cách đầy mạnh mẽ như thế này: “ta
phải tạo ra tương lai, chính thế! Bằng cách
nào? Bằng cách phá hoại cho bằng hết
những ảnh hưởng còn sót lại ở ta. Của cái
thế giới cũ và tự biến đổi ta thành con
người mới, khả dĩ ứng dụng cho sự xây
dựng một tân văn hóa” [2, tr.125]. Và càng
không thể bắt gặp được những dòng văn tự
thú về lai lịch cuộc đời của chính tác giả
như: “Thầy tôi làm cai ngục, mẹ tôi con
nhà buôn bán…Hai thân tôi lấy nhau
không phải vì quen biết nhau lâu và thương
yêu nhau…” [1, tr.5]; “Tôi sinh vào giờ
Dần. Bà tôi lấy ngay cái giờ đó để đặt tên
cho tôi…Vừa mới lọt lòng mẹ, tôi đã là
đứa trẻ mồ côi… Khi cha tôi đã qua đời,
mẹ tôi để tôi ở lại với bà đi lấy chồng lần

thứ hai nữa” [8, tr.7-11]. Sự nhận thức có ý
thức này nhìn ở góc độ nào đó nó chính là
sản phẩm của văn hóa phương Tây nhưng
nếu như không có sự tiếp nối dòng chảy
của con người cá nhân trong văn học
truyền thống có lẽ nó cũng sẽ chẳng bao
giờ hình thành nên được một cái tôi tự
truyện trong tiểu thuyết Việt Nam chặng
đường nửa đầu thế kỷ XX.

3. Theo Quy ước tự truyện của
Philippe Lejeune, tự truyện là một dạng
văn xuôi tự sự do một người thật ngược
dòng thời gian kể lại đời mình, nhấn mạnh
tới cuộc sống cá nhân, đặc biệt là lịch sử
hình thành nhân cách [4]. Thế nên, miền
ký ức vẫn luôn là niềm trăn trở và nó đóng
vai trò vô cùng quan trọng đối với một tự
truyện. Vì khi người cầm bút có nhu cầu
đào bới chiều sâu bản thể, lẽ đương nhiên
họ sẽ ngược dòng thời gian, hồi tưởng lại
quá khứ để nhìn nhận lại quá trình hình
thành nhân cách. Vì vậy cho nên trong tự
truyện, người kể chuyện thường đứng ở
một thời điểm hiện tại để nhìn lại quá khứ
của mình tựa như một lối tìm về để hiểu rõ
mình hơn. Văn học thế giới cũng đã có rất
nhiều tự truyện mà ở đó quãng đời trong
quá khứ của mình được nhà văn lưu tâm
khám phá như: Đi tìm thời gian đã mất của
M. Proust, Tuổi thơ của N. Sarraute, Sống
để kể lại của G. Market, Thời thơ ấu, thời
niên thiếu của L. Tônxtôi, David
Compperfield của Charles Dickens, hay
Thời thơ ấu và Những trường đại học của
tôi của M. Gorki… Ở Việt Nam cũng thế,
phần lớn những tác phẩm tiểu thuyết mang
tính tự truyện ra đời trong chặng đường
nửa đầu thế kỉ XX đều tái hiện lại quãng
đời hằn in trong miền ký ức của các tác giả.

Điều này một phần nảy sinh từ đặc trưng
của thể tự truyện nhưng một phần cũng nảy
sinh từ hiện thực cuộc sống xã hội Việt
Nam buổi giao thời. Vì khi con người
mang nặng niềm hoài nghi, bi quan trước
114


NGUYỄN VĂN TỔNG

truyện không phải chỉ là đọc cuộc đời tác
giả mà là đi tìm trong cuộc đời ấy cả những
tầng ý nghĩa thấm đẫm nỗi nhân sinh toát
lên từ chính những mảnh đời riêng lẻ.
Hơn hai phần ba thế kỷ trôi qua, kể từ
ngày văn học Việt Nam đón nhận sự ra đời
của tiểu thuyết có tính chất tự truyện. Cho
đến hôm nay, trong bầu không khí thời đại
mới, khi mà nhịp chuyển của tiểu thuyết
vẫn không ngừng vận động, từng thế hệ
nhà văn luôn nối tiếp nhau, góp sức sáng
tạo để “làm mới” thể loại tiểu thuyết. Tuy
nhiên, những trang tiểu thuyết có tính chất
tự truyện ra đời trong chặng đường nửa đầu
thế kỷ XX vẫn chiếm một vị trí vô cùng
quan trọng đối với nền văn học hiện đại
Việt Nam. Sự hiện diện của thể loại tiểu
thuyết này không chỉ góp phần làm phong
phú thêm cho thể tiểu thuyết mà nó còn là
bước tạo đà để tiểu thuyết ngày một tiến xa

hơn trên con đường hội nhập.

thực tại thì quá khứ là một trong những nẻo
đường tìm về để thoát ly, chạy trốn hiện
tại. Hơn nữa, suốt cả hàng mười thế kỷ thời
trung đại, gần như con người với tư cách là
một cá nhân, một thực thể đơn nhất tồn tại
độc lập lại bị xem nhẹ trong bối cảnh xã
hội luôn để cao “chí” “tâm” “đạo”. Và giờ
đây, con người cá nhân, cá thể ấy đã được
thức tỉnh mạnh mẽ nên nó có nhu cầu tự
tìm lại mình để được “sống lại lần nữa” với
chính mình cho thỏa nỗi khát khao khẳng
định nhân vị. Thế nên, những tiểu thuyết
mang bóng dáng tự truyện nửa đầu thế kỷ
XX thường có khuynh hướng lội ngược
dòng, tìm về miền ký ức: Một ký ức tuổi
thơ của cậu bé Hồng hằn in dấu vết của
những tháng ngày cơ cực trong Những
ngày thơ ấu, một tuổi thơ đầy những thua
thiệt, sống trong nỗi dày vò cả thể xác lẫn
tinh thần của cậu bé Dần trong Sống nhờ
của Mạnh Phú Tư, hay đó là một miền ký
ức đè nặng nỗi đời áo cơm của người trí
thức nghèo tiểu tư sản trong Mực mài nước
mắt của Lan Khai và Sống mòn của Nam
Cao… Chính nhờ sự lội ngược dòng này
mà khi đến với những trang tiểu thuyết
giàu chất tự thuật người đọc mới có dịp
sống trong miền hiện thực vốn từ lâu đã

phong kín trong thẳm sâu tâm hồn từng
nhà văn. Và cũng nhờ thế mà góc khuất về
lai lịch cuộc đời tác giả cũng được hé mở
dưới lớp ngôn từ của tiểu thuyết.
Mặc dù hầu hết các tác phẩm này đều
lấy chất liệu từ hiện thực cuộc đời và vốn
sống, sự trải nghiệm của chính tác giả
nhưng nó không phải là con số cộng của
những sự kiện từng xảy ra trong đời tác giả
mà đó là cả quá trình nhà văn “rũ bỏ hết tất
cả lòng tự ái” để một lần được thành thật
với chính mình và với tha nhân. Thế nên,
đọc những tiểu thuyết có tính chất tự
Ngày nhận bài: 18/4/2017

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nguyên Hồng (1940), Những ngày thơ ấu,
Nxb Đời nay, Hà Nội.
2. Lan Khai (1998), Mực mài nước mắt,
Nxb Văn nghệ, TP. Hồ Chí Minh.
3. Phạm Ngọc Lan (2006), Tự truyện trong văn
học Việt Nam hiện đại, Luận văn Thạc sĩ, Đại
học Sư phạm TP. Hồ Chí Minh.
4. Philippe Lejeune (1975), Le Pacte
autobiographique, Seuil, Pais.
5. Phong Lê (2000), Nam Cao những tác phẩm
tiêu biểu trước 1945, Nxb Giáo dục, TP. Hồ
Chí Minh.
6. Lê Thanh (2002), Nghiên cứu và phê bình văn
học (Lại Nguyên Ân sưu tầm và biên soạn),

Nxb Hội Nhà văn – Trung tâm văn hoá ngôn
ngữ Đông Tây, Hà Nội.
7. Đỗ Đức Thu (1942), Bốc đồng, Nxb Nguyễn
Du, Hà Nội.
8. Mạnh Phú Tư (1983), Sống nhờ, Nxb Văn
học, Hà Nội.

Biên tập xong: 15/8/2017
115

Duyệt đăng: 20/8/2017



×